- 1Nghị định 88/2005/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã
- 2Luật các tổ chức tín dụng 2010
- 3Luật hợp tác xã 2012
- 4Quyết định 2277/2008/QĐ-UBND về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- 5Kết luận 56-KL/TW năm 2013 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể
- 6Quyết định 62/2013/QĐ-TTg chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 7Nghị quyết 142/2008/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- 8Luật đất đai 2013
- 9Nghị định 193/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật hợp tác xã
- 10Nghị quyết 09/2013/NQ-HĐND sửa đổi Nghị quyết 142/2008/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- 11Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT hướng dẫn về đăng ký hợp tác xã và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của hợp tác xã do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
- 12Quyết định 2261/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 2274/KH-UBND | Phú Thọ, ngày 18 tháng 6 năm 2015 |
KẾ HOẠCH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ 5 NĂM GIAI ĐOẠN 2016-2020 TỈNH PHÚ THỌTỈNH PHÚ THỌ
Phần thứ nhất
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ GIAI ĐOẠN 2011-2015
I. ĐÁNH GIÁ CHUNG:
1. Số lượng, doanh thu và thu nhập của hợp tác xã, tổ hợp tác
1.1. Hợp tác xã (HTX)
- Về số lượng: Giai đoạn từ 2011- 2015 trên địa bàn tỉnh có 77 HTX thành lập mới, 77 HTX giải thể. Dự kiến đến ngày 30/6/2015 toàn tỉnh có 466 hợp tác xã, trong đó 405 HTX đang hoạt động, 61 HTX tạm ngừng hoạt động. Có 124 HTX tổ chức hoạt động theo Luật HTX năm 2012. Dự kiến đến 31/12/2015 toàn tỉnh có 441 HTX giảm 3,3% so với năm 2011 (456 HTX), đạt 89,5% kế hoạch.
- Về doanh thu: Doanh thu bình quân năm 2011 đạt 1.155 triệu đồng/HTX, năm 2014 đạt 1.268 triệu đồng/HTX. Trong đó doanh thu của HTX với thành viên: 670 triệu đồng/HTX và doanh thu đối với thị trường bên ngoài thành viên: 598 triệu đồng/HTX. Dự kiến năm 2015 doanh thu bình quân đạt 1.591 triệu đồng/HTX, so với mục tiêu kế hoạch 2011-2015 đạt 119,5% kế hoạch.
- Về thu nhập: Lãi bình quân năm 2011: 51 triệu đồng/HTX, năm 2014 đạt 64 triệu đồng/HTX và dự kiến năm 2015 lợi nhuận đạt 71 triệu đồng/HTX, tăng 39% so với năm 2011. ([1])
1.2 Tổ hợp tác (THT)
- Về số lượng: Tính đến hết tháng 6/2015 toàn tỉnh có 1.468 tổ hợp tác đang hoạt động, trong đó: Lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp, thuỷ sản có 1.045 tổ hợp tác; Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có 102 tổ hợp tác; loại hình khác có 321 tổ hợp tác. Dự kiến năm 2015 toàn tỉnh có 1.488 THT tăng 14,46% so với năm 2011 (1.300 tổ), đạt 100,2% kế hoạch (1.485 THT), trong đó 104 THT có đăng ký hoạt động với chính quyền xã, phường, thị trấn.
- Về doanh thu: Doanh thu bình quân năm 2011 đạt 275 triệu đồng/THT, dự kiến năm 2015 đạt 417 triệu đồng/THT, đạt 152% so với năm 2011([2])
- Về thu nhập: Lãi bình quân năm 2011 là 20 triệu đồng/THT, dự kiến năm 2015 là 32 triệu đồng/THT, đạt 160% so với năm 2011.
2. Thành viên, lao động của HTX, tổ hợp tác
2.1 Hợp tác xã
Tổng số thành viên của HTX năm 2011: 158.796 người, dự kiến hết năm 2015: 153.025 người, giảm 3,7%, đạt 88% so với kế hoạch (173.859 người), trong đó số thành viên mới là 8.386 người.
Tổng số lao động làm việc thường xuyên trong HTX ước đến hết 2015 là 5.733 người, trong đó số lao động thường xuyên mới 455 người, số lao động là thành viên HTX 5.071 người.
Thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX năm 2011: 13 triệu đồng/người, dự kiến năm 2015: 19 triệu đồng/người, tăng 146% so với năm 2011.
2.2 Tổ hợp tác
Năm 2011 tổng số thành viên THT: 6.500 người, dự kiến năm 2015: 7.440 người tăng 114 % so với năm 2011, trong đó số thành viên mới 520 người.
Thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong THT năm 2015 ước đạt 16 triệu đồng/người/năm, tăng 18,5 % so với năm 2011 (13,5 triệu đồng/người/năm).
3. Về trình độ cán bộ quản lý hợp tác xã, tổ hợp tác
Tổng số cán bộ quản lý HTX năm 2011: 1.948 người, dự kiến hết năm 2015 tổng số cán bộ quản lý HTX là 2.020 người tăng 3,54% so với năm 2011; trong đó cán bộ đạt trình độ sơ, trung cấp 1.042 người, tăng 87,4% so với năm 2011 (556 người); trình độ cao đẳng, đại học 292 người, tăng 57,8% so với năm 2011 (185 người). So mục tiêu kế hoạch 2011-2015 đạt 100%.
(Chi tiết theo phụ biểu 01 kèm theo)
II. ĐÁNH GIÁ THEO LĨNH VỰC
1. Lĩnh vực nông-lâm nghiệp, thuỷ sản
Số lượng HTX nông lâm ngư nghiệp trên địa bàn tỉnh tính đến hết tháng 6/2015 có 272 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; ước giai đoạn 2011-2015 thành lập mới 36 HTX, đạt 112,5% so với mục tiêu kế hoạch giai đoạn 2011-2015. Dự kiến cuối năm 2015 có 276 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, giảm 0,7% so với năm 2011.
Theo loại hình hoạt động: Có 259 HTX hoạt động về trồng trọt, chăn nuôi; 13 HTX thủy sản; Doanh thu bình quân của HTX nông lâm ngư nghiệp năm 2015 ước đạt: 1.020 triệu đồng, đạt 134,2% kế hoạch giai đoạn 2011-2015 (doanh thu tăng một phần do kinh phí nhà nước cấp bù thủy lợi phí tăng và từ hoạt động kinh doanh dịch vụ điện năng đối với các HTX nông nghiệp điện năng). Lợi nhuận bình quân ước đạt: 20 triệu đồng/HTX/năm, đạt 59% so với kế hoạch giai đoạn 2011-2015.
Tổng số thành viên HTX nông nghiệp là 94.834 thành viên, đạt 100,2% so với kế hoạch; số thành viên mới gia nhập 545 thành viên; số thành viên rút khỏi HTX 156 thành viên. Có 3.839 lao động làm việc thường xuyên trong HTX nông lâm ngư nghiệp, đạt 99,4% so với kế hoạch; trong đó 100% lao động làm việc thường xuyên trong HTX là thành viên. Năm 2015, thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX lĩnh vực nông lâm nghiệp ước đạt 14,0 triệu đồng/người.
Tổng số cán bộ quản lý HTX trong lĩnh vực này là 890 người. Trong đó: số cán bộ quản lý HTX có trình độ đại học 128 người, chiếm 14,4%; cao đẳng, trung cấp 399 người, chiếm 44,8%; sơ cấp 179 người, chiếm 20,1%; chưa qua đào tạo 184 người, chiếm 20,7%.
Các HTX chủ yếu hoạt động là tổ chức dịch vụ sản xuất cho xã viên gồm các khâu: Làm đất, thủy lợi, giống cây trồng vật nuôi, phân bón, bảo vệ thực vật, bảo vệ sản xuất, dịch vụ vệ sinh môi trường và dịch vụ điện năng. Có 45 HTX làm từ 4 dịch vụ trở lên còn lại là từ 1- 3 dịch vụ. Nhìn chung các HTX nông lâm ngư nghiệp quy mô còn nhỏ, vốn, tài sản ít (bình quân 815 triệu đồng/HTX) nên việc duy trì các hoạt động của HTX trong lĩnh vực này khá ổn định, tài sản vốn được bảo toàn tăng cường qua các năm và có lãi. Bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có nhiều đổi mới; xác định rõ tư cách thành viên; tính dân chủ được phát huy, thành viên được thảo luận và quyết định phương án, kế hoạch sản xuất kinh doanh; tài chính được công khai; HTX đã thu hút được trên 90% số hộ sản xuất nông nghiệp, tổ chức các dịch vụ phục vụ sản xuất, là đầu mối tiếp nhận, chuyển giao, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật; làm tốt chức năng hỗ trợ cho kinh tế hộ phát triển, góp phần chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nông thôn, ổn định đời sống kinh tế - xã hội trong khu vực nông thôn.
2. Lĩnh vực công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp
Hết tháng 6/2015, có 45 HTX hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp với tổng số thành viên là 16.445 người (trong đó lao động thường xuyên 764 người). Doanh thu đạt 20 tỷ đồng/HTX. Lợi nhuận bình quân đạt 35 triệu đồng/HTX; Thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX ước đạt 19 triệu đồng/người/năm.
Giai đoạn 2011-2015, các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã tích cực đầu tư đổi mới, liên doanh, liên kết, tìm thị trường tiêu thụ mới. Từng bước tổ chức sắp xếp bộ máy lại cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh, thực hiện cơ chế khoán sản phẩm đến người lao động. Do đó, năng suất, chất lượng sản phẩm nâng lên rõ rệt. Sản phẩm chủ yếu của các HTX bước đầu được thị trường trong và ngoài nước chấp nhận như: thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, đồ mộc dân dụng, hoá chất, các sản phẩm từ giấy… Một số HTX từ chỗ phải xuất khẩu hàng hóa qua trung gian đến nay đã trực tiếp xuất khẩu sản phẩm, giá trị xuất khẩu cao như hợp tác xã thủ công mỹ nghệ Phú Thọ, hợp tác xã giấy Phù Ninh…
Tổ hợp tác hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có 102 tổ hợp tác; Thu nhập bình quân một lao động trong THT loại hình này ước đạt 18 triệu đồng/người/năm.
3. Lĩnh vực tín dụng
Tính đến thời điểm báo cáo, trên địa bàn tỉnh có 35 quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đang hoạt động (có 03 huyện, thị chưa có loại hình quỹ tín dụng là Tân Sơn, Tam Nông và Thị xã Phú Thọ). Năm 2015, dự kiến thành lập mới 01 Quỹ tín dụng. Các quỹ tín dụng nhân dân đã thu hút được 47.360 thành viên tăng 10.119 thành viên so với năm 2011, tăng bình quân 1.758 thành viên/năm. Tổng số lao động làm việc tại quỹ là 385 người. Có 105 cán bộ quản lý trong đó trình độ trung cấp là 35 người, cao đẳng, đại học trở lên là 70 người.
Tổng doanh thu của các Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở 6 tháng năm 2015 ước đạt 249 tỷ đồng, bình quân 7,1 tỷ đồng/quỹ tín dụng/năm. Lợi nhuận bình quân ước đạt 650 triệu đồng, thu nhập bình quân người lao động làm việc thường xuyên trong HTX là 85 triệu đồng/người/năm.
Tổng vốn điều lệ của các Quỹ là 89,7 tỷ đồng, so với năm 2011 tăng 54 tỷ đồng; Tổng nguồn vốn ước đạt 1.776 tỷ đồng, so với năm 2011 tăng 1/044 tỷ đồng, tăng bình quân 31,01%/năm. Dư nợ cho vay đạt 1.915 tỷ đồng, nợ xấu 10,3 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của hệ thống QTDND cơ sở là 0,54%. Toàn bộ 35/35 quỹ đều hoạt động kinh doanh có lãi, năm sau cao hơn năm trước. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với nhà nước và người lao động, thực hiện trích lập các quỹ và chia cổ tức cho các thành viên đúng quy định. Đến nay có 30/35 quỹ đã xây dựng được trụ sở làm việc đảm bảo hoạt động thuận tiện, an toàn. Trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, nhân viên QTD được nâng lên rõ rệt, thành viện HĐQT có có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 41,5%, trung cấp chiếm 58,5%. Ban kiểm soát có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 52%, trung cấp chiếm 48%. Cán bộ nghiệp vụ có trình độ đại học, cao đẳng chiếm 39,7%, trung cấp chiếm 60,3%.
Hiện nay, Quỹ TDND cơ sở là loại hình hợp tác xã có hiệu quả cao nhất so với các loại hình HTX. Đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội và an ninh chính trị của địa phương, góp phần tích cực trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo, đảm bảo an sinh xã hội. Mặt khác, do đặc điểm của Quỹ tín dụng nhân dân là tổ chức hoạt động tín dụng, ngành nghề kinh doanh có điều kiện, chịu sự chi phối của hai luật (Luật Hợp tác xã, Luật các tổ chức tín dụng) với sự quản lý và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước. Tuy nhiên hoạt động của quỹ tín dụng nhân dân cũng gặp nhiều khó khăn như: lãi suất huy động và cho vay liên tục thay đổi, tỷ lệ vốn huy động thành viên chưa đáp ứng, vẫn còn phải huy động từ nguồn khác với lãi xuất cao, nội lực nhỏ, tính thanh khoản yếu, vẫn còn nợ xấu…
4. Lĩnh vực khác:
4.1. Lĩnh vực điện năng
Số lượng hợp tác xã điện năng trên địa bàn đến hết tháng 6/2015 là 17 HTX. Số lượng thành viên tham gia 191 người, số lao động làm việc thường xuyên 65 người. Doanh thu bình quân năm 2015 ước đạt 2.000 triệu đồng/HTX, lợi nhuận bình quân đạt 19 triệu đồng/HTX. Thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong HTX đạt 14 triệu đồng/người/năm.
Đến nay các HTX dịch vụ điện năng đủ điều kiện kinh doanh vẫn duy trì và đảm bảo hiệu quả hoạt động. Một số HTX mạnh dạn huy động vốn góp của thành viên, của các tổ chức khác để đầu tư cải tạo đường dây, nâng cao chất lượng điện sinh hoạt, giá bán điện đến hộ gia đình theo đúng quy định của nhà nước tạo niềm tin cho các hộ sử dụng điện. Tuy nhiên, một số HTX điện năng vẫn còn gặp nhiều khó khăn do nguồn vốn có hạn, HTX chưa dám huy động vốn để cải tạo nâng cấp lưới điện. Dự kiến đến năm 2020, toàn bộ loại hình HTX kinh doanh dịch vụ điện sẽ bàn giao cho ngành điện quản lý, vì vậy các HTX trên sẽ phải khẩn trương có phương án chuyển đổi, mở rộng ngành nghề kinh doanh trong thời gian tới.
4.2 Lĩnh vực khác
Tính đến hết tháng 6/2015, trên địa bàn tỉnh có 36 HTX hoạt động trong lĩnh vực khác. Trong đó 06 HTX xây dựng; 15 HTX thương mại và các dịch vụ khác; 04 HTX vận tải; 10 HTX dịch vụ khác. Số lượng thành viên tham gia 540 người. Với doanh thu bình quân 900 triệu đồng/HTX/năm, lợi nhuận bình quân 19 triệu đồng/HTX/năm, thu nhập bình quân người lao động làm việc thường xuyên 14 triệu đồng/người/năm. Các HTX hoạt động trong lĩnh vực xây dựng, vận tải, vệ sinh môi trường, ... đều duy trì sản xuất kinh doanh ổn định, đảm bảo việc làm thu nhập cho người lao động và các thành viên. Hoạt động của các HTX vận tải chủ yếu mang tính dịch vụ bến bãi và kinh doanh vận tải hành khách, hàng hóa. Tuy nhiên, quy mô còn nhỏ, thiếu vốn đầu tư nên chưa dám mạnh dạn mở rộng sản xuất, kinh doanh, đầu tư máy móc thiết bị. Lao động chủ yếu là lao động thủ công, không có tay nghề cao, chưa qua đào tạo nên thu nhập còn thấp, đời sống lao động chưa được cải thiện.
III. NHỮNG THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN VÀ NGUYÊN NHÂN
1. Thuận lợi
Nhận thức của Cấp ủy, Chính quyền, các tổ chức đoàn thể nhân dân, cũng như nhận thức của cán bộ, đảng viên, cán bộ quản lý HTX và thành viên HTX về Kinh tế tập thể bước đầu đã có những chuyển biến tích cực.
Các HTX đã chú trọng củng cố, phát triển, nhiều hợp tác xã đã chuyển đổi theo luật HTX 2012. Nhiều HTX đã tích cực đầu tư theo chiều sâu, tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị. Thành lập nhiều HTX thuộc lĩnh vực, ngành nghề mới, đa dạng về đối tượng tham gia. Khu vực kinh tế tập thể là kênh huy động các nguồn lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề, xây dựng nông thôn mới, đã quan tâm hỗ trợ cho thành viên HTX khi gặp khó khăn, đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội, nhất là khu vực nông thôn; góp phần xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, ổn định an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Các tổ hợp tác hình thành rất phong phú và đa dạng theo nhu cầu liên kết của các thành viên; hoạt động của THT chủ yếu là giúp đỡ, tương trợ nhau trong sản xuất và bước đầu đã khắc phục được một số mặt yếu kém của kinh tế hộ đơn lẻ như: thiếu vốn, công cụ, kỹ thuật, nhân lực và kinh nghiệm sản xuất. Giúp các hộ tổ viên sử dụng có hiệu quả hơn về đất đai, lao động, vật tư và tiền vốn; là cơ sở để phát triển HTX.
Công tác quản lý nhà nước về Kinh tế tập thể bước đầu đã được các cấp, các ngành chú trọng. Công tác tổ chức triển khai Luật Hợp tác xã năm 2012 và các Chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể được quan tâm thực hiện.
Bộ máy theo dõi, chỉ đạo phát triển KTTT từ tỉnh tới huyện đã được quan tâm, củng cố; cơ sở vật chất, điều kiện làm việc được đảm bảo; đội ngũ cán bộ được trẻ hóa, có trình độ và được bồi dưỡng, đào tạo từng bước đáp ứng yêu cầu công việc; Hoạt động của Liên minh HTX ngày càng thiết thực, hiệu quả và thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao; được Tỉnh ủy, HĐND, UBND tỉnh, các sở ngành, địa phương, các đơn vị liên quan và các HTX ghi nhận, góp phần tích cực vào việc củng cố, phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
2. Khó khăn
Nội lực HTX nhìn chung còn yếu, quy mô dịch vụ nhỏ, thiếu ổn định, năng lực cạnh tranh yếu; nhiều HTX chưa có trụ sở làm việc, tài sản chưa rõ ràng về sở hữu; còn nhiều HTX chưa xử lý dứt điểm công nợ, một số HTX phát sinh nợ mới. Hầu hết các HTX còn gặp nhiều khó khăn về nguồn lực, kinh nghiệm tham gia thị trường, sự gắn kết của xã viên với HTX ở một số nơi còn hạn chế. HTX tiểu thủ công nghiệp vừa phát triển chậm về số lượng, thiếu nguồn lực đầu tư để nâng cao năng lực sản xuất, đa dạng sản phẩm, mẫu mã. Các chương trình, dự án hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, củng cố, mở rộng sản xuất kinh doanh chưa được triển khai đến các thành phần kinh tế tập thể và hiệu quả chưa cao.
Hầu hết các HTX, THT mới chủ yếu làm các dịch vụ, hỗ trợ đầu vào cho quá trình sản xuất (cung cấp cây, con giống) (chiếm trên 95% tổng số HTX, THT hiện có), chưa có nhiều HTX, THT làm dịch vụ, hỗ trợ đầu tư cho quá trình sản xuất (khâu thu gom, bán sản phẩm); nắm bắt thông tin thị trường còn nhiều hạn chế.
Một số cấp ủy, chính quyền chưa quan tâm đúng mức đến công tác đổi mới và phát triển nâng cao hiệu quả KTTT. Thiếu kiểm tra, uốn nắn việc tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch đã ban hành; chưa chú trọng chỉ đạo sơ kết, tổng kết hàng năm.
Các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ HTX thực hiện chậm hoặc chưa được triển khai thực hiện, hiệu quả còn hạn chế; việc tiếp cận các nguồn vốn và các chính sách hỗ trợ của các HTX vẫn còn khó khăn chủ yếu do vướng mắc về tài sản thế chấp; xây dựng thương hiệu sản phẩm và mở rộng thị trường, tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế.
Việc giao đất công ích 5% cho các HTX dịch vụ nông nghiệp sử dụng để ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn chậm, chưa đạt yêu cầu đề ra.
Công tác tư vấn, hỗ trợ đối với HTX có mặt còn hạn chế, chưa có các cơ chế thỏa đáng để đáp ứng một cách toàn diện theo yêu cầu hoạt động thực tế của HTX; số lượng HTX được tư vấn trực tiếp chưa nhiều.
Đội ngũ cán bộ quản lý THT, HTX nhìn chung còn hạn chế về trình độ và năng lực, chưa thu hút được cán bộ có trình độ cao về phục vụ HTX.
3. Nguyên nhân
- Nguyên nhân khách quan
Kinh tế hộ và kinh tế trang trại phát triển chưa mạnh nên nhu cầu hợp tác chưa cao. Ruộng đất manh mún, cơ sở vật chất của hợp tác xã yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hóa.
Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước chậm được cụ thể hóa đến các cơ sở kinh tế tập thể, mặt khác thiếu đồng bộ, một số chính sách khó áp dụng (đất đai, vốn...). Một số HTX chưa có đất để xây dựng trụ sở và cơ sở sản xuất kinh doanh, nhiều nơi hoạt động trong phạm vi trụ sở UBND xã. Tỷ lệ HTX được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất chưa cao.
- Nguyên nhân chủ quan
Nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về kinh tế tập thể còn hạn chế; chưa quan tâm đúng mức đến công tác đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể; chậm xử lý những tồn tại, vướng mắc của hợp tác xã; những khó khăn, vi phạm đến lợi ích hợp pháp của hợp tác xã chậm được khắc phục.
Hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về hợp tác xã chưa được quan tâm củng cố nên vừa thiếu lại vừa yếu; tổ chức cán bộ, điều kiện hoạt động của bộ máy quản lý hợp tác xã chuyên trách từ tỉnh đến huyện còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu.
Năng lực, trình độ của của đội ngũ cán bộ hợp tác xã còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng được nhu cầu, nhiệm vụ đề ra; thu nhập của cán bộ quản lý hợp tác xã còn thấp nên không thu hút được cán bộ chuyên môn có năng lực về tham gia quản lý và điều hành hợp tác xã.
Các HTX chưa có trụ sở chưa chủ động liên hệ với chính quyền địa phương để đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, chưa chủ động đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Quỹ đất công ích nhiều nơi phân tán, manh mún. Nhiều nơi đã giao khoán quỹ đất công ích cho các hộ dân và thu tiền sử dụng đất một lần nên khó thu hồi để giao lại cho các HTX nông nghiệp sử dụng. Nhiều HTX chưa xây dựng phương án sản xuất kinh doanh và có kế hoạch cụ thể về việc sử dụng đất công ích. Nhiều diện tích đất công ích khó canh tác, xa khu dân cư, chất lượng đất xấu.
Một bộ phận cán bộ xã viên vẫn còn tư tưởng ỷ lại, trông chờ vào bao cấp của nhà nước, chưa thực sự cố gắng vươn lên.
IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ
1. Kết quả triển khai Luật và các văn bản hướng dẫn
Giai đoạn 2011- 2015, Trung ương đã ban hành nhiều văn bản như: Kết luận số 56- KL/TW ngày 21/2/2013 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT; Luật HTX 2012 có hiệu lực từ 1/7/2013; Nghị định số 193/2013/NĐ- CP ngày 21/11/2013 của Chính Phủ quy định chi tiết một số điều của Luật HTX; Thông tư số 03/2014/TT- BKHĐT ngày 26/5/2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hướng dẫn về đăng ký HTX và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của HTX; Thông qua các giải pháp đồng bộ và tích cực, công tác quán triệt, triển khai thực hiện các văn bản của Trung ương được thực hiện có hiệu quả, nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp và cán bộ, Đảng viên và nhân dân về vai trò, ý nghĩa của việc đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể từng bước được nâng lên và phát huy tác dụng khuyến khích, hỗ trợ cho việc hình thành, chuyển đổi và phát triển KTTT.
Tỉnh uỷ, HĐND, UBND đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo về kinh tế tập thể như: Thông báo số 892- TB/TU ngày 04/7/2013 của Thường trực Tỉnh ủy về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết TW5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể gắn với triển khai thực hiện Luật HTX năm 2012; Nghị quyết số 09/2013/NQ-HĐND ngày 13/12/2013 về sửa đổi, bổ sung Nghị quyết số 142/2008/NQ-HĐND ngày 22/7/2008 của Hội đồng nhân dân tỉnh về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh; văn bản số 2823/UBND-KT5 ngày 25/7/2013 của UBND tỉnh về tiếp tục chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX; Kế hoạch số 2091/KH- UBND ngày 11/6/2013 của UBND tỉnh về phát triển kinh tế tập thể tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2013-2015, định hướng đến năm 2020, văn bản số 3263/UBND- KT5 ngày 16/8/2013 về giao nhiệm vụ chỉ đạo, xử lý một số kiến nghị của các HTX trên địa bàn tỉnh; Quyết định số 621/QĐ- UBND, ngày 19/3/2014 về kiện toàn Ban đổi mới và phát triển KTTT tỉnh Phú Thọ; Ban đổi mới và phát triển kinh tế tập thể đã xây dựng chương trình hoạt động của Ban, xây dựng kế hoạch và tổ chức kiểm tra hàng năm đối với cấp huyện và cơ sở. Đây là căn cứ để các cấp, các ngành trong tỉnh triển khai thực hiện đẩy mạnh phát triển KTTT, thể hiện sự quan tâm, nghiêm túc trong công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện các ngành, góp phần tích cực vào sự phát triển KT- XH của tỉnh.
2. Công tác quản lý nhà nước về KTTT
Công tác quản lý nhà nước về KTTT giai đoạn 2011-2015 được tăng cường. Ngày 19/03/2014, UBND tỉnh Phú Thọ đã ban hành văn bản số 621/QĐ-UBND về kiện toàn Ban đổi mới và phát triển kinh tế tập thể tỉnh Phú Thọ, văn bản số 1015/BĐM-KT5 ngày 21/03/2014 về việc phân công nhiệm vụ các thành viên Ban đổi mới và phát triển kinh tế tập thể tỉnh Phú Thọ. Ban đổi mới cấp huyện cũng được thường xuyên kiện toàn, xây dựng kế hoạch hoạt động cụ thể, phân công rõ trách nhiệm các thành viên gắn với địa bàn phụ trách, theo dõi, quản lý và hỗ trợ kinh tế tập thể phát triển, giải quyết các khó khăn, vướng mắc trong hoạt động cũng như thực hiện các quy định của pháp luật về Hợp tác xã trên địa bàn.
Hằng năm, Ban Đổi mới và phát triển KTTT của tỉnh đã xây dựng kế hoạch và tiến hành kiểm tra ở cấp huyện và cơ sở nhằm đánh giá công tác chỉ đạo, điều hành và kết quả củng cố, phát triển KTTT ở các địa phương. Đồng thời, tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị có liên quan thường xuyên tổng hợp, theo dõi kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh; đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển KTTT có hiệu quả như: chính sách hỗ trợ về đất đai, khuyến công, khuyến nông, xây dựng nông thôn mới, nguồn vốn cho các HTX sản xuất kinh doanh,… Thực hiện các mô hình thí điểm và nhân rộng các mô hình HTX phát triển có hiệu quả.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện, vẫn còn bộc lộ một số tồn tại trong công tác quản lý nhà nước về KTTT như: Một số cơ quan quản lý nhà nước chưa thực sự quan tâm đến HTX, không thường xuyên kiểm tra, uốn nắn việc tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch đã ban hành. Chậm xử lý những tồn tại, vướng mắc của HTX chuyển đổi. Những khó khăn, vi phạm đến lợi ích hợp pháp của HTX chậm được khắc phục, còn có tư tưởng ỷ nại vào cơ quan quản lý cấp trên.
Nguyên nhân một phần do nhận thức của một số cấp uỷ, chính quyền về KTTT còn nhiều hạn chế, chưa tích cực được quan tâm đúng mức đến củng cố phát triển HTX. Mặt khác, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về KTTT còn nhiều khó khăn, điều kiện hoạt động của bộ máy quản lý HTX chuyên trách từ tỉnh đến huyện còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu. UBND tỉnh đã chỉ đạo Chi cục Phát triển nông thôn, Liên minh hợp tác xã tỉnh và các sở, ngành có liên quan theo dõi kinh tế tập thể theo lĩnh vực quản lý nhà nước của ngành; đồng thời giao nhiệm vụ cho Sở Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối theo dõi tổng hợp kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh. Tuy nhiên, cán bộ theo dõi, quản lý kinh tế tập thể còn ít; ở cấp huyện, xã hầu hết là kiêm nhiệm, trình độ năng lực còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý.
Giai đoạn 2011-2015, công tác quản lý nhà nước đối với HTX trên địa bàn vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Hoạt động phối hợp giữa các ngành để việc hướng dẫn, giải quyết tháo gỡ khó khăn vướng mắc của HTX chưa nhịp nhàng và kịp thời. Bên cạnh đó, các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ HTX thực hiện còn chậm, một số chính sách chưa được triển khai thực hiện, hiệu quả còn hạn chế; một số chính sách khó áp dụng (đất đai, vốn...). Một số quy định chưa có hướng dẫn của các Bộ, Ngành Trung ương nên còn lúng túng trong công tác chỉ đạo, thực hiện. Đa phần cán bộ quản lý, thành viên HTX, THT vẫn còn ảnh hưởng nhất định lối tư duy của thời kỳ bao cấp, chưa đáp ứng đầy đủ yêu của nền kinh tế thị trường
3. Kết quả triển khai chính sách hỗ trợ, ưu đãi HTX
Giai đoạn 2011-2015, các chính sách liên quan đất đai, tài chính, tín dụng, đào tạo cán bộ nói chung và HTX nói riêng thay đổi so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, các cấp, các ngành đã triển khai thực hiện đúng theo các quy định của Trung ương, của tỉnh; nhiều vấn đề vướng mắc, tồn tại được xem xét giải quyết, tạo được lòng tin của cán bộ xã viên và người lao động trong HTX đối với đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; cụ thể:
a. Hỗ trợ thành lập HTX mới.
Từ năm 2011 đến nay, UBND tỉnh Phú Thọ đã ban hành quyết định hỗ trợ 109 HTX thành lập mới với số tiền 1.188 triệu đồng. Dự kiến năm 2015 hỗ trợ 15 HTX thành lập mới với số tiền 160 triệu đồng.
b. Thực hiện chính sách cán bộ và nguồn nhân lực.
Tổ chức bồi dưỡng kỹ năng xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, nghiệp vụ kế toán, tập huấn Luật HTX năm 2012, các văn bản hướng dẫn của Trung ương, của tỉnh về phát triển kinh tế tập thể cho 4.442 lượt cán bộ là chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc, kế toán trưởng, cán bộ nghiệp vụ HTX;
Chỉ đạo Liên minh HTX tỉnh phối hợp với Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn mở 11 lớp tập huấn nghiệp vụ quản lý, khai thác công trình thuỷ lợi cho 594 cán bộ công tác quản lý, vận hành công trình thuỷ lợi của các HTX thuộc 13 huyện, thành, thị; Hỗ trợ đào tạo từ trung cấp đến thạc sỹ cho 314 lượt cán bộ HTX. Tổng kinh phí hỗ trợ cho công tác đào tạo, bồi dưỡng giai đoạn 2011-2015 là 4.017 triệu đồng.
c. Thực hiện chính sách hỗ trợ đất đai:
Đến thời điểm này, các địa phương đã giao đất công ích 5% cho 50 HTX với diện tích 824,65 ha với 9.499 thửa đất, chiếm 7,3% diện tích đất công ích trên địa bàn, cụ thể đất trồng lúa 384,97 ha (chiếm 9,25 tổng diện tích đất trồng lúa thuộc quỹ đất công ích); Đất nuôi trồng cây hàng năm khác là 122,8 ha (chiếm 4,62 % tổng diện tích đất trồng cây hàng năm thuộc quỹ đất công ích); Đất trồng cây lâu năm là 97,57 ha (chiếm 4,09% tổng diện tích đất trồng cây lâu năm khác thuộc quỹ đất công ích); Đất nuôi trồng thủy sản là 219,31ha (chiếm 10,72 % tổng diện tích đất nuôi trồng thủy sản thuộc quỹ đất công ích).
Tính đến thời điểm này, UBND tỉnh đã giao đất cho 86 tổ chức kinh tế tập thể, HTX có nhu cầu sử dụng đất vào mục đích xây dựng trụ sở, nhà giới thiệu sản phẩm, làm mặt bằng sản xuất kinh doanh, nuôi trồng thủy sản, khai thác cát sỏi. Diện tích đất đã giao là 1.782.817,8m2. Trong đó: giao đất không thu tiền sử dụng đất cho 09 HTX với diện tích 10.666,3 m2, cho 77 HTX thuê đất có thu tiền sử dụng đất với diện tích 1.772.151,4m2 m2, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 41 đơn vị KTTT, HTX.
d. Thực hiện xây dựng Quỹ hỗ trợ phát triển HTX:
Tổng số các dự án của các THT, HTX được xem xét cho vay 120 dự án với doanh số cho vay là 14.840 triệu đồng;
Ngoài ra Quỹ quay vòng cho vay 92 dự án với doanh số cho vay là 5.830 triệu đồng; Quỹ giải quyết việc làm (Quỹ 120) cho vay 20 dự án với doanh số là 1.881 triệu đồng.
Phần thứ hai
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ GIAI ĐOẠN 2016-2020
I. MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN KTTT GIAI ĐOẠN 2016-2020
1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn
a. Thuận lợi
Các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước như: Luật HTX 2012; Nghị định số 193/2013/NĐ- CP ngày 21/11/2013 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật HTX; Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ngày 25/10/2013 về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác xã; Quyết định 2261-QĐ/TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng chính phủ về Phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020 và một số thông tư, hướng dẫn, kế hoạch, chương trình hành động về KTTT của các bộ, ngành, tỉnh ngày càng được hoàn thiện tạo hành lang pháp lý cho KTTT phát triển. Xu hướng liên kết các loại hình kinh tế trong quá trình sản xuất kinh doanh của ngày càng tăng là động lực thúc đẩy KTTT phát triển. KTTT trong giai đoạn tới sẽ cùng với các thành phần kinh tế khác sẽ ngày càng khẳng định vai trò quan trọng, góp phần trong việc phát triển KT-XH, giữ vững an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
Ở địa phương, phát triển KTTT tiếp tục nhận được sự quan tâm lãnh, chỉ đạo của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh, các sở, ngành liên quan và các cấp ủy, chính quyền các huyện, thành, thị.
b. Khó khăn
Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính Phủ về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX đã hết hiệu lực, chưa có Nghị định mới. Chính sách hỗ trợ phát triển KTTT của tỉnh còn chậm, thiếu đồng bộ, nhiều HTX chưa tiếp cận được các chính sách đã được ban hành.
Phần lớn các HTX quy mô còn nhỏ, thiếu vốn, cơ sở vật chất nghèo nàn, hiệu quả kinh doanh thấp, thu nhập của cán bộ, xã viên chưa cao.
Trình độ cán bộ quản lý HTX chưa đáp ứng yêu cầu của công việc. Việc thu hút cán bộ có năng lực về làm việc tại khu vực này rất khó khăn.
Tình hình kinh tế thế giới, trong nước có nhiều biến động, giá cả, lạm phát tăng cao ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình sản xuất kinh doanh của khu vực KTTT.
2. Mục tiêu tổng quát
Phát triển KTTT với nòng cốt là HTX đúng bản chất, yêu cầu của Luật HTX năm 2012, đáp ứng nhu cầu của thành viên và phát triển bền vững; góp phần đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ 12, Nhiệm kỳ 2015-2020, đặc biệt là đối với nông nghiệp và nông thôn. Phấn đấu đến năm 2020 khu vực KTTT, HTX có vị trí và vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh trật tự an toàn xã hội trên địa bàn toàn tỉnh.
3. Định hướng chung về phát triển kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh
Phát triển KTTT trở thành một bộ phận cấu thành vững chắc của nền kinh tế quốc dân theo tinh thần Nghị quyết hội nghị lần thứ 5, BCH TW Đảng khoá IX.
Quan tâm củng cố, khắc phục những yếu kém của các HTX, tạo điều kiện cho các HTX phát triển; mở rộng nội dung, đa dạng hình thức hoạt động, thành lập mới, xây dựng và phát triển KTTT trên tất cả các lĩnh vực, ngành nghề. Phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh liên doanh, liên kết tăng hiệu quả hoạt động; liên kết chặt chẽ giữa phát triển sản xuất gắn với thị trường, chế biến, tiêu thụ sản phẩm. Quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ HTX. Xây dựng và thực hiện kịp thời, hiệu quả các chính sách hỗ trợ để các đơn vị KTTT phát triển, thể hiện rõ bản chất của HTX theo luật hiện hành; đóng góp hiệu quả vào việc giữ vững an ninh, ổn định chính trị và phát triển KT- XH trên địa bàn.
Phát triển KTTT phải lấy lợi ích kinh tế làm chính, bao gồm lợi ích của các thành viên và lợi ích tập thể, đồng thời coi trọng lợi ích xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, tiến lên làm giàu cho các thành viên, phát triển cộng đồng. Tiếp tục phát triển KTTT trong các ngành, các lĩnh vực, địa bàn, trong đó trọng tâm là ở khu vực nông nghiệp, nông thôn. Phát triển KTTT trong nông nghiệp, nông thôn phải trên cơ sở đảm bảo quyền tự chủ của kinh tế hộ, trang trại, hỗ trợ đắc lực cho kinh tế hộ, trang trại phát triển gắn với tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn, không ngừng phát triển sản xuất, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế.
Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước trong tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT. Thực hiện các chính sách hỗ trợ KTTT của Nhà nước đã ban hành; phát huy vai trò của Liên minh HTX, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc vận động, tuyên truyền quần chúng tham gia phát triển KTTT và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Phát triển KTTT phải xuất phát từ nhu cầu thực tế, phù hợp với đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng địa phương theo phương châm tích cực nhưng vững chắc, đi từ thấp đến cao, đạt hiệu quả thiết thực, tránh hình thức, gò ép và buông lỏng quản lý.
4. Một số mục tiêu cụ thể:
- Hàng năm, đóng góp vào GDP của các hợp tác xã và tổ hợp tác đạt 1% -2% GDP toàn tỉnh.
- Số lượng HTX thành lập mới bình quân hàng năm từ 10 - 15 HTX và 10 - 15 THT có chứng thực của UBND xã; riêng HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp phấn đấu đến năm 2020 có 290 - 300 HTX, thu nhập tăng gấp 1,5 lần so với năm 2015.
- Phấn đấu đến năm 2020, mỗi huyện, thành, thị có 3-5 HTX dịch vụ tổng hợp điển hình hoạt động có hiệu quả theo Luật HTX 2012; đến năm 2020 có trên 70% số HTX hoạt động có hiệu quả, trung bình 30%, không có HTX yếu kém.
- Tốc độ tăng doanh thu bình quân hàng năm đạt 11%, đến năm 2020 tổng doanh thu các HTX đạt hơn 1.000 tỷ đồng, doanh thu bình quân HTX 2.030 triệu đồng/HTX/năm, bình quân 1 tổ hợp tác đạt 500 triệu đồng/năm.
- Hàng năm bồi dưỡng đào tạo trên 1.000 lượt cán bộ quản lý HTX và THT, đạt 100% kế hoạch hàng năm.
- 100% các HTX được chuyển đổi tổ chức hoạt động theo Luật HTX năm 2012.
- Tiếp tục duy trì mỗi năm thực hiện và phát hành 06-10 số Bản tin kinh tế tập thể phục vụ công tác thông tin tuyên truyền. Phát huy hiệu quả trang thông tin điện tử của Liên minh HTX tỉnh nhằm tuyên truyền sâu, rộng hơn nữa các quy định về HTX từ TW đến địa phương. Mỗi năm tổ chức một hội nghị tuyên truyền về KTTT ở mỗi cấp tỉnh, huyện và xã.
- 100% Ban đổi mới các cấp được kiện toàn nhằm tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền các giải pháp quản lý, hỗ trợ nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT theo mục tiêu, nhiệm vụ của tỉnh đề ra.
- Phấn đấu đến năm 2020 nâng mức vốn điều lệ của Quỹ hỗ trợ phát triển HTX của tỉnh lên 15 tỷ, tích cực hỗ trợ thiết thực cho các HTX, THT vay vốn từ quỹ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Thu nhập bình quân của người lao động trong HTX đạt 24 triệu đồng/năm; thành viên tổ hợp tác 18 triệu đồng/năm.
- Tỷ lệ cán bộ HTX đạt trình độ sơ cấp, trung cấp là trên 60%
- Tỷ lệ cán bộ HTX đạt trình độ cao đẳng, đại học là 20%
- Đảm bảo 100% các quỹ tín dụng nhân dân cơ sở hoạt động kinh doanh có lãi, trong đó có 90% trở lên xếp loại khá, giỏi, không có quỹ tín dụng nhân dân cơ sở bị thu hồi giấy phép kinh doanh; dư nợ cho vay tăng từ 12 - 15%/năm.
5. Các giải pháp phát triển KTTT giai đoạn 2016-2020
5.1. Tiếp tục thực hiện và hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành Luật HTX năm 2012.
Nhanh chóng hoàn thiện các văn bản hướng dẫn thực hiện luật HTX 2012. Trước mắt ban hành văn bản về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX thay thế Nghị định 88/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 của Chính phủ đã hết hiệu lực từ ngày 27/01/2014. Các bộ, ngành khẩn trương xây dựng thông tư hướng dẫn Quyết định số 2261/QĐ-TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2016-2020. Các Sở, Ngành khẩn trương xây dựng, trình UBND tỉnh sửa đổi Quyết định số 2277/2008/QĐ-UBND ngày 12/8/2008 của UBND tỉnh về ban hành một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển HTX trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển HTX theo Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015- 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Các Hợp tác xã, Liên minh Hợp tác xã, UBND các huyện thành thị chủ động phối hợp với các sở, ngành liên quan đề xuất triển khai thực hiện Quyết định số 62/2013/QĐ- TTg ngày 25/10/2013 của Thủ tướng chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển HTX; quyết định số 2261/2014/QĐ- TTg ngày 15/12/2014 của Thủ tướng chính phủ về phê duyệt chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2015- 2020
5.2 Tuyên truyền, tập huấn Luật HTX năm 2012 và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực HTX
Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể.
Dự kiến giai đoạn 2016- 2020, giao Liên minh HTX tỉnh phối hợp với các huyện, thành thị cử 300-305 cán bộ đi đào tạo trong nước với mức hỗ trợ bình quân 10 triệu đồng/người.
Hàng năm, Liên minh HTX phối hợp với các Sở, Ngành, UBND các huyện, thành thị tổ chức tập huấn, bồi dưỡng cho 870-900 lượt người/năm. Nội dung tập huấn tập trung chủ yếu về tuyên truyền, tập huấn Luật 2012 và các văn bản liên quan, nhằm thống nhất nhận thức trong toàn bộ hệ thống quản lý nhà nước, nhân dân về bản chất HTX. Ngoài ra, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ quản lý HTX, thành viên HTX về nghiệp vụ kế toán, kỹ năng xây dựng kế hoạch, quản lý sản xuất, kinh doanh,...
Bố trí kinh phí thực hiện công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng của tỉnh như Đài phát thanh truyền hình, Báo Phú Thọ, Cổng thông tin điện tử Phú Thọ. Hàng năm, UBND tỉnh hỗ trợ kinh phí tổ chức ít nhất 01 hội nghị tuyên truyền cấp tỉnh, 12-13 hội nghị cấp huyện, thành thị và 250-274 hội nghị cấp xã, phường, thị trấn.
5.3 Nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực KTTT, HTX
Củng cố tổ chức, bổ sung biên chế, nguồn lực tạo điều kiện thực hiện tốt chức năng, vai trò, nhiệm vụ của Liên minh HTX tỉnh.
Liên minh Hợp tác xã tích cực phối hợp với các đơn vị liên quan chỉ đạo, thực hiện hoàn thành việc rà soát, tổ chức hoạt động của các HTX theo luật HTX năm 2012; đảm bảo các HTX sau chuyển đổi hoạt động đúng bản chất, nguyên tắc và sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Quan tâm củng cố, khắc phục những yếu kém của các HTX, tạo điều kiện cho các HTX phát triển, mở rộng nội dung, đa dạng hình thức hoạt động, thành lập mới, xây dựng và phát triển KTTT trên tất cả các lĩnh vực, ngành, nghề. Phát huy tốt tiềm năng, lợi thế, đẩy mạnh liên doanh, liên kết tăng hiệu quả hoạt động của các HTX. Chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ HTX.
5.4. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về KTTT
Phát huy vai trò của Ban đổi mới và phát triển kinh tế tập thể, tổ chức hoạt động có chiều sâu, hiệu quả và thiết thực, tránh phô trương, hình thức. Ban Đổi mới ở các cấp tích cực hơn trong công tác tham mưu cho Cấp ủy, Chính quyền, tổ chức đoàn thể thực hiện tốt việc củng cố và phát triển kinh tế tập thể.
Nâng cao vai trò quản lý nhà nước, tích cực phối hợp với các Sở, ban, ngành, huyện, thành, thị có liên quan tham mưu đề xuất với Tỉnh ủy, UBND tỉnh có chính sách phù hợp và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách để hỗ trợ KTTT phát triển: Chính sách đất đai, chính sách về vốn, chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, chính sách về công nghệ, chính sách về thị trường, truyền thông.
UBND cấp huyện, xã rà soát cụ thể lại diện tích đất công ích trên địa bàn và thực trạng sử dụng đất của các HTX nông nghiệp; chỉ đạo các HTX nông nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cụ thể, rõ ràng để tổ chức sản xuất ngay khi được giao đất. Trước mắt, UBND cấp xã tiến hành giao 30-50% diện tích đất công ích cho các HTX nông nghiệp ở những diện tích tập trung thuận lợi; không cấp giấy chứng nhận đối với diện tích này.
Các HTX chưa có mặt bằng xây dựng trụ sở, cơ sở sản xuất kinh doanh khẩn trương đăng ký nhu cầu sử dụng đất với UBND các huyện, thành thị để đưa vào quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất làm cơ sở cho thuê đất theo quy định.
Các HTX nông nghiệp chủ động làm việc với UBND các xã để thống nhất biện pháp xử lý những tồn tại của những hợp đồng giao, khoán trước đây để bàn giao cho các HTX nông nghiệp, tổng hợp những khó khăn, vướng mắc kịp thời báo cáo Liên minh HTX để đề xuất UBND tỉnh tháo gỡ.
UBND các huyện thành thị tập trung chỉ đạo các HTX nông nghiệp sử dụng đất làm mặt bằng xây dựng trụ sở HTX, sân phơi, nhà kho, xây dựng các cơ sở dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản đã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất phải chuyển sang thuê đất theo quy định của Luật đất đai 2013, đăng ký và cấp giấy CN quyền sử dụng đất theo quy định.
5.5 Huy động các lực lượng xã hội, các tổ chức đoàn thể trong nước và quốc tế tham gia thúc đẩy phát triển KTTT.
Tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền, sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức Đoàn thể chính trị, xã hội, hiệp hội và hội nghề nghiệp tham gia thúc đẩy thành lập HTX, củng cố, phát triển KTTT.
Mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác quốc tế với các tổ chức phi Chính phủ như tổ chức GRET, tổ chức ILO, Liên đoàn HTX Cộng hoà Liên bang Đức tại Việt Nam (DGRV),...
5.6 Thực hiện tốt công tác đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của thành viên.
Tiếp nhận, tham mưu, tư vấn, tham gia giải quyết kịp thời, đảm bảo 100% các đơn thư đề nghị, khiếu nại của thành viên được các cấp, các ngành và Liên minh HTX tỉnh xem xét giải quyết hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết; Tăng cường công tác kiểm tra, khảo sát nắm vững tình hình hoạt động của các HTX và thành viên, kịp thời phát hiện, tập hợp những khó khăn, vướng mắc của các HTX, đề xuất với các cơ quan hữu quan tháo gỡ, giải quyết.
5.7 Hưởng ứng, thực hiện tốt các phong trào thi đua do tỉnh Phú Thọ và Liên minh HTX Việt Nam phát động.
Quan tâm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của Liên minh HTX tỉnh, thực hiện có hiệu quả vai trò là cầu nối giữa các HTX thành viên và các cấp, các ngành trong cung cố và phát triển HTX.
Củng cố, thu hút nhiều thành viên tham gia 03 khối thi đua trong khu vực kinh tế tập thể, xây dựng điển hình tiên tiến; kịp thời biểu dương gương tập thể, cá nhân suất xắc trong phong trào thi đua; nâng cao tỷ lệ các hợp tác xã khá, giỏi; hạn chế tỷ lệ các hợp tác xã yếu kém.
III. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Sở Kế hoạch và Đầu tư: Chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên quan xây dựng Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020 của tỉnh (sau khi có văn bản hướng dẫn của các Bộ, Ngành), tổ chức lồng ghép các chương trình, dự án để hỗ trợ hợp tác xã phát triển.
2. Sở Tài chính: Chủ trì, cân đối, bố trí vốn để tăng vốn điều lệ cho quỹ hỗ trợ phát triển HTX; hàng năm cân đối, bố trí kinh phí từ ngân sách tỉnh để thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển HTX.
3. Sở Tài nguyên và môi trường: Chủ trì, tham mưu cho UBND tỉnh ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ cụ thể để tạo bước đột phá trong dồn đổi, tích tụ ruộng đất trên địa bàn tỉnh tạo điều kiện cho các hợp tác xã sản xuất với quy mô lớn. Tiếp tục chủ trì, phối hợp với Sở Nông nghiệp và PTNT, Liên minh hợp tác xã tỉnh đôn đốc các địa phương rà soát, xây dựng phương án giao đất công ích cho các HTX sử dụng; tiến hành giao đất xây trụ sở và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các HTX.
4. Liên minh HTX tỉnh: Hướng dẫn HTX trong việc rà soát lại điều lệ, tổ chức đại hội thành viên để củng cố lại hoạt động của HTX, bảo đảm phù hợp với quy định của Luật HTX và các văn bản hướng dẫn. Đẩy mạnh hoạt động Quỹ hỗ trợ phát triển HTX, tạo điều kiện cho các HTX vay được vốn với lãi suất ưu đãi, hỗ trợ kịp thời việc thực hiện các dự án phát triển kinh doanh. Nhân rộng các mô hình hợp tác xã làm ăn hiệu quả, tích cực tuyên truyền Luật hợp tác xã năm 2012. Hàng năm, xây dựng kế hoạch kiểm tra, giám sát hoạt động của Ban đổi mới cấp huyện, xã và tổ chức kiểm tra, giám sát nhằm tạo điều kiện cho KTTT phát triển đúng hướng, vững mạnh, phù hợp với tỉnh Phú Thọ.
5. Sở Công thương: Tập trung rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các hợp tác xã điện năng, các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Tuyên truyền, vận động các hợp tác xã điện năng làm ăn kém hiệu quả chuyển đổi, giải thể, bàn giao cho ngành điện quản lý. Chịu trách nhiệm chính định hướng thị trường đầu ra cho các HTX, THT đặc biệt cho các HTX, THT hoạt động trong lĩnh vực nông- lâm- ngư nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Chủ trì, phối hợp với các Liên minh HTX trong triển khai chương trình khuyến nông, khuyến công và công tác xúc tiến thương mại cho các HTX, THT sản xuất, chế biến sản phẩm.
6. Sở Nông nghiệp và PTNT: Tập trung củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các HTX nông nghiệp theo hướng nâng cao chất lượng và mở rộng các loại dịch vụ cho các hộ nông dân có nhu cầu; chú trọng phát triển các HTX chuyên ngành, các HTX dịch vụ tổng hợp có đầu tư khoa học công nghệ để phát triển như HTX chuyên trồng rau sạch, HTX chăn nuôi theo quy trình công nghệ cao, HTX trồng hoa, cây ăn quả, HTX chế biến nông sản thực phẩm..
7. Ngân hàng nhà nước tỉnh: Chỉ đạo các ngân hàng thương mại, ngân hàng Hợp tác xã, ngân hàng chính sách tỉnh ưu tiên cho các hợp tác xã làm ăn tốt tiếp cận được nguồn vốn vay, đặc biệt là các nguồn vốn vay ưu đãi. Chỉ đạo các Quỹ tín dụng thực hiện đầy đủ các quy định của Luật Hợp tác xã và Luật các tổ chức tín dụng.
8. UBND các huyện, thành, thị: Tập trung rà soát tình hình hoạt động của các hợp tác xã; cân đối ngân sách của huyện, xã để hỗ trợ cho các hợp tác xã. Chỉ đạo các xã, phường rà soát quỹ đất công ích để giao cho các hợp tác xã nông nghiệp sử dụng. Tích cực tuyên truyền, hướng dẫn các hợp tác xã thực hiện Luật hợp tác xã năm 2012. Kiện toàn và tăng cường hoạt động của Ban đổi mới và phát triển kinh tế tập thể huyện: Xây dựng kế hoạch hoạt động, phân công trách nhiệm cụ thể cho các thành viên gắn với địa bàn trực tiếp chỉ đạo. Thường xuyên theo dõi, bám sát kế hoạch đề ra, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, chỉ đạo tháo gỡ kịp thời khó khăn, vướng mắc ở cơ sở nhằm tạo điều kiện cho KTTT phát triển. Tăng cường phối hợp kiểm tra, đôn đốc, nắm tình hình sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho HTX, THT với Liên minh HTX tỉnh.
UBND tỉnh Phú Thọ trân trọng báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư./.
Nơi nhận: | TM. UỶ BAN NHÂN DÂN |
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|
(1) Hợp tác xã: Hết 6 tháng đầu năm 2015, trên địa bàn tỉnh có 466 HTX (405 HTX đang hoạt động, 61 HTX đang tạm ngừng hoạt động). Trong đó, lĩnh vực nông, lâm nghiệp, thuỷ sản có 272 HTX chiếm 59%; quỹ tín dụng nhân dân có 35 HTX, chiếm 7,5%; HTX phi nông nghiệp 98 HTX (trong đó: 45 HTX tiểu thủ công nghiệp - chiếm 9,6%; 15 HTX thương mại và dịch vụ khác - chiểm 3,2%; 08 HTX vận tải có - chiếm 1,7%; 03 HTX xây dựng, 07 HTX vệ sinh môi trường, 17 HTX dịch vụ điện năng; Các loại hình dịch vụ khác có 3 HTX. Dự kiến 6 tháng cuối năm thành lập mới 05 HTX; giải thể 30 HTX.
Doanh thu bình quân 6 tháng năm 2015 ước đạt trên 650 triệu đồng/HTX, 200 triệu đồng/THT. Lợi nhuận bình quân đạt hơn 50 triệu đồng/HTX, 15 triệu đồng/THT
- 1Kế hoạch 3469/KH-UBND về phát triển kinh tế tập thể năm 2014 tỉnh Bình Dương
- 2Nghị quyết 170/2014/NQ-HĐND thông qua Đề án phát triển kinh tế tập thể tỉnh Long An đến năm 2020
- 3Quyết định 42/2006/QĐ-UBND phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2006-2010 do tỉnh Hà Tĩnh ban hành
- 4Kế hoạch 129/KH-UBND năm 2015 về phát triển kinh tế tập thể 5 năm 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
- 5Quyết định 22/2015/QĐ-UBND về Quy chế phối hợp hoạt động lĩnh vực kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Cà Mau
- 1Nghị định 88/2005/NĐ-CP về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã
- 2Luật các tổ chức tín dụng 2010
- 3Luật hợp tác xã 2012
- 4Quyết định 2277/2008/QĐ-UBND về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- 5Kết luận 56-KL/TW năm 2013 về đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể
- 6Quyết định 62/2013/QĐ-TTg chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 7Nghị quyết 142/2008/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- 8Luật đất đai 2013
- 9Nghị định 193/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật hợp tác xã
- 10Nghị quyết 09/2013/NQ-HĐND sửa đổi Nghị quyết 142/2008/NQ-HĐND về chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
- 11Kế hoạch 3469/KH-UBND về phát triển kinh tế tập thể năm 2014 tỉnh Bình Dương
- 12Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT hướng dẫn về đăng ký hợp tác xã và chế độ báo cáo tình hình hoạt động của hợp tác xã do Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành
- 13Quyết định 2261/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển hợp tác xã giai đoạn 2015-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 14Nghị quyết 170/2014/NQ-HĐND thông qua Đề án phát triển kinh tế tập thể tỉnh Long An đến năm 2020
- 15Quyết định 42/2006/QĐ-UBND phê duyệt Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể giai đoạn 2006-2010 do tỉnh Hà Tĩnh ban hành
- 16Kế hoạch 129/KH-UBND năm 2015 về phát triển kinh tế tập thể 5 năm 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp
- 17Quyết định 22/2015/QĐ-UBND về Quy chế phối hợp hoạt động lĩnh vực kinh tế tập thể trên địa bàn tỉnh Cà Mau
Kế hoạch 2274/KH-UBND năm 2015 về Phát triển kinh tế tập thể 5 năm giai đoạn 2016-2020 tỉnh Phú Thọ
- Số hiệu: 2274/KH-UBND
- Loại văn bản: Văn bản khác
- Ngày ban hành: 18/06/2015
- Nơi ban hành: Tỉnh Phú Thọ
- Người ký: Hoàng Công Thủy
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 18/06/2015
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định