Hệ thống pháp luật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BÌNH THUẬN
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 2641/QĐ-UBND

Bình Thuận, ngày 08 tháng 12 năm 2011

 

QUYẾT ĐỊNH

VỀ VIỆC PHÊ DUYỆT CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU TỈNH BÌNH THUẬN GIAI ĐOẠN 2011 - 2015

CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH BÌNH THUẬN

Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;

Căn cứ Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ XII (nhiệm kỳ 2010-2015);

Căn cứ Quyết định số 2383/QĐ-UBND ngày 07 tháng 11 năm 2011 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thương mại tỉnh Bình Thuận đến năm 2020, định hướng đến năm 2025”;

Xét đề nghị của Giám đốc Sở Công thương Bình Thuận tại Công văn số 2106/SCT-QLTM ngày 30 tháng 11 năm 2011,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. Phê duyệt kèm theo Quyết định này Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2011 - 2015.

Điều 2. Giao Sở Công thương chủ trì phối hợp các sở, ngành liên quan; Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố; Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh tổ chức triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ được giao trong Chương trình được phê duyệt, đảm bảo các mục tiêu phát triển xuất khẩu của tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2011 - 2015. Định kỳ hàng năm, tổng hợp báo cáo UBND tỉnh kết quả thực hiện Chương trình này.

Điều 3. Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký ban hành.

Điều 4. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc Sở Công thương, thủ trưởng các sở, ban, ngành có liên quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố, Chủ tịch các Hiệp hội ngành hàng và các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.

 

 

CHỦ TỊCH




Lê Tiến Phương

 

CHƯƠNG TRÌNH

PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU GIAI ĐOẠN 2011-2015
(Ban hành kèm theo Quyết định số 2641/QĐ-UBND ngày 08 tháng 12 năm 2011 của Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận)

Phần I

THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU CÁC NHÓM HÀNG GIAI ĐOẠN 2006 – 2010

I. Đặt vấn đề:

Thực hiện Nghị quyết số 22-NQ/TU ngày 01/6/2004 về đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm hàng hóa đến năm 2005 và năm 2010; được sự quan tâm chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh, các sở, ban, ngành và các địa phương cùng với sự nỗ lực của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu hàng hóa của tỉnh vẫn tiếp tục được duy trì và đạt được một số kết quả nhất định, vị trí của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế được khẳng định ngày càng rõ nét, những sản phẩm lợi thế được khẳng định rõ hơn, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt khá, giá trị kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước; thị trường xuất khẩu từng bước được mở rộng. Kết quả hoạt động xuất khẩu đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết thêm việc làm, đồng thời giúp cho các cấp, các ngành, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu trên địa bàn tỉnh có thêm kinh nghiệm, kiến thức trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của tỉnh còn nhiều hạn chế, kết quả đạt được còn thấp so với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa còn chậm, thiếu vững chắc và chưa có sự bức phá, kim ngạch xuất khẩu không đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra. Thị trường xuất khẩu hàng hóa còn bấp bênh; các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu của tỉnh quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh sản phẩm còn thấp; sản phẩm xuất khẩu qua chế biến chưa nhiều, hàng sơ chế, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng cao; tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn chưa được khắc phục triệt để.

Bước vào giai đoạn 2011 - 2015, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XII (nhiệm kỳ 2010 - 2015) và Kết luận của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XII) về tổng kết Nghị quyết số 22-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa X) về đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa đến năm 2010; mục tiêu đến năm 2015, phải phấn đấu đạt chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu 370 triệu USD. Đây là một nhiệm vụ quan trọng, đòi hỏi sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt của các cấp, ngành cũng như sự nỗ lực của các doanh nghiệp; đặc biệt, trong điều kiện sản xuất hàng hóa, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và hạ tầng phục vụ xuất khẩu trên địa bàn tỉnh còn có những mặt hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu, trong khi đó nhiều nước đang gia tăng các rào cản kỹ thuật trong thương mại nhằm hạn chế nhập khẩu để bảo hộ mậu dịch. Do vậy, cần thiết phải xây dựng Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2011 - 2015 với mục tiêu, chương trình cụ thể nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng GDP và thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển.

II. Căn cứ xây dựng chương trình:

1. Quyết định số 120/2009/QĐ-TTg ngày 06/10/2009 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Thuận thời kỳ đến năm 2020.

2. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bình Thuận lần thứ XII, nhiệm kỳ 2010-2015.

3. Kết luận số 130-KL/TU ngày 04/10/2011 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XII) về tổng kết Nghị quyết số 22-NQ/TU của Tỉnh ủy (khóa X) về đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa đến năm 2010.

4. Quyết định số 2383/QĐ-UBND ngày 07/11/2011 về việc phê duyệt Đề án “Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thương mại tỉnh Bình Thuận đến năm 2020, định hướng đến năm 2025”.

III. Kết quả xuất khẩu giai đoạn 2006 - 2010:

1. Kim ngạch xuất khẩu:

Tổng kim ngạch xuất khẩu của cả thời kỳ 2004 - 2010 là 887,26 triệu USD; trong đó: năm 2005 thực hiện 95,8 triệu USD tăng 22,5% so với năm 2004; năm 2010 thực hiện 178,64 triệu USD (tăng 30,1% so cùng kỳ), tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 14,53%. Kim ngạch xuất khẩu năm 2010 của các nhóm hàng như sau:

- Hàng thủy sản: 84,56 triệu USD chiếm tỷ trọng 47,33% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chung của tỉnh, tăng 42,35% so cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 7,25%/năm. ;

- Nhóm hàng nông - lâm sản: 37,70 triệu USD, chiếm tỷ trọng 21,10% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 23,85%/năm;

- Nhóm hàng hóa khác: 56,39 triệu USD, chiếm tỷ trọng 31,56% tổng kim ngạch xuất khẩu. Tốc độ tăng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 23,93%/năm.

2. Sản phẩm hàng hóa xuất khẩu:

a) Nhóm hàng thủy hải sản:

Nhóm hàng thủy sản tiếp tục đóng vai trò chủ lực tham gia xuất khẩu của tỉnh, trong đó hàng thủy sản đã qua chế biến dành cho xuất khẩu chiếm khoảng 60-70% giá trị thủy sản, chủ yếu là 2 nhóm hàng thủy sản đông lạnh và thủy sản khô. Sản lượng xuất khẩu hàng năm đạt bình quân từ 15 - 20 ngàn tấn các loại.

b) Nhóm hàng nông sản:

Sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh là thanh long, nhân hạt điều và cao su.

- Đối với thanh long: năm 2010, diện tích trồng thanh long toàn tỉnh đạt 13.404 ha (có 10.852 ha đã cho sản phẩm), sản lượng thu hoạch đạt 300.000 tấn/năm, năm 2010 đã xuất khẩu chính ngạch đạt 35.210 tấn, kim ngạch xuất khẩu 19,37 triệu USD, chiếm tỷ trọng 51,37% trong kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông sản, tương ứng 10,84% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 7,08%/năm.

Kết quả xuất khẩu chính ngạch thanh long còn thấp so với sản lượng thu hoạch (mới chiếm 15 - 20% sản lượng) do hình thức tiêu thụ chủ yếu là mua bán biên mậu với thị trường Trung Quốc nên không thống kê được kim ngạch (do cơ chế xuất nhập khẩu mặt hàng rau quả của 02 nước Việt Nam - Trung Quốc). Tuy nhiên, thông qua xuất khẩu (gồm cả chính ngạch và mậu dịch biên giới) đã tạo ra thị trường có tác động giúp cho cây thanh long phát triển mạnh mẽ trong thời gian qua và chiếm khoảng 80 - 85% sản lượng thanh long tiêu thụ toàn tỉnh, trong đó xuất khẩu chính ngạch chiếm khoảng 15%, còn lại 65 - 70% được tiêu thụ theo hình thức mua bán tại biên giới;

- Nhân hạt điều: là một trong những mặt hàng từng được coi là thế mạnh của địa phương, là sản phẩm đem lại giá trị kim ngạch xuất khẩu cao, góp phần làm tăng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động. Song, những năm gần đây kết quả xuất khẩu mặt hàng có xu hướng giảm dần cả về sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu, nguyên nhân chủ yếu là do nguồn nguyên liệu trong nước không đáp ứng nhu cầu chế biến, năng lực sản xuất của các doanh nghiệp vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể: năm 2005, kim ngạch xuất khẩu hạt điều đạt 14,5 triệu USD; tuy nhiên, đến năm 2006 do doanh nghiệp chủ lực xuất khẩu mặt hàng này bị phá sản nên kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 0,41 triệu USD. Từ năm 2007 đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu hàng năm giảm dần; năm 2010 kim ngạch xuất khẩu nhân điều chỉ đạt 3,45 triệu USD, chỉ bằng 69,31% so với năm 2007 và so với năm 2005 chỉ đạt 23,83%;

- Mủ cao su: cây cao su đang dần trở thành một trong những cây thế mạnh của tỉnh, cuối năm 2010, toàn tỉnh có 32.615 ha trồng cao su, sản lượng đạt 19.308 tấn, năng suất bình quân của diện tích cao su đã cho thu hoạch đạt 1,4 tấn/ha. Trên địa bàn tỉnh có 13 cơ sở thu mua, chế biến mủ cao su với công suất thiết kế 26.500 tấn năm với 02 loại sản phẩm là mủ tờ và mủ cốm. Kim ngạch xuất khẩu chính ngạch mủ cao su năm 2010 đạt 8,57 triệu USD, tốc độ tăng bình quân là 103,1%/năm.

c) Các loại hàng hóa khác:

- May mặc: toàn tỉnh có 04 công ty may đang hoạt động; năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 43,9 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân là 30,56%/năm. Những năm qua, các công ty này đã không ngừng nỗ lực vươn lên để cạnh tranh với hàng may mặc các nước khác, nhất là từ Trung Quốc và từng bước khẳng định được vị thế trên thị trường quốc tế;

- Đồ gỗ: toàn tỉnh có 02 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sản phẩm gỗ; năm 2010, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,3 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 17,11%/năm. Tuy nhiên, tình hình xuất khẩu đồ gỗ hiện gặp rất nhiều khó khăn do nguyên liệu phải nhập từ nước ngoài, chi phí nhiên, vật liệu tăng cao, đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý có xu hướng ngày càng thiếu hụt, mẫu mã sản phẩm chưa đa dạng đã ảnh hưởng đến sản lượng, kim ngạch và hiệu quả của các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu sản phẩm này không cao;

- Khoáng sản: toàn tỉnh có 11 đơn vị đang khai thác quặng sa khoáng titan. Kim ngạch xuất khẩu sa khoáng titan năm 2005 đạt 1,86 triệu USD; năm 2006 chỉ đạt 970 nghìn USD; năm 2010 đạt 5,67 triệu USD; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 đạt 12,95%/năm;

- Nước mắm: những năm trước đây, thương hiệu nước mắm Phan Thiết đã được khẳng định và có mặt trên khắp mọi miền đất nước, song sản phẩm xuất khẩu chưa nhiều. Đến nay, toàn tỉnh chỉ có một doanh nghiệp xuất khẩu nước mắm không mùi, kim ngạch xuất khẩu hàng năm chưa đến 500 ngàn USD. Các sản phẩm như nước mắm nhỉ, mắm nêm, mắm ruốc… được tiêu thụ mạnh trong nước, chưa xuất khẩu được do khó khăn trong tìm kiếm thị trường tiêu thụ; một số ít được đưa ra nước ngoài (thông qua khách du lịch, Việt kiều về thăm quê) để làm quà.

3. Thị trường xuất khẩu:

Hàng hóa của Bình Thuận trong thời gian qua đã xuất khẩu sang trên 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới, được phân ra như sau: nhiều nhất là Châu Á, chiếm tỷ trọng 60-70% (trong đó; Đông Nam Á chiếm tỷ trọng 20-25%, Đông Á 65-70%, Tây Á chỉ chiếm khoảng 3-5%); kế đến là Châu Âu chiếm tỷ trọng 20-25%; sau đó là Châu Mỹ và các thị trường khác từ 5-10%.

Năm 2010, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Á đạt 93,61 triệu USD, chiếm 52,37%; thị trường Châu Âu đạt 37,87 triệu USD, chiếm 21,19%; thị trường Châu Mỹ đạt 6,43 triệu USD, chiếm 3,60%; các thị trường khác đạt 1,83 triệu USD, chiếm tỷ trọng 1,03% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.

Thị trường đối với từng nhóm hàng như sau:

- Thị trường xuất khẩu thủy sản của tỉnh chủ yếu tập trung vào các nước Châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan…;

- Thị trường xuất khẩu hàng nông sản của tỉnh chủ yếu xuất sang các nước Châu Á; trong đó nhiều nhất là Trung Quốc, kế đến là Đài Loan, Hồng Kông, Thái Lan, Singapore và Indonesia; ngoài ra còn có thêm thị trường Hà Lan, Mỹ và gần đây nhất là Hàn Quốc, Nhật Bản. Riêng mặt hàng cao su chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc;

- Thị trường xuất khẩu hàng may mặc: xuất khẩu trực tiếp chủ yếu tập trung vào thị trường Nhật Bản, Ý, Mỹ, Hà Lan, Đài Loan; gồm các loại áo sơ mi (do Công ty Cổ phần may Bình Thuận - Nhà Bè xuất vào thị trường Nhật); áo Jacket (do Công ty Cổ phần may Phan Thiết xuất vào thị trường Ý, Mỹ, Hà Lan, Đài Loan)… Xuất khẩu ủy thác chủ yếu tập trung vào các thị trường Ý, Mỹ, Hà Lan, Đài Loan, Hồng Kông, Nga, Pháp.

IV. Đánh giá thực trạng xuất khẩu 2006 - 2010:

1. Mặt được:

- Giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm sau cao hơn năm trước, tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 đạt 14,53%; nhiều sản phẩm lợi thế được khẳng định rõ hơn. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần xuất khẩu nguyên liệu thô, tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến;

- Thị trường xuất khẩu từng bước được mở rộng, cơ sở sản xuất và năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp tăng khá; nguồn lực nhân lực phục vụ các hoạt động xuất khẩu hàng hóa được quan tâm nhiều hơn;

- Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu đã quan tâm cải tiến, đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ hiện đại, từng bước nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa xuất khẩu;

- Công tác quản lý Nhà nước về xuất khẩu so với trước đã có sự chuyển biến nhất định trong định hướng và chỉ đạo điều hành. Cơ chế chính sách quản lý của Nhà nước về xuất nhập khẩu được đổi mới một cách cơ bản theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất, nhập khẩu cho các thành phần kinh tế tham gia kinh doanh xuất khẩu thuận lợi. Kết quả hoạt động xuất khẩu đã giúp cho các cấp, các ngành, doanh nghiệp trong tỉnh có thêm kinh nghiệm, kiến thức trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.

2. Mặt hạn chế:

Hoạt động xuất khẩu của tỉnh còn nhiều hạn chế, kết quả đạt được còn thấp so với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa còn chậm, thiếu vững chắc và chưa có sự bức phá. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu của tỉnh chủ yếu quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh sản phẩm còn thấp; tỷ trọng hàng thô, hàng sơ chế còn cao trong tổng sản phẩm xuất khẩu của tỉnh. Tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn chưa được khắc phục triệt để. Thị trường xuất khẩu hàng hóa còn bấp bênh, thiếu vững chắc. Việc lập Quỹ xúc tiến thương mại, đề ra quy chế phù hợp để các doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu cùng tham gia chưa tích cực thực hiện. Số doanh nghiệp xây dựng trang web để quảng bá, giới thiệu doanh nghiệp, giới thiệu sản phẩm xuất khẩu của tỉnh còn ít.

3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém:

- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, chính quyền các cấp chưa được quan tâm đúng mức;

- Vai trò tham mưu của một số ngành chức năng chưa tốt;

- Một bộ phận doanh nghiệp năng lực còn hạn chế, thiếu năng động, sức vươn lên chưa rõ;

- Công tác quản lý Nhà nước còn nhiều bất cập, nhất là quản lý nguyên liệu, nguồn hàng, nắm kim ngạch xuất khẩu không chắc. Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp, các tổ chức liên quan chưa chặt chẽ để tạo các điều kiện thuận lợi đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.

Phần II

ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU 2011-2015

I. Quan điểm, mục tiêu phát triển xuất khẩu:

1. Quan điểm phát triển:

Duy trì tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững để góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng GDP và thúc đẩy các ngành sản xuất phát triển. Tập trung sức đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, chú trọng mặt hàng chủ lực, lợi thế của tỉnh như thủy sản, thanh long, cao su, gỗ, may mặc và mở rộng xuất khẩu các mặt hàng mới phù hợp với nhu cầu của thị trường.

2. Mục tiêu phát triển:

a) Mục tiêu chung:

Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp những sản phẩm lợi thế có điều kiện phát triển trên địa bàn tỉnh, phấn đấu đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt 370 triệu USD;

b) Mục tiêu cụ thể:

Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 18,9%/ năm, đến năm 2015 đạt giá trị 370 triệu USD; trong đó, nhóm hàng thủy hải sản 138 triệu USD, nhóm hàng nông sản 107 triệu USD và nhóm hàng hóa khác 125 triệu USD.

c) Cơ cấu ngành hàng:

Trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa dự kiến đạt 370 triệu USD vào năm 2015, gồm:

- Nhóm hàng thủy hải sản chiếm tỷ trọng 37,3%, đạt kim ngạch 138 triệu USD;

- Nhóm hàng nông sản chiếm tỷ trọng 28,9%, đạt kim ngạch 107 triệu USD; bao gồm:

+ Cao su 10.000 tấn, đạt kim ngạch 40 triệu USD;

+ Thanh long: 100.000 tấn, đạt kim ngạch 56 triệu USD;

+ Nhân hạt điều: 2.330 tấn, đạt kim ngạch 7 triệu USD;

+ Hàng nông sản khác: đạt 4 triệu USD.

- Nhóm hàng hóa khác chiếm tỷ trọng 33,8%, đạt kim ngạch 125 triệu USD; bao gồm:

+ Hàng dệt may 80 triệu USD;

+ Sản phẩm bằng gỗ 10 triệu USD;

+ Các loại hàng hóa khác 35 triệu USD (gồm khoáng sản, giấy dính…).

II. Định hướng phát triển hàng hóa xuất khẩu chủ yếu giai đoạn 2011 - 2015:

1. Đặc điểm tình hình:

a) Tình hình thế giới:

Năm 2011 nền kinh tế thế giới được dự báo phục hồi nhưng chứa đựng những bất ổn khó lường. Sự phát triển mạnh mẽ của một số nước khu vực trong điều kiện hội nhập và việc thực hiện các hiệp định mậu dịch tự do ngày càng sâu rộng, mở ra thị trường rộng lớn nhưng cũng tạo ra sự cạnh tranh quyết liệt.

Cuộc khủng hoảng nợ công của khu vực đồng Euro và thâm hụt ngân sách cao ở nhiều nước có thể gây biến động về tỷ giá giữa các đồng tiền, làm cho tính bất định và độ rủi ro tăng lên, tác động mạnh tới xuất nhập khẩu, đầu tư, chính sách tài khóa và tiền tệ của các quốc gia.

Lạm phát đang trở thành mối lo hàng đầu của tất cả các quốc gia. Giá cả hàng hóa và dịch vụ thế giới, đặc biệt là giá của các nguyên vật liệu đầu vào cho quá trình sản xuất có xu hướng tăng trong năm 2011, sẽ tác động và làm tăng chi phí đầu vào và gây áp lực đến mặt bằng giá trong nước của Việt Nam. Trong thời gian tới, các nước nhập khẩu sẽ tăng cường các biện pháp phòng vệ thông qua các rào cản thương mại và rào cản kỹ thuật; các quy định thị trường không chỉ tập trung vào vấn đề an toàn thực phẩm mà còn mở rộng hơn qua các lĩnh vực bảo vệ môi trường, trách nhiệm xã hội và bảo vệ nguồn lợi.

b) Tình hình trong nước:

Trong 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2001 – 2010), đất nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm phát triển có thu nhập trung bình. Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi; thế và lực của đất nước vững mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.

Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và yêu cầu hội nhập. Kinh tế phát triển chưa bền vững, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa thật vững chắc. Lạm phát tăng cao; một số mặt hàng chiến lược như xăng dầu, điện được điều chỉnh tăng theo giá thị trường, gây tác động dây chuyền đến việc tăng giá hàng hóa và dịch vụ, tăng lãi suất ngân hàng, tỷ giá ngoại tệ dãn biên độ theo chính sách nới lỏng tiền tệ... làm tăng nguy cơ mất ổn định kinh tế vĩ mô. Hệ thống cơ sở hạ tầng yếu kém cản trở cho sự phát triển. Thiên tai, bão lũ và biến đổi khí hậu, dịch bệnh là các yếu tố có tác động xấu đến sự phát triển của các ngành, trước hết là sản xuất nông nghiệp, công nghiệp và đời sống nhân dân.

Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế nêu trên tạo cho nước ta vị thế mới với những thuận lợi và cơ hội to lớn cùng những khó khăn và thách thức gay gắt trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công tác xuất khẩu nói riêng.

c) Tình hình trong tỉnh:

Trong thời gian qua, nền kinh tế tỉnh ta tiếp tục phát triển, năng lực sản xuất, quy mô nền kinh tế tăng đáng kể; tiềm năng và lợi thế được khai thác ngày càng tốt hơn. Hoạt động xuất khẩu hàng hóa của tỉnh đã đạt được một số kết quả nhất định, vị trí của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế được khẳng định ngày càng rõ nét, những sản phẩm lợi thế được khẳng định rõ hơn, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt khá, giá trị kim ngạch xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước; thị trường xuất khẩu từng bước được mở rộng. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu đã quan tâm cải tiến, đầu tư thiết bị công nghệ mới, từng bước nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa xuất khẩu. Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm dần xuất khẩu nguyên liệu thô, tăng tỷ trọng các sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến.

Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu của tỉnh còn nhiều hạn chế, kết quả đạt được còn thấp so với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa còn chậm, thiếu vững chắc và chưa có sự bức phá, kim ngạch xuất khẩu không đạt mục tiêu Nghị quyết đề ra. Thị trường xuất khẩu hàng hóa còn thiếu vững chắc. Các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu của tỉnh quy mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, sức cạnh tranh sản phẩm còn thấp; sản phẩm xuất khẩu qua chế biến chưa nhiều, hàng sơ chế, hàng gia công còn chiếm tỷ trọng cao; tình trạng vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm vẫn chưa được khắc phục triệt để. Quản lý nguồn nguyên liệu hải sản khai thác chưa tốt, chưa đáp ứng yêu cầu chế biến, xuất khẩu; nuôi trồng thủy sản phát triển chưa căn bản. Sản xuất công nghiệp phát triển chưa mạnh, quy mô nhỏ, trình độ công nghệ còn thấp. Tiểu thủ công nghiệp và làng nghề nông thôn phát triển còn chậm và lúng túng. Hệ thống kết cấu hạ tầng (nhất là giao thông) còn yếu, cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động xuất khẩu (cảng biển, kho ngoại quan, cảng ICD…) còn thiếu nên hạn chế trong hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.

2. Dự báo tình hình xuất khẩu giai đoạn 2011 - 2015:

Từ nghiên cứu, phân tích dự báo tình hình thị trường thế giới và trong nước; xét tiềm năng và nguồn lực phát triển kinh tế của tỉnh, xác định 3 nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015, bao gồm: nhóm hàng thủy hải sản, nhóm hàng nông lâm sản và nhóm hàng hóa khác. Điều kiện và khả năng phát triển một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu như sau:

a) Về nhóm hàng thủy hải sản:

Trước năm 2008, hàng thủy sản đóng vai trò chủ lực tham gia xuất khẩu, chiếm tỷ trọng trên 50% trong tổng kim ngạch xuất khẩu chính ngạch; từ năm 2009 - 2010, tỷ trọng giảm xuống chỉ còn 45% - 46% và 9 tháng đầu năm 2011, tỷ trọng nhóm hàng này tiếp tục giảm xuống dưới mức 40%. Tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2006 - 2010 chỉ đạt 7,25%/năm. Tình hình xuất khẩu nhóm hàng này trong thời gian qua có những thuận lợi và khó khăn như sau:

- Về thị trường: vẫn tập trung xuất khẩu vào các thị trường truyền thống, tuy nhiên, do chưa ngăn chặn triệt để việc lây nhiễm Cloramphenicol nên xuất khẩu vào thị trường Nhật đã giảm đáng kể. Các thị trường khó tính như EU, Mỹ bước đầu đã xuất khẩu được nhưng sản lượng xuất khẩu vào thị trường này chưa nhiều. Ngoài ra, Nga và Đông Âu cũng đang là những thị trường ngày càng có triển vọng, nhiều tiềm năng để xuất khẩu hàng thủy sản của tỉnh nếu làm tốt công tác xúc tiến thương mại;

- Về nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến: chủ yếu là khai thác, đánh bắt từ tự nhiên, bị ảnh hưởng nhiều bởi điều kiện khí hậu thời tiết và đến nay đã có dấu hiệu cạn kiệt, nhất là đối với nguồn hải sản phục vụ chế biến xuất khẩu, sản lượng hải sản có giá trị kinh tế tăng không đáng kể và lượng hải sản đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu ngày càng giảm. Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt gần 15 ngàn tấn cũng đã góp phần tạo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu. Tuy nhiên, việc quản lý nguồn lợi thủy sản còn nhiều bất cập, việc bảo quản sản phẩm sau thu hoạch còn kém làm giảm chất lượng nguyên liệu đưa vào chế biến, tình trạng nguyên liệu bị nhiễm dư lượng kháng sinh chưa được khắc phục; trong khi đó các nước nhập khẩu ngày càng coi trọng vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, đặt ra nhiều rào cản thương mại, tăng cường kiểm soát chặt chẽ về dư lượng kháng sinh; đặc biệt từ tháng 4/2011, tất cả lô hàng hải sản muốn xuất sang các nước châu Âu đều phải được kiểm tra phóng xạ cũng tạo thêm khó khăn cho doanh nghiệp xuất khẩu;

- Về doanh nghiệp: bên cạnh một vài doanh nghiệp có sự đầu tư nâng cấp, đổi mới trang thiết bị khá hoàn chỉnh, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, còn lại hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu nhóm hàng này đều là những doanh nghiệp nhỏ (chiếm tỷ lệ khoảng 80%), điều kiện cơ sở vật chất, năng lực chế biến còn hạn chế, kim ngạch xuất khẩu từ vài chục ngàn - vài trăm ngàn USD, nguồn vốn kinh doanh còn hạn chế, việc đẩy mạnh chế biến và xuất khẩu gặp nhiều khó khăn.

* Dự báo: xuất phát từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên, dự báo kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này khó có khả năng tăng đột biến trong một vài năm tới; dự kiến tốc độ tăng trưởng năm 2011 - 2012 đạt khoảng 10%; kể từ năm 2013, tốc độ tăng sẽ nhanh hơn (từ 12% - 13% lên đến 18-20%); bình quân giai đoạn 2011 - 2015 tốc độ tăng trưởng đạt khoảng 15% - 16%/năm. Phấn đấu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 138 triệu USD.

b) Về nhóm hàng nông, lâm sản:

Xuất phát từ tình hình, thuận lợi, khó khăn và khả năng phát triển của từng mặt hàng, dự báo kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này sẽ tăng mạnh; dự kiến tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 đạt 35%/năm do chuyển từ phương thức xuất khẩu biên mậu sang xuất khẩu chính ngạch. Phấn đấu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 107 triệu USD; cụ thể đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như sau:

- Nhân hạt điều:

Năm 2006, toàn tỉnh có 32.272 ha điều; trong đó, diện tích cho thu hoạch 21.658 ha với sản lượng 12.843 tấn. Từ năm 2007, do lợi thế cạnh tranh của cây cao su vượt trội so với cây điều nên xu hướng chuyển đổi các vườn điều già cỗi sang trồng cao su nên diện tích điều bị thu hẹp dần, đến năm 2010 diện tích điều giảm còn 24.411 ha (so với năm 2006, giảm 7.861 ha).

Nhân điều là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao, trong những năm 2004 - 2005, kim ngạch xuất khẩu nhân điều đạt khoảng 15 triệu USD/năm (chiếm tỷ trọng khoảng 55% - 68% trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của tỉnh) với sản lượng nhân điều xuất khẩu bình quân từ 3.100 - 4.100 tấn/năm. Từ năm 2006, do đơn vị xuất khẩu chủ lực mặt hàng này bị phá sản nên kim ngạch xuất khẩu tụt giảm mạnh, các năm tiếp theo tuy có khắc phục dần nhưng sản lượng và giá trị kim ngạch xuất khẩu nhân hạt điều giảm dần, kim ngạch xuất khẩu bình quân chỉ đạt khoảng 4,7 triệu USD/năm, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này từ 2007 - 2010 hầu như không tăng.

* Dự báo: với lợi thế là sản phẩm tiếp tục được ưa chuộng trên thị trường thế giới, giá trị xuất khẩu và hiệu quả kinh tế mang lại cao; cơ sở chế biến của doanh nghiệp khá bài bản nên có điều kiện để gia tăng công suất chế biến và đẩy mạnh xuất khẩu. Dự kiến giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng mặt hàng này ở mức 11% - 12%/năm. Phấn đấu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 7 triệu USD.

- Cao su:

Trong giai đoạn 2005 - 2010, diện tích ngày càng được mở rộng (từ 12.515 ha lên 32.618 ha), sản lượng thu hoạch mủ cao su cũng tăng (từ 6.518 tấn lên 19.309 tấn); trong đó sản lượng mủ cao su đưa vào chế biến tại các nhà máy trên địa bàn khoảng 11.000 tấn - 12.000 tấn (60% - 70%), số còn lại được các thương nhân thu gom, vận chuyển bán cho các nhà máy ngoài tỉnh.

Đến nay, trên địa bàn tỉnh có 13 cơ sở thu mua, chế biến mủ cao su với công suất thiết kế 26.500 tấn năm đã đáp ứng đủ nhu cầu chế biến, giúp ổn định việc tiêu thụ và nâng cao được chất lượng mủ, tạo thuận lợi cho việc đẩy mạnh xuất khẩu. Mặc dù sản lượng mủ cao su thu hoạch khá nhiều, thị trường tiêu thụ khá tốt nhưng tình hình xuất khẩu cao su của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn rất yếu, sản lượng xuất khẩu chính ngạch chỉ chiếm 10% - 15% so với sản lượng khai thác, việc tiêu thụ chủ yếu là bán nội địa hoặc xuất bán trong nội bộ ngành cao su.

Từ năm 2006, các doanh nghiệp Bình Thuận đã xuất khẩu mủ cao su ra thị trường nước ngoài, tuy nhiên sản lượng và kim ngạch xuất khẩu đạt thấp. Giai đoạn 2009 - 2010, sản lượng và kim ngạch xuất khẩu chính ngạch có tăng khá so các năm trước (xuất khẩu bình quân 3.100 tấn/năm đạt kim ngạch 8,67 triệu USD/năm) nhưng chưa tương xứng với tiềm năng. Sản lượng mủ cao su xuất khẩu chính ngạch còn quá thấp so với sản lượng khai thác, cụ thể năm 2010 chỉ đạt 13,28% (2.565 tấn/19.308 tấn).

* Dự báo: với sản lượng nguồn hàng khá lớn và ổn định, đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch (cả xuất trực tiếp và ủy thác xuất khẩu) giảm xuất khẩu tiểu ngạch và bán nội địa thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng nhanh. Phấn đấu đến năm 2015 đưa sản lượng mủ cao su xuất khẩu lên 10.000 tấn, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 40 triệu USD.

- Thanh long:

Diện tích thanh long năm 2010 đạt 13.404 ha (chiếm 83,28% so diện tích thanh long cả nước) với sản lượng đạt trên 300 ngàn tấn.

Kim ngạch xuất khẩu chính ngạch thanh long trong thời gian qua có tăng nhưng tăng chậm, tốc độ tăng trưởng bình quân năm 2006 - 2010 chỉ đạt 7,08%/năm. Năm 2010 sản lượng xuất khẩu chính ngạch là 35 ngàn tấn (khoảng 10% sản lượng) với giá trị kim ngạch 19,37 triệu USD, chiếm tỷ trọng 51,37% trong kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông sản, tương ứng 10,84% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn tỉnh.

Trái thanh long đã được xuất khẩu chính ngạch đến 14 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Thị trường tiêu thụ thanh long khá ổn định, chủ yếu là các nước Châu Á; việc mở rộng thị trường tại khu vực Châu Âu, Châu Mỹ gặp không nhiều trở ngại (do thời gian vận chuyển kéo dài; do tập quán tiêu dùng; công tác quảng bá chưa thực hiện đủ mạnh, trái thanh long ít được người tiêu dùng biết đến; do rào cản kỹ thuật về vệ sinh an toàn thực phẩm…)

Trung Quốc là thị trường tiêu thụ 60% - 70% sản lượng thanh long Bình Thuận, tuy nhiên do hình thức tiêu thụ chủ yếu là mua đứt bán đoạn, xuất khẩu tiểu ngạch qua đường biên mậu nên không thống kê được kim ngạch xuất khẩu, do vậy kim ngạch xuất khẩu chính ngạch sang thị trường này đạt rất thấp. Toàn tỉnh có 10 - 14 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu thanh long. Từ năm 2010, các doanh nghiệp đã có nhiều nỗ lực vươn lên xuất khẩu chính ngạch nên sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thanh long chính ngạch vào Trung Quốc tăng mạnh (sản lượng 17.302 tấn, tăng 2,4 lần; giá trị tăng 6,89 triệu USD tăng 1,52 lần so 2009); chiếm tỷ trọng 35,57% trong kim ngạch xuất khẩu chính ngạch thanh long (cao nhất so với các năm trước đây). Tuy nhiên, với chính sách khuyến khích buôn bán biên mậu của Trung Quốc (giảm thuế nhập khẩu), các doanh nghiệp xuất khẩu thanh long của tỉnh ta không nỗ lực tự vươn lên thì việc đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch sẽ còn gặp nhiều khó khăn trong một vài năm tới.

* Dự báo: để bảo đảm tiêu thụ hết sản lượng thanh long như hiện nay, bên cạnh việc tập trung và ưu tiên cho xuất khẩu chính ngạch cần tiếp tục duy trì hình thức xuất khẩu biên mậu với Trung Quốc. Trong thời gian tới, với sự hỗ trợ, tác động tích cực từ phía Nhà nước (đẩy mạnh việc triển khai các Hiệp định song phương Việt Nam - Trung Quốc, tổ chức các chương xúc tiến thương mại, thâm nhập thị trường, tìm hiểu khách hàng,.. ); sự đoàn kết và nổ lực phấn đấu vươn lên của các doanh nghiệp, thực hiện nhiều giải pháp để nâng dần tỷ trọng sản lượng thanh long xuất khẩu chính ngạch. Phấn đấu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 55 - 56 triệu USD.

c) Nhóm hàng hóa khác:

Xuất phát từ tình hình, thuận lợi, khó khăn và khả năng phát triển của từng mặt hàng, dự báo tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn 2011 - 2015 của nhóm hàng đạt khoảng 14%/năm. Phấn đấu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt 125 triệu USD; cụ thể đối với một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như sau:

- Hàng may mặc:

Trong giai đoạn 2006 - 2010, ngành may mặc Bình Thuận đã không ngừng nỗ lực vươn lên, vượt qua nhiều khó khăn, thử thách (như vấn đề hạn ngạch ở thị trường Mỹ, sự cạnh tranh gay gắt từ các nước khác, mà nhất là từ hàng may mặc của Trung Quốc). Thị trường tiêu thụ mặt hàng này ngày càng mở rộng đến nhiều nước, nhiều khu vực như Châu Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông), Châu Âu (Đức, Tây Ban Nha, Ý, Pháp), Châu Mỹ (Hoa Kỳ, Canada) và Úc. Kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc năm 2010 đạt 43,61 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân 2006 - 2010 là 30,34%/năm đã khẳng định vai trò tiên phong trong hoạt động xuất khẩu hàng hóa của tỉnh.

* Dự báo: trong giai đoạn 2011 - 2015, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này tiếp tục tăng nhưng không thể tăng nhanh do năng suất đã đạt gần đến ngưỡng tối đa và còn gặp khó khăn trong thu hút lực lượng lao động, nhất là lao động nữ; dự kiến tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 13% - 14%/năm. Phấn đấu đến năm 2015 đạt giá trị kim ngạch 80 triệu USD (tăng 1,83 lần so năm 2010).

- Đồ gỗ:

Trên địa bàn tỉnh có 02 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu mặt hàng đồ gỗ, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm gỗ năm 2010 đạt 7,18 triệu USD, tốc độ tăng trưởng bình quân 2006 - 2010 là 9,1%/năm. Tuy nhiên tình hình xuất khẩu đồ gỗ gặp nhiều khó khăn do nguyên liệu phải nhập khẩu, chi phí nhiên, vật liệu tăng cao; đội ngũ công nhân lành nghề, cán bộ quản lý có xu hướng ngày càng thiếu hụt; mẫu mã sản phẩm chưa đa dạng… đã ảnh hưởng đến sản lượng, kim ngạch xuất khẩu của doanh nghiệp.

* Dự báo: trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng của mặt hàng này đạt khoảng 11% - 12%/năm. Phấn đấu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 10 triệu USD.

- Hàng hóa khác:

+ Mặt hàng sa khoáng (cát đen):

Theo kết quả điều tra của Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Bình Thuận có trữ lượng cát đen (Titan - Zircon) lớn nhất cả nước. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có 11 đơn vị đang tiến hành khai thác titan, trong đó có 9 đơn vị có nhà máy tuyển tinh đang hoạt động; tuy nhiên, hoạt động khai thác, tận thu cát đen trên địa bàn tỉnh còn nhiều bất cập. Trên địa bàn tỉnh hiện nay có 06 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu quặng Ilmenit và Zircon, đây là những doanh nghiệp nhỏ, kim ngạch xuất khẩu đều thấp dưới 01 triệu USD/doanh nghiệp. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm đạt thấp, khoảng từ 1,5 triệu - 3 triệu USD do sản phẩm xuất khẩu là sản phẩm thô, chưa được đầu tư chế biến sâu.

* Dự báo: việc xuất khẩu mặt hàng này còn phụ thuộc vào quy định của các Bộ, ngành Trung ương (về mức độ tinh chế của sản phẩm, các quy định khác…) và với quy mô, năng lực của doanh nghiệp, dự kiến tốc độ tăng trưởng của mặt hàng này khoảng 10 - 15%/năm, phấn đấu dến năm 2015 đạt kim ngạch 10 - 15 triệu USD.

+ Giấy dính: đây là mặt hàng mới của Công ty Cổ phần Vật liệu tự dính Việt Nam (SAScoat VN), là công ty duy nhất của khu vực Đông Nam Á sản xuất sản phẩm giấy tự dính cao cấp (để làm nhãn, mác cho các sản phẩm, hoặc làm phim trong chụp điện…) với công suất 150 triệu m2 giấy tự dính/năm. Sau quá trình sản xuất thử nghiệm, từ đầu năm 2011 sản phẩm của công ty đã xuất khẩu ra thị trường thế giới, dự ước kim ngạch xuất khẩu năm 2011 đạt 6 triệu USD.

* Dự báo: trong giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng của mặt hàng này đạt khoảng 15% - 20%/năm. Phấn đấu đến năm 2015, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 15 - 20 triệu USD.

+ Nước mắm:

Công suất chế biến toàn tỉnh hiện nay khoảng 20 triệu - 22 triệu lít/năm; nước mắm Phan Thiết chủ yếu tiêu thụ tại các thị trường trong nước; việc xuất khẩu mặt hàng này còn nhiều khó khăn. Trong các năm qua, tại tỉnh ta mới chỉ có Công ty Liên doanh Hải đặc sản xuất khẩu (AROMA) xuất khẩu nước mắm không mùi sang thị trường Nhật Bản với sản lượng khoảng 200.000 lít, đạt kim ngạch khoảng 0,35 - 0,37 triệu USD.

Muốn xuất khẩu phải sản xuất nước mắm có trạng thái, màu sắc, mùi vị… phù hợp với thị hiếu, tập quán của người tiêu dùng ở quốc gia đó (Công ty AROMA sản xuất nước mắm không mùi để xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là một điển hình); do vậy để xuất khẩu sản phẩm ngoài việc phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ, nhà phân phối, bản thân các doanh nghiệp Bình Thuận phải tự vươn lên, đầu tư thiết bị, dây chuyền công nghệ để sản phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng về tiêu chuẩn chất lượng, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng ổn định, cải tiến mẫu mã bao bì đóng gói, hạ giá thành sản phẩm… để có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của Thái Lan đang chiếm lĩnh thị trường. Thông qua chương trình giao thương tại Lào và Campuchia, các doanh nghiệp đã tìm được đối tác nhập khẩu nước mắm Phan Thiết để cung ứng, phân phối sản phẩm nước mắm tại thị trường hai nước này, làm nền tảng bước đầu thâm nhập, phát triển sản phẩm nước mắm Phan Thiết xuất khẩu trong thời gian tới.

* Dự báo: trong giai đoạn 2011 - 2015, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng nhưng không đáng kể, phấn đấu đến năm 2015 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 1 triệu USD.

Phần III

NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP

1. Nhiệm vụ:

- Triển khai thực hiện các quy hoạch được duyệt liên quan đến sản xuất và chế biến hàng hóa xuất khẩu, nhất là quy hoạch phát triển cây trồng, vật nuôi; quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến hàng nông lâm hải sản. Phát triển, xây dựng hoàn thiện dần cơ sở hạ tầng, nhất là các công trình giao thông, hạ tầng đô thị, hạ tầng khu, cụm công nghiệp, hạ tầng thương mại … tạo điều kiện thu hút mạnh các nguồn lực cho đầu tư phát triển sản xuất chế biến hàng xuất khẩu. Tập trung phát triển công nghiệp chế biến một cách đồng bộ, vận dụng tốt chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp chế biến để đổi mới công nghệ, thiết bị theo hướng hiện đại; tập trung ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến mặt hàng lợi thế có tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của tỉnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp và của cả nền kinh tế tỉnh nhà;

- Tăng cường thực hiện tốt quảng bá sản phẩm và xúc tiến thương mại nhằm phát triển mở rộng thị trường cả trong nước và ngoài nước, chú trọng công tác xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa;

- Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng theo yêu cầu phát triển của các ngành, lĩnh vực; thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, thông thoáng nhằm thu hút và tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư triển khai dự án đầu tư vào lĩnh vực phát triển chế biến hàng xuất khẩu;

- Tập trung thực hiện các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu trực tiếp những sản phẩm lợi thế có điều kiện phát triển trên địa bàn tỉnh, phấn đấu đến năm 2015 kim ngạch xuất khẩu đạt 370 triệu USD.

2. Giải pháp:

a) Giải pháp quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, sản xuất, chế biến, xuất khẩu:

Tiến hành rà soát, điều chỉnh và bổ sung quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu tập trung gắn với công nghiệp chế biến và xuất khẩu.

Triển khai thực hiện các quy hoạch được duyệt liên quan đến sản xuất và chế biến hàng hoá xuất khẩu, nhất là quy hoạch phát triển cây trồng, vật nuôi; quy hoạch phát triển ngành công nghiệp chế biến hàng nông lâm hải sản (cao su, thanh long, hải sản đóng hộp).

* Đối với thủy sản:

- Phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh, an toàn và quản lý chặt chẽ môi trường; đẩy mạnh đầu tư nuôi thủy sản nước ngọt gắn với nghiên cứu các giải pháp đáp ứng nguồn nước; chú ý phát triển các giống loài nuôi có giá trị kinh tế cao để chủ động tạo nguồn nguyên liệu phục vụ chế biến xuất khẩu;

- Đẩy mạnh đánh bắt xa bờ, chú ý khai thác các hải đặc sản có giá trị cao, ứng dụng công nghệ mới trong khai thác và bảo quản sản phẩm. Tổ chức tốt hoạt động dịch vụ, phát huy hiệu quả các cảng, bến cá được đầu tư, thu hút tàu thuyền trong, ngoài tỉnh tập kết tiêu thụ sản phẩm để tạo vùng nguyên liệu tập trung phục vụ chế biến xuất khẩu;

- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm từ nguyên liệu, chế biến và tiêu thụ. Kiên quyết ngăn chặn tình trạng sử dụng hóa chất, kháng sinh cấm trong nguyên liệu và sản phẩm thủy sản. Tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến áp dụng quản lý chất lượng theo hệ thống. Tập trung thực hiện tốt Quy chế chứng nhận thủy sản khai thác xuất khẩu vào thị trường Châu Âu gắn với chỉ đạo thực hiện truy xuất nguồn gốc và thu hồi sản phẩm không đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm.

* Đối với thanh long:

Tập trung phát triển thanh long theo hướng an toàn, xây dựng vùng chuyên canh sản xuất thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP để tập trung đầu tư hạ tầng về điện, đường, nhà đóng gói phục vụ cho việc nâng cao chất lượng sản phẩm thanh long, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm để phục vụ cho yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tăng cường quản lý quy hoạch vùng trồng thanh long, không phát triển tràn lan. Triển khai chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả an toàn để đẩy mạnh diện tích thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP.

* Đối với cao su, điều:

Tiếp tục rà soát, quy hoạch phát triển cao su trên cơ sở xem xét tính thích nghi của cao su trên từng địa bàn, khu vực cụ thể; kiểm soát việc đầu tư phát triển cao su đúng quy hoạch; thực hiện việc chuyển đổi diện tích rừng nghèo kiệt sang trồng cao su theo đúng quy định. Tổ chức thu mua, tiêu thụ sản phẩm cho nông dân ổn định và lâu dài. Bằng các biện pháp tích cực quản lý tốt sản xuất gắn với chế biến, quản lý nguồn nguyên liệu. Khuyến khích, thu hút và hỗ trợ đầu tư nâng cấp, cải tiến công nghệ các nhà máy chế biến mủ cao su, chế biến điều ở vùng quy hoạch tập trung trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các điều kiện vệ sinh môi trường.

* Đối với khai thác, chế biến xuất khẩu cát đen:

Tăng cường các biện pháp quản lý chặt chẽ các hoạt động khai thác, tận thu cát đen; tiến tới gắn khai thác với chế biến sâu các sản phẩm cát đen để tăng giá trị xuất khẩu.

b) Giải pháp về thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, chế biến các sản phẩm lợi thế xuất khẩu:

Có chính sách ưu đãi, khuyến khích thu hút đầu tư vào những dự án phát triển sản xuất chế biến hàng xuất khẩu với cơ chế chính sách đồng bộ và hấp dẫn và coi đây là bước đột phá trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế hướng về xuất khẩu nhằm tạo ra nguồn hàng phong phú, phục vụ xuất khẩu.

Tiếp tục tranh thủ sự giúp đỡ của các Bộ, ngành mời gọi các nhà đầu tư có tên tuổi trong và ngoài nước đầu tư các dự án nuôi trồng và chế biến hàng thủy hải sản xuất khẩu; dệt may xuất khẩu; sản xuất đồ gỗ xuất khẩu; nhà máy chiếu xạ, nhà máy xử lý nhiệt, nhà máy chế biến các sản phẩm từ thanh long …

c) Giải pháp nâng cao năng lực các doanh nghiệp:

- Hỗ trợ doanh nghiệp trong việc xây dựng chiến lược kinh doanh, quan tâm và đẩy mạnh xúc tiến thương mại, chú trọng phát triển mặt hàng xuất khẩu chủ lực, mặt hàng xuất khẩu mới và có các chương trình cụ thể tiếp cận các thị trường xuất khẩu chính yếu, tiềm năng nhằm tạo dựng thương hiệu và danh tiếng doanh nghiệp trên thị trường trong nước và quốc tế;

- Hướng dẫn, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tiếp cận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước phục vụ yêu cầu phát triển xuất khẩu của tỉnh; vận dụng tốt các chính sách về vốn tín dụng xuất khẩu; về hỗ trợ đổi mới thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm lợi thế của tỉnh; về đào tạo nâng cao trình độ, năng lực cho cán bộ quản lý của doanh nghiệp; về đăng ký để thụ hưởng các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia;

- Tiếp tục tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về nghiệp vụ xuất khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế, các chuyên đề đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có tiềm năng… chú trọng việc tập huấn, hướng dẫn các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch các sản phẩm hàng hóa, nhất là đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thanh long vào thị trường Trung Quốc, hạn chế dần xuất khẩu theo hình thức biên mậu.

d) Giải pháp nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm xuất khẩu:

- Tập trung phát triển công nghiệp chế biến một cách đồng bộ, vận dụng tốt chính sách khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp chế biến để đổi mới công nghệ, thiết bị theo hướng hiện đại; tập trung ưu tiên đầu tư phát triển công nghiệp chế biến mặt hàng lợi thế có tác động trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của tỉnh là: hải sản, nhân điều, thanh long, đồ gỗ, cao su, sản phẩm may mặc và đặc biệt là nhóm sản phẩm hàng hóa có hàm lượng công nghệ cao;

- Xúc tiến đầu tư, thu hút các dự án đầu tư phát triển chế biến xuất khẩu vào các khu công nghiệp đã được quy hoạch, nhất là chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng cao (đồ hộp, hàng khô cao cấp, sản phẩm ăn nhanh); các dự án trực tiếp phục vụ xuất khẩu thanh long như: xây dựng nhà máy gia nhiệt, chiếu xạ, nhà máy đóng gói, chế biến, kho lạnh bảo quản thanh long;

- Nâng cao khả năng đáp ứng về yêu cầu chất lượng, bảo đảm đạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm và tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm xuất khẩu đối với từng thị trường; đây là chìa khóa để thâm nhập vào các thị trường xuất khẩu lớn của thế giới. Bên cạnh đó, hỗ trợ các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng (ISO, HACCP…), tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh một cách khoa học để hạ giá thành sản phẩm, giảm chi phí lưu thông tăng sức cạnh tranh của sản phẩm;

- Chú trọng công tác xây dựng và phát triển thương hiệu hàng hóa, đẩy mạnh hoạt động quảng bá và quản lý có hiệu quả việc sử dụng thương hiệu, sản phẩm lợi thế địa phương (thanh long Bình Thuận, nước mắm Phan Thiết) trên thị trường cả trong nước và ngoài nước; quan tâm hỗ trợ xây dựng thương hiệu của doanh nghiệp xuất khẩu.

đ) Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và mở rộng thị trường xuất khẩu:

- Triển khai mạnh hoạt động quảng bá tiếp thị, xúc tiến thương mại và thu hút đầu tư; khuyến khích, tạo điều kiện hỗ trợ các doanh nghiệp vươn lên, tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Thiết lập mối liên hệ thường xuyên giữa các cơ quan và doanh nghiệp của tỉnh với các cơ quan đại diện ngoại giao, các thương vụ và Tham tán thương mại Việt Nam tại nước ngoài để tiếp nhận, thu thập thông tin phục vụ yêu cầu mở rộng thị trường, phát triển xuất khẩu; phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành Trung ương để tháo gỡ những vướng mắc về rào cản kỹ thuật trong thương mại nhằm đẩy mạnh xuất khẩu;

- Nghiên cứu và dự báo sản xuất các mặt hàng mới có tiềm năng phát triển và nhu cầu tiêu thụ lâu dài;

- Phổ biến, hướng dẫn giúp các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng xuất khẩu trong việc tiếp cận và tham gia các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm của quốc gia, các nội dung của Chương trình xúc tiến thương mại hàng năm của tỉnh. Triển khai công tác hỗ trợ việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm, doanh nghiệp xuất khẩu của tỉnh lên các trang web, cổng thông tin của Bộ Công thương, Cục Xúc tiến thương mại, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và của các tổ chức xúc tiến thương mại khác;

- Tiếp tục củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu theo hướng đa dạng hóa thị trường và quan tâm nhiều hơn nữa đến thị trường sản phẩm chất lượng cao; tăng kim ngạch xuất khẩu trực tiếp và sản phẩm xuất khẩu đã qua chế biến; hạn chế dần ủy thác xuất khẩu, mua bán biên giới và sản phẩm sơ chế, gia công;

- Riêng đối với thanh long, cần quan tâm hơn nữa việc quảng bá sản phẩm thanh long và xúc tiến thương mại cả thị trường trong nước và ngoài nước. Phải thực hiện thường xuyên liên tục nhiều năm và phải xem nhiệm vụ này là đầu tư cho sự bền vững của quá trình phát triển cây thanh long.

Quan tâm hướng dẫn và có biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh xuất khẩu chính ngạch các sản phẩm hàng hóa (nhất là trái thanh long) vào thị trường Trung Quốc, hạn chế dần xuất khẩu theo hình thức biên mậu. Theo dõi, đôn đốc việc thực hiện các nội dung đã đàm phán với Đài Loan về việc dỡ bỏ rào cản thanh long vào thị trường này. Bên cạnh đó cần tăng cường quảng bá, giới thiệu sản phẩm bằng nhiều hình thức đối với các thị trường khác, trong đó tập trung xúc tiến vào thị trường Ấn Độ, Myanmar (đây là thị trường mới đối với thanh long, chưa có khách hàng và kênh tiêu thụ ở thị trường này) và các nước có khí hậu nóng (cả năm hoặc có mùa nóng trong năm) để mở rộng thị trường xuất khẩu. Ngoài ra, cần quan tâm thực hiện xúc tiến thương mại, quảng bá thanh long đối với một số thị trường mới, có tiềm năng và triển vọng phát triển như: thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, thị trường Hoa Kỳ và Canada, thị trường Châu Âu, Liên bang Nga.

e) Giải pháp về cơ chế chính sách:

- Tiếp tục nghiên cứu cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư hấp dẫn qua các thủ tục trong việc giao đất, cho thuê đất, giải tỏa, đền bù, giải phóng mặt bằng, có cơ chế phối hợp hiệu quả trong thu hút đầu tư phát triển sản xuất, nhất là sản xuất hàng xuất khẩu;

- Tiếp tục thực hiện một số giải pháp hỗ trợ kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, chính sách khuyến công, khuyến nông, khuyến ngư; chính sách áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cung cấp thông tin thị trường, phát triển hạ tầng phục vụ sản xuất nông nghiệp. Tiếp tục hỗ trợ hình thành và phát triển các ngành công nghiệp mới, nhất là công nghiệp chế biến hàng nông lâm hải sản xuất khẩu;

- Thực hiện tốt các cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích hoạt động xúc tiến thương mại, phát triển xuất khẩu đã được Trung ương và UBND tỉnh ban hành, vận dụng các cơ chế chính sách khuyến khích tiêu thụ hàng nông sản mà WTO không cấm, nhằm hỗ trợ tối đa cho doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh;

- Đẩy mạnh việc thực hiện Đề án 30/CP về đơn giản hóa các thủ tục hành chính thuế, tập trung vào thủ tục đăng ký thuế và thủ tục kê khai thuế (kê khai thuế qua mạng internet, nộp thuế qua ngân hàng,…); triển khai kịp thời các cơ chế chính sách về hoàn, miễn, giảm, gia hạn nộp thuế…

Phần IV

TỔ CHỨC THỰC HIỆN

1. Sở Công thương:

- Xây dựng Chương trình phát triển sản xuất các sản phẩm công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tham gia xuất khẩu của tỉnh đến năm 2015, chú ý xây dựng cơ sở chế biến mủ cao su đáp ứng nhu cầu thị trường, bảo đảm vệ sinh môi trường; Chương trình phát triển mạng lưới điện phục vụ sản xuất - chế biến hàng xuất khẩu; Đề án phát triển thị trường đối với trái thanh long đáp ứng việc tăng nhanh sản lượng hiện nay và những năm tiếp theo;

- Chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu thực hiện tốt chính sách ưu đãi hỗ trợ các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ, thiết bị tại Quyết định số 06/2011/QĐ-UBND ngày 07/4/2011 nhằm nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh các sản phẩm lợi thế của tỉnh, phục vụ xuất khẩu;

- Xây dựng Chương trình Xúc tiến thương mại của tỉnh; hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia các nội dung trong Chương trình Xúc tiến thương mại quốc gia nhằm giúp doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng thị trường xuất khẩu, quảng bá thương hiệu sản phẩm; xây dựng đề án Quảng bá thanh long sang thị trường Hoa Kỳ trình Bộ Công thương đưa vào Chương trình xúc tiến thương mại quốc gia 2012 tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu thanh long vào thị trường Hoa Kỳ;

- Xây dựng và triển khai Chương trình Khuyến công của tỉnh, triển khai Chương trình Khuyến công quốc gia nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp - TTCN trong việc đào tạo lao động - cán bộ quản lý của doanh nghiệp, đầu tư máy móc, thiết bị mở rộng sản xuất, đa dạng hóa sản phẩm phục vụ xuất khẩu;

- Thiết lập mối quan hệ với các cơ quan Thương vụ - Tham tán Thương mại Việt Nam tại các nước để tiếp nhận thông tin về tình hình thị trường, các rào cản kỹ thuật trong thương mại,… phổ biến kịp thời đến các doanh nghiệp để ứng phó và hạn chế rủi ro, tổn thất.

2. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

- Chủ trì phối hợp với các sở ngành liên quan đánh giá tình hình thực hiện các quy hoạch phát triển các sản phẩm thủy sản xuất khẩu trong thời gian qua; nghiên cứu xây dựng Chương trình phát triển các sản phẩm xuất khẩu thủy sản của tỉnh đến năm 2015 đồng bộ từ khâu quy hoạch nuôi trồng, khai thác, dịch vụ nghề cá, chế biến sản phẩm. Chú trọng công tác quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh, an toàn và quản lý chặt chẽ môi trường; chú ý đẩy mạnh đầu tư các giống loài nuôi có giá trị kinh tế cao, phù hợp nhu cầu thị trường tạo nguồn nguyên liệu chế biến xuất khẩu; đẩy mạnh đánh bắt xa bờ có tổ chức, bằng các loại nghề phù hợp, ứng dụng khoa học - công nghệ mới trong khai thác và bảo quản sản phẩm; chính sách quản lý và bảo vệ nguồn lợi thủy sản, nhất là các sản phẩm phục vụ chế biến xuất khẩu;

- Rà soát, thúc đẩy, thu hút các dự án đầu tư phát triển chế biến hàng xuất khẩu, nhất là chế biến sản phẩm có giá trị gia tăng (thủy sản đóng hộp, sản phẩm ăn nhanh, các sản phẩm chế biến từ trái thanh long…); các dự án xây dựng nhà máy xử lý nhiệt, nhà máy chiếu xạ nhằm đáp ứng yêu cầu xử lý sản phẩm trước khi xuất khẩu theo quy định của một số thị trường;

- Theo dõi việc triển khai thực hiện chính sách khuyến khích các doanh nghiệp và cơ sở thu mua đầu tư tàu dịch vụ hậu cần, thu mua hải sản trên biển; nghiên cứu xây dựng các mô hình liên kết giữa người khai thác, thu mua hải sản và các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thủy sản. Tổ chức tốt các hoạt động dịch vụ tại các cảng, bến cá nhằm thu hút tàu thuyền tập kết, tiêu thụ sản phẩm;

- Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm từ khâu nguyên liệu - bảo quản - chế biến - tiêu thụ; kiên quyết ngăn chặn tình trạng lạm dụng các hóa chất, kháng sinh cấm sử dụng trong nuôi trồng, bảo quản sản phẩm…;

- Chủ trì phối hợp với các sở ngành liên quan đánh giá tình hình thực hiện các quy hoạch phát triển các sản phẩm nông - lâm sản của tỉnh trong giai đoạn trước, nghiên cứu xây dựng Chương trình phát triển xuất khẩu các sản phẩm nông - lâm sản của tỉnh đến năm 2015 đồng bộ từ khâu quy hoạch, kế hoạch sản xuất, chuyển giao các tiến bộ khoa học công nghệ về giống, chăm sóc, kỹ thuật canh tác, bảo quản, chế biến sản phẩm và tổ chức xuất khẩu, trình UBND tỉnh phê duyệt để triển khai thực hiện;

- Tiếp tục rà soát, phát triển cao su trên địa bàn theo đúng quy hoạch. Tập trung phát triển thanh long theo hướng an toàn, xây dựng vùng chuyên canh thanh long theo tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP nhằm tạo thuận lợi trong việc đầu tư kết cấu hạ tầng (điện, đường,…) phục vụ sản xuất - chế biến - xuất khẩu; kiên quyết ngăn chặn tình trạng lạm dụng các hóa chất BVTV, thuốc kích thích tăng trưởng trên thanh long;

- Tham mưu, phối hợp Cục Bảo vệ thực vật triển khai các giải pháp kỹ thuật trong sản xuất đáp ứng yêu cầu và thỏa thuận với cơ quan Kiểm dịch Động Thực vật Đài Loan đối với thanh long khi xuất khẩu vào thị trường Đài Loan. Tiếp tục triển khai mở rộng diện tích vùng trồng thanh long theo tiêu chuẩn Hoa Kỳ. Hướng dẫn các doanh nghiệp xây dựng nhà sơ chế, đóng gói đảm bảo an toàn, nâng cao số lượng nhà đóng gói hội đủ tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tạo điều kiện đẩy mạnh xuất khẩu thanh long trước xu thế các nước áp dụng hàng rào kỹ thuật ngày càng khắc khe hơn.

3. Sở Tài nguyên và Môi trường:

- Hoàn thành quy hoạch khoáng sản trên địa bàn và triển khai thực hiện quy hoạch; tăng cường các biện pháp quản lý, khai thác hợp lý các mỏ Ilmenit-Zircon, nước khoáng,… và các nguồn tài nguyên khoáng sản khác trên địa bàn, đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho các doanh nghiệp tham gia chế biến tạo ra sản phẩm xuất khẩu;

- Cùng phối hợp với các sở, ngành liên quan thực hiện rà soát quy hoạch các vùng nuôi trồng thủy sản, thanh long, cao su… tạo nguồn nguyên liệu phục vụ xuất khẩu.

4. Sở Khoa học và Công nghệ:

- Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng tham mưu UBND tỉnh phê duyệt các đề tài nghiên cứu, áp dụng công nghệ tiên tiến trong bảo quản thanh long, tạo điều kiện để xuất khẩu thanh long vào các thị trường Châu Âu, Châu Mỹ…; đa dạng hóa sản phẩm chế biến từ trái thanh long để tham gia xuất khẩu;

- Chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng tham mưu UBND tỉnh phê duyệt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất - xuất khẩu các sản phẩm lợi thế trong việc đổi mới công nghệ, thiết bị, xây dựng và áp dụng các hệ thống quản lý chất lượng phù hợp, xây dựng và bảo hộ thương hiệu;

- Xây dựng chương trình tuyên truyền, phổ biến, cung cấp thông tin về hàng rào kỹ thuật trong thương mại liên quan đến các doanh nghiệp xuất khẩu trên địa bàn.

5. Sở Kế hoạch và Đầu tư:

- Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh điều chỉnh, bổ sung Chương trình phát triển các sản phẩm lợi thế của tỉnh giai đoạn 2011 - 2015 cho phù hợp với tình hình thực tế đang diễn ra tại địa phương, kèm theo sự tác động của nền kinh tế thế giới;

- Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh phân khai chỉ tiêu kinh tế - xã hội, cân đối, bổ sung kế hoạch vốn đầu tư các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ xuất khẩu tại các địa bàn, khu quy hoạch sản xuất - chế biến hàng xuất khẩu (cảng vận tải, sân bay, nâng cấp hệ thống giao thông…);

- Phối hợp với các sở, ngành liên quan tham mưu UBND tỉnh bổ sung các chính sách khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu cho doanh nghiệp, đồng thời triển khai thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương.

6. Sở Giao thông vận tải:

- Chủ trì, phối hợp với các sở, ngành liên quan xây dựng kế hoạch đầu tư các công trình trọng điểm của ngành nhất là hệ thống giao thông bảo đảm đồng bộ, thông suốt, trong đó chú trọng đến việc nâng cấp, mở mới các tuyến đường giao thông nông thôn đến các vùng quy hoạch sản xuất hàng xuất khẩu, tạo thuận lợi cho việc vận chuyển sản phẩm từ nơi sản xuất về đến kho (chế biến, bảo quản) và chuyển hàng đến cảng…;

- Tiếp tục theo dõi tham mưu đẩy nhanh việc triển khai các dự án cảng (cảng chuyên dùng Vĩnh Tân, cảng Sơn Mỹ), đường cao tốc Dầu Giây - Phan Thiết, sân bay Phan Thiết…

7. Sở Lao động, Thương Binh và Xã hội:

- Xây dựng kế hoạch đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu phát triển của thị trường lao động, gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, đặc biệt là đào tạo nghề cho lao động nông thôn theo Chương trình mục tiêu quốc gia;

- Triển khai thực hiện tốt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Bình Thuận đến năm 2020” theo Quyết định số 249/QĐ-UBND ngày 27/01/2011 của UBND tỉnh;

- Tiếp tục đầu tư nâng cấp các cơ sở dạy nghề; có chính sách khuyến khích đầu tư và tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân thành lập, đầu tư xây dựng cơ sở dạy nghề;

- Xây dựng các chương trình tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về lao động cho các doanh nghiệp có sử dụng lao động và người lao động trong các doanh nghiệp liên quan đến tiền lương, tiền thưởng, chế độ BHXH, BHYT, an toàn lao động, vệ sinh lao động… phù hợp với luật pháp Việt Nam và các Công ước quốc tế mà Việt Nam có tham gia.

8. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch:

Xây dựng chương trình tuyên truyền phổ biến nghị quyết, chủ trương chính sách của Tỉnh ủy, UBND tỉnh liên quan đến vấn đề phát triển xuất khẩu, hội nhập kinh tế quốc tế…; giới thiệu, quảng bá sản phẩm hàng hóa của địa phương, nhất là các sản phẩm lợi thế đến công chúng trong nước và khách du lịch quốc tế bằng nhiều hình thức thông qua các chương trình phát thanh - truyền hình, báo chí, chương trình xúc tiến - quảng bá du lịch, các sự kiện văn hóa - thể thao - du lịch.

9. Sở Tài chính:

Tham mưu UBND tỉnh cân đối ngân sách hàng năm, có kế hoạch bố trí đầy đủ, kịp thời nguồn kinh phí bảo đảm cho các chương trình (XTTM, hỗ trợ xây dựng hệ thống quản lý chất lượng, hỗ trợ đổi mới công nghệ, thiết bị…) bảo đảm tiến độ thực hiện theo kế hoạch.

10. Cục Thuế:

- Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện Đề án 30/CP về đơn giản hóa các thủ tục hành chính thuế, tập trung vào thủ tục đăng ký thuế và thủ tục kê khai thuế;

- Triển khai thực hiện các Đề án thuộc Chiến lược cải cách hiện đại hóa công tác thuế giai đoạn 2011 - 2020 đảm bảo lộ trình và yêu cầu đã đề ra như: Dự án kê khai thuế qua mạng internet; Dự án tập trung thu NSNN qua việc ứng dụng và kết nối thông tin giữa cơ quan thuế, hải quan, kho bạc và tài Chính; Dự án nộp thuế qua ngân hàng;

- Tham mưu, triển khai kịp thời các cơ chế chính sách của Trung ương và địa phương (như các biện pháp hoàn, miễn, giảm, gia hạn nộp thuế…) nhằm duy trì, phục hồi và thúc đẩy sản xuất - kinh doanh phát triển, trong đó tập trung cho đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ.

11. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - Chi nhánh Bình Thuận:

- Tham mưu chính sách cho vay phục vụ chương trình xuất khẩu của tỉnh như: tập trung đầu tư vốn cho nhu cầu phát triển các vùng nguyên liệu cho xuất khẩu, các ngành hàng xuất khẩu chủ lực của tỉnh. Áp dụng thực hiện cho vay bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay là vật tư hàng hóa tạo điều kiện đáp ứng đủ nguồn vốn kinh doanh cho doanh nghiệp;

- Tham mưu chính sách khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng trong và ngoài tỉnh mở rộng mạng lưới chi nhánh hoặc thành lập mới tổ chức tín dụng để tăng tính cạnh tranh, nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng;

- Xây dựng, triển khai thực hiện việc đa dạng hóa các hình thức huy động vốn tại chỗ, nguồn vốn hỗ trợ từ Hội sở chính để tập trung vốn, mở rộng đầu tư cho vay phát triển xuất khẩu; trong đó: mở rộng nhiều hình thức tín dụng ngoại tệ phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu; đồng thời, thực hiện tốt công tác thanh toán quốc tế, đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán vốn cho khách hàng;

- Xây dựng chương trình, kế hoạch tiếp cận các Hiệp hội ngành nghề, các phương tiện thông tin đại chúng để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá về các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, tìm kiếm dự án hoặc ủy thác cho vay; tìm hiểu nắm bắt những khó khăn của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu liên quan đến lĩnh vực của ngành để có biện pháp giải quyết hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết kịp thời.

12. Ngân hàng Phát triển Việt Nam - Chi nhánh Bình Thuận:

Xây dựng chương trình, kế hoạch phổ biến, hướng dẫn thủ tục thực hiện chính sách tín dụng, đặc biệt là chính sách tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu, chính sách bảo lãnh cho doanh nghiệp vay vốn các ngân hàng thương mại… bằng nhiều hình thức (khảo sát, tiếp cận doanh nghiệp để tìm hiểu thông tin, giúp giải quyết tháo gỡ khó khăn…) tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu tiếp cận và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư phát triển của Nhà nước phục vụ yêu cầu phát triển xuất khẩu của tỉnh.

13. Ban Quản lý các khu công nghiệp:

- Tiếp tục theo dõi tham mưu đẩy nhanh việc đầu tư kết cấu hạ tầng các KCN; tham mưu chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào KCN tạo ra sản phẩm, hàng hóa phục vụ nhu cầu xã hội và xuất khẩu;

- Chủ động phối hợp với các sở, ngành liên quan tạo điều kiện thuận lợi, hỗ trợ các doanh nghiệp trong khu công nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ của Trung ương, của tỉnh (chính sách về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị, đào tạo công nhân - cán bộ quản lý doanh nghiệp…); tham gia các chưong trình xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm;

- Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ thiết bị để tăng năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm; chú trọng phát triển các sản phẩm có giá trị tăng cao, các sản phẩm lợi thế của tỉnh.

14. UBND các huyện, thị xã, thành phố:

Phối hợp với các sở, ngành trong việc tham mưu, đôn đốc triển khai thực hiện các chương trình, kế hoạch có liên quan đến địa phương; trong đó chú trọng việc rà soát, điều chỉnh quy hoạch phát triển các sản phẩm lợi thế; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ phục vụ phát triển nông nghiệp, công nghiệp sản xuất chế biến hàng xuất khẩu; hỗ trợ thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư sản xuất - chế biến hàng xuất khẩu.

15. Các Hiệp hội ngành hàng:

Củng cố và phát huy đúng mức vai trò các Hiệp hội ngành nghề trong thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp phát triển xuất khẩu của địa phương, vận động các doanh nghiệp tham gia thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các chỉ đạo của UBND tỉnh và của các Bộ, ngành Trung ương. Thực hiện tốt vai trò cầu nối giữa các doanh nghiệp, trao đổi, cung cấp thông tin thị trường và khách hàng trong các doanh nghiệp hội viên, tạo sự đoàn kết, gắn bó để đạt lợi ích chung trong sản xuất kinh doanh, cùng nhau phát triển, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững của tỉnh.

16. Các doanh nghiệp:

- Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư, cải tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo các yêu cầu của thị trường nhất là an toàn vệ sinh thực phẩm, nâng cao giá trị và sức cạnh tranh của sản phẩm. Đối với những doanh nghiệp nhỏ, nhất là đối với những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thanh long, cần bổ sung, tăng cường nhân lực có trình độ ngoại ngữ, am hiểu nghiệp vụ ngoại thương… để có thể giao dịch, ký kết hợp đồng xuất khẩu theo con đường chính ngạch;

- Cần năng nổ, tích cực và chủ động tham gia các Chương trình xúc tiến thương mại để tìm kiếm, phát triển mở rộng thị trường, quảng bá sản phẩm, quảng bá thương hiệu trong và ngoài nước;

- Liên kết chặt chẽ với nông dân, ngư dân để ổn định quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, bảo đảm có đủ nguồn hàng chất lượng cao phục vụ sản xuất - chế biến, đạt các tiêu chuẩn quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đáp ứng yêu cầu của khách hàng; các doanh nghiệp cần tăng cường sự đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau; thông qua mối liên kết sẽ tạo nên sức mạnh, cùng nhau đẩy mạnh việc xuất khẩu sản phẩm hàng hóa ra thị trường nước ngoài.

17. Ban Chỉ đạo phát triển xuất khẩu:

- Giúp UBND tỉnh nghiên cứu, đề xuất, xây dựng các chương trình, kế hoạch nhằm thực hiện nhiệm vụ và các mục tiêu về xuất khẩu của tỉnh; đồng thời hướng dẫn, đôn đốc các sở, ngành có liên quan để phối hợp thực hiện tốt các chương trình, kế hoạch, mục tiêu về xuất khẩu của tỉnh đã được UBND tỉnh phê duyệt;

- Ngoài ra, theo chức năng nhiệm vụ và lĩnh vực phụ trách, các sở ngành thành viên Ban chỉ đạo cần tăng cường gặp gỡ, đối thoại với các Hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp xuất khẩu để nắm tình hình, kịp thời giải quyết hoặc đề xuất UBND tỉnh giải quyết khó khăn vướng mắc cho doanh nghiệp, bàn các giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, đẩy mạnh xuất khẩu./.

 

 

FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN

 

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Quyết định 2641/QĐ-UBND năm 2011 phê duyệt Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Bình Thuận giai đoạn 2011 - 2015 do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận ban hành

  • Số hiệu: 2641/QĐ-UBND
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 08/12/2011
  • Nơi ban hành: Tỉnh Bình Thuận
  • Người ký: Lê Tiến Phương
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 08/12/2011
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản