- 1Luật du lịch 2005
- 2Luật Doanh nghiệp 2005
- 3Luật Điện ảnh 2006
- 4Luật Thể dục, Thể thao 2006
- 5Nghị quyết số 90-CP về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá do Chính phủ ban hành
- 6Nghị định 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao
- 7Pháp Lệnh thư viện năm 2000
- 8Luật di sản văn hóa 2001
- 9Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001
- 10Nghị định 171/2004/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- 1Quyết định 100/2005/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Quyết định 271/2005/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Quyết định số 61/2005/QĐ-BVHTT phê duyệt Đề án Quy hoạch phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa đến năm 2010 do Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin ban hành
- 4Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
- 5Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 6Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về việc đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao do Chính Phủ ban hành
- 7Nghị định 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường
- 8Quyết định 26/2008/QĐ-UBND về Quy định cơ chế, chính sách thu hút đầu tư lĩnh vực xã hội hóa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng do Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành
- 9Công văn 4509/BVHTT-KHTC năm 2005 hướng dẫn thực hiện đề án quy hoạch phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa đến năm 2010
- 10Nghị quyết số 20/2001/NQ-HĐND tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao do tỉnh Lâm Đồng ban hành
- 11Quyết định 61/2003/QĐ-UB phê duyệt dự án “Quy hoạch phát triển sự nghiệp thể dục thể thao tỉnh Lâm Đồng đến năm 2010 và những năm tiếp theo
- 12Chỉ thị 19/2005/CT-UBND về việc đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao và bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1403/QĐ-UBND | Đà Lạt, ngày 19 tháng 6 năm 2009 |
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao;
Căn cứ Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường;
Thực hiện Nghị quyết số 24/2003/NQ-TU, ngày 12/10/2003 của Tỉnh ủy Lâm Đồng về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao và thực hiện bảo trợ xã hội;
Xét đề nghị của Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tại Tờ trình số 43/TT-VHTTDL ngày 28/5/2009,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Đề án “Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2009 – 2015 và tầm nhìn đến 2020” ban hành kèm theo Quyết định này.
Điều 2. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và UBND các huyện, thị xã, thành phố tổ chức triển khai thực hiện đề án này.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh; Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Thủ trưởng các sở, ban, ngành, đoàn thể cấp tỉnh và Chủ tịch UBND các huyện, thị xã Bảo Lộc, thành phố Đà Lạt có trách nhiệm thi hành Quyết định này kể từ ngày ký ban hành./-
| TM. ỦY BAN NHÂN DÂN |
XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, THỂ DỤC THỂ THAO TỈNH LÂM ĐỒNG GIAI ĐOẠN 2009 – 2010 VÀ TẦM NHÌN ĐẾN 2020
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1403/QĐ-UBND ngày 19/6/2009 của UBND tỉnh Lâm Đồng)
NHỮNG CĂN CỨ XÂY DỰNG ĐỀ ÁN XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, THỂ DỤC THỂ THAO
I. Các văn bản chỉ đạo của Trung ương.
- Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”.
- Chỉ thị số 17/2002/CT-TW ngày 23/10/2002 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) về phát triển thể dục thể thao đến 2010.
- Quyết định số 100/2005/QĐ-TTg ngày 10/5/2005 của Thủ tướng Chínhphủ về chương trình phát triển thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn.
- Quyết định số 271/2005/QĐ-TTg ngày 31/10/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường đầu tư xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho các hoạt động văn hóa, thể thục thể thao ở các địa phương và cơ sở.
- Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao.
- Quyết định số 1363/2005/QĐ-UBTDTT ngày 30/6/2005 của Ủy ban Thể dục thể thao quốc gia về việc phê duyệt đề án phát triển xã hội hóa thể dục thể thao đến năm 2010.
- Quyết định số 61/2005/QĐ-BVHTT ngày 4/11/2005 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin về phê duyệt đề án quy hoạch xã hội hóa các hoạt động văn hóa và Kế hoạch số 4509/2005/BVHTT -KHTC ngày 5/11/2005 của Bộ Văn hóa Thông tin về hướng dẫn thực hiện quy hoạch phát triển xã hội hóa các hoạt động văn hóa đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015.
- Nghị định số 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
- Nghị định 43/CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ về chính sách tự chủ tài chính của các đơn vị sự nghiệp.
II. Các văn bản của địa phương
- Nghị quyết số 20/2001/NQ-HĐND ngày 27/2/2001 của HĐND tỉnh Lâm Đồng khóa VI về việc tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao theo tinh thần chỉ đạo của Chính phủ.
- Nghị quyết số 24/2003/NQ-TU, ngày 12/10/2003 của Tỉnh ủy Lâm Đồng về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao và thực hiện bảo trợ xã hội.
- Quyết định số 61/2003/QĐ-UB ngày 08/5/2003 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc phê duyệt dự án Quy hoạch phát triển sự nghiệp thể dục thể thao tỉnh Lâm Đồng đến năm 2010 và những năm tiếp theo.
- Chỉ thị số 19/2005/CT-UB ngày 21/11/2005 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao và bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
- Quy hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa thông tin Lâm Đồng giai đoạn 2006 – 2010 và tầm nhìn đến 2020 được UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt tại Quyết định số 1248/QĐ-UBND ngày 7/5/2007 và Bộ Văn hóa Thông tin phê duyệt tại công văn số 61/2007/CV-BVHTT ngày 8/2/2007.
- Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND ngày 9/7/2008 của UBND tỉnh Lâm Đồng về việc ban hành quy định một số cơ chế chính sách thu hút đầu tư lĩnh vực xã hội hóa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
- Kết quả hơn 5 năm (2001 - 2007) triển khai thực hiện Nghị quyết 90/CP, Nghị định 73/CP của Chính phủ và Nghị quyết 20/2001/NQ-HĐND của HĐND tỉnh Lâm Đồng về thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
I. Tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Lâm Đồng.
Lâm Đồng là tỉnh miền núi Nam Tây Nguyên, nằm ở độ cao 800 đến 1.000 m so với mặt nước biển, tổng diện tích tự nhiên 9.764 km2 trong đó diện tích rừng chiếm trên 65%, địa hình đồi núi nằm trên 3 cao nguyên và khu vực đầu nguồn của 7 hệ thống sông suối lớn. Thời tiết ôn hòa mát mẻ quanh năm, nhiệt độ trung bình trong năm là 18 đến 250c. Tỉnh Lâm Đồng có 10 đơn vị hành chính huyện và 2 đô thị Đà Lạt và Bảo Lộc; 147 đơn vị hành chính xã, phường, thị trấn. Cơ cấu kinh tế chung của tỉnh là nông- lâm- công nghiệp và dịch vụ (trong đó nghề rừng, trồng cây công nghiệp, rau, hoa và chế biến nông sản là chủ yếu). Tốc độ tăng trưởng GDP đạt 14,1%; thu nhập GDP bình quân đầu người 12,5 triệu đồng/người/năm (mức tính của năm 2008).
Tổng dân số Lâm Đồng trên 1,2 triệu người, với cơ cấu thành phần dân cư là kinh tế mới và dân tộc thiểu số, được phân bố tập trung ở vùng đô thị, thị trấn, thị tứ, các dân tộc thiểu số chủ yếu ở vùng xa xôi hẻo lánh, trình độ dân trí thấp, kinh tế còn nhiều khó khăn. Với trên 40 dân tộc anh em cùng chung sống trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng từ lâu đời, các dân tộc có truyền thống đoàn kết xây dựng đời sống kinh tế và sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao đa dạng, phong phú và mang bản sắc độc đáo. Trong đó cộng đồng các dân tộc thiểu số bản địa Tây Nguyên gồm Kơho, Mạ, Churu và M’nông chiếm tỷ lệ trên 20% so với tổng số dân toàn tỉnh, đã đóng vai trò nòng cốt trong bản sắc văn hóa riêng của tỉnh Lâm Đồng.
Thành phố Đà Lạt với khí hậu điều hòa, cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp, với hệ thống dinh thự kiến trúc Pháp uy nghi tráng lệ, con người Đà Lạt có phong cách truyền thống hiền hòa thanh lịch và mến khách, Đà Lạt đã trở thành trung tâm hành chính, kinh tế - xã hội của tỉnh, trung tâm du lịch văn hóa, sinh thái và nghỉ dưỡng của cả nước và quốc tế. Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng, đã và đang có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế, văn hóa tinh thần của nhân dân. Hiệu quả từ phong trào này đem lại, đã tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở các địa phương và cơ sở phát triển bền vững.
II. Tình hình thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao trong những năm qua.
1. Những kết quả đạt được.
- Trong hơn 5 năm qua, được sự quan tâm lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Lâm Đồng, công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao đã được triển khai. Ngành văn hóa thể thao đã phốí hợp tích cực với các ngành chức năng, các địa phương, các tổ chức đoàn thể quần chúng, nhất là các tổ chức thành viên của UBMTTQ Việt Nam các cấp, đã huy động được nhiều lực lượng xã hội tham gia công tác xã hội hóa. Nhiều sản phẩm văn hóa, thể dục thể thao; nhiều hình thức sinh hoạt văn hóa, tập luyện thể dục thể thao cộng đồng được phát triển cả số lượng và chất lượng. Phong trào xây dựng đời sống văn hóa và thể dục thể thao ngày càng ăn sâu bén rễ trong quần chúng nhân dân. Nhiều giải thể thao quần chúng có sự đóng góp kinh phí và cơ sở vật chất của các tổ chức, tập thể và tư nhân đã được thực hiện thành công. Ngoài ra các tổ chức, cá nhân còn đóng góp vào việc xây dựng cơ sở vật chất, sân bãi và điều kiện hoạt động, để phát triển sự nghiệp thể dục thể thao. Toàn tỉnh hiện có gần 1.000 câu lạc bộ đa môn và đơn môn do các tổ chức và tư nhân thành lập. Các tổ chức xã hội về thể dục thể thao của tỉnh đã được thành lập và hoạt động hiệu quả như: Liên đoàn Võ thuật, Liên đoàn Bóng đá, Liên đoàn Bóng bàn, Câu lạc bộ Cầu lông, Câu lạc bộ Quần vợt, câu lạc bộ Mô tô được tổ chức và đi vào hoạt động nhiều năm nay tại đô thị Đà Lạt, Bảo Lộc và một số thị trấn huyện lỵ trong tỉnh. Toàn tỉnh đến nay đã có trên 400 đội văn nghệ quần chúng hoạt động thường xuyên. Trong đó có trên 100 đội văn nghệ cồng chiêng vùng đồng bào dân tộc hoạt động khá tốt, nhiều đội đã tự mua sắm trang bị, tự xây dựng chương trình, tập luyện phục vụ nhu cầu tìm hiểu, giao lưu hưởng thụ, cũng như vui chơi giải trí của nhân dân và du khách. Với tinh thần “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, từ nhiều nguồn vốn đầu tư, đến nay toàn tỉnh đã có trên 700 thôn, buôn, khu phố xây dựng được nhà sinh hoạt cộng đồng, đạt tỷ lệ gần 40%. Ngành bưu điện đã đầu tư 107 điểm Bưu điện văn hóa xã. Ngành tư pháp đầu tư 100% xã, phường, thị trấn có tủ sách pháp luật. Hoạt động phát hành phim và chiếu bóng đã được đẩy mạnh, toàn tỉnh có gần 200 đại lý mua bán và cho thuê băng đĩa hình do tư nhân tổ chức. Hoạt động dịch vụ phát hành sách, thư viện và vật phẩm văn hóa được các đối tượng quần chúng tích cực tham gia; với trên 400 cửa hàng, đại lý mua bán sách văn hóa phẩm, đã trở thành lực lượng khá hùng hậu (từ kết quả hoạt động xã hội hóa), đã và đang tích cực cung ứng vật tư văn hóa một cách nhanh nhạy, kịp thời tới mọi địa bàn dân cư trong tỉnh.
- Cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” được đông đảo quần chúng nhân dân tham gia. Đến nay toàn tỉnh đã có gần 700 thôn, buôn, khu phố đã phát động đăng ký xây dựng văn hóa; Trên 180 ngàn hộ tự nguyện đăng ký xây dựng gia đình văn hóa; Trên 500 cơ quan, đơn vị trong tỉnh đăng ký xây dựng văn hóa. Hàng năm đã động viên tinh thần nhân dân tự nguyện đóng góp hàng chục tỷ đồng, đầu tư vào xây dựng, sửa chữa, nâng cấp đường làng ngõ xóm, vệ sinh khai thông cống rãnh, kéo điện thắp sáng các tuyến đường trong thôn xóm; Xây dựng trường học, trạm xá, nhà văn hóa thôn, buôn, khu phố, thư viện tủ sách, trạm truyền thanh ở địa bàn dân cư…
- Phát huy vai trò định hướng sáng tạo nghệ thuật, những năm qua ngành văn hóa Thông tin, Thể dục thể thao (nay là văn hóa, thể thao và du lịch) đã phối hợp tích cực với Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh phát động và tổ chức nhiều đợt sáng tác văn học nghệ thuật, động viên tinh thần sáng tạo của mọi lực lượng văn nghệ sĩ, đến nay đã có trên 300 tác phẩm văn, thơ, nhạc, họa và ảnh nghệ thuật được in và phổ biến rộng rãi tới các đối tượng công chúng trong và ngoài tỉnh.
- Được thiên nhiên ưu đãi, Lâm Đồng là tỉnh có tiềm năng phát triển du lịch sinh thái, tham quan nghỉ dưỡng; Với cơ chế “Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trên địa bàn toàn tỉnh đã có gần 100 di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh được giao cho tư nhân và tổ chức quản lý, đầu tư tôn tạo, khai thác phục vụ phát triển kinh tế du lịch của tỉnh. Đến nay, hầu hết các điểm tham quan du lịch đã xếp hạng di tích cấp quốc gia và cấp tỉnh được cổ phần hóa, nhiều điểm đã được đầu tư, tôn tạo khá quy mô, trở thành điểm du lịch có thương hiệu, hấp dẫn, thu hút du khách trong nước và quốc tế tham quan, nghỉ dưỡng, thông qua đó đã đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh nhà.
- Các đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp công ích của ngành đã có sự chuyển biến lớn trong cơ chế mới; Hoạt động in, phát hành văn hóa phẩm đến nay đã cơ bản được cổ phần hóa xong và đi vào hoạt động theo chiều hướng ổn định và phát triển. Đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của tỉnh đang được chuyển đổi theo hướng là đoàn ca múa nhạc chuyên nghiệp, mang đặc trưng nghệ thuật truyền thống dân tộc bản địa Lâm Đồng.
- Những năm qua, một số cơ sở thể dục thể thao tổ chức, tư nhân đã được xây dựng và đi vào hoạt động khá tốt, có khả năng tổ chức được các giải cấp tỉnh và khu vực. Nhiều doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức xã hội đã tham gia đầu tư trực tiếp vào quá trình đào tạo vận động viên bóng đá, bóng chuyền, quần vợt… nhiều sân bãi tập luyện, thi đấu được đầu tư, nhất là sân bãi, câu lạc bộ thể dục, thể thao trong các cơ quan, đơn vị được đầu tư theo đúng tiêu chuẩn, có khả năng tổ chức các hoạt động thi đấu đỉnh cao. Ngoài ra, các cơ quan, đơn vị, tổ chức chính trị-xã hội đã đứng ra phối hợp với ngành chức năng tổ chức nhiều giải thể thao liên tịch, nhằm thu hút sự quan tâm rộng rãi của quần chúng nhân dân tham gia tập luyện, thi đấu, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho việc huy động tài trợ, kinh phí giải thưởng và góp phần nâng cao chất lượng hoạt động thể dục thể thao quần chúng trong tỉnh.
2. Những tồn tại yếu kém.
- Công tác tuyên truyền phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật Nhà nước về xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao chưa sâu rộng, thiếu cụ thể, còn đơn điệu về hình thức, khô khan, cứng nhắc về nội dung.
- Việc sắp xếp, đổi mới cơ chế tổ chức cán bộ, đổi mới cơ chế quản lý Nhà nước ở hầu hết các cơ quan, đơn vị trực thuộc ngành còn chậm, còn gặp nhiều khó khăn, lúng túng trong phương pháp triển khai thực hiện, dẫn đến kết quả thực hiện công tác xã hội hóa trên các lĩnh vực hoạt động ngành còn gặp nhiều khó khăn bất cập. Hệ thống chính sách khuyến khích xã hội hóa của Nhà nước hiện nay, còn chưa thật hợp lý, thiếu đồng bộ, chưa thực sự hấp dẫn thu hút vốn đầu tư, cũng như khai thác nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao.
- Đầu tư cho công tác văn hóa và thể dục thể thao (nhất là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị), còn mang nặng tính bình quân, chưa sát đặc điểm tính chất và nhu cầu thực tế ở từng địa phương và cơ sở; Một số dự án đầu tư cho văn hóa, thể dục thể thao thiếu tính kế hoạch hóa; Hiệu quả xã hội từ công tác đầu tư đem lại không cao, thậm chí có nơi còn gây lãng phí, phát sinh tiêu cực trong quá trình đầu tư cho các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao.
3. Nguyên nhân.
- Một số cấp ủy Đảng, chính quyền nhận thức về công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao còn thiếu sâu sát, cụ thể; dẫn đến việc lãnh, chỉ đạo còn chung chung, coi công tác văn hóa, thể dục thể thao là những hoạt động giải trí. Cho nên chưa quan tâm đến công tác quy hoạch, kế hoạch cũng như xây dựng thành chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy Đảng, chính quyền để định hướng chỉ đạo chung.
- Công tác quản lý Nhà nước của ngành còn có những mặt hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Đội ngũ cán bộ văn hóa, thể dục thể thao còn thiếu về số lượng, yếu tư tưởng, nhận thức và năng lực trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đã ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện, triển khai xã hội hóa công tác văn hóa, thể dục thể thao ở địa phương và cơ sở trong tỉnh.
- Bệnh quan liêu, trọng hình thức trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của ngành còn biểu hiện, cho nên việc nắm bắt thực tế địa bàn cũng như nhu cầu thực sự của công chúng còn thiếu sâu sát cụ thể. Chương trình kế hoạch đưa văn hóa, thể thao về các địa phương và cơ sở hiệu quả xã hội mang lại không cao, gây lãng phí ngân sách Nhà nước, làm suy giảm lòng tin trong nhân dân.
Để tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được, kịp thời khắc phục những hạn chế, tồn tại trong việc triển khai công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao những năm qua. Nội dung đề án phát triển xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng từ nay đến hết năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 cụ thể như sau:
NỘI DUNG TRIỂN KHAI THỰC HIỆN XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, THỂ DỤC THỂ THAO
I. Thuận lợi, khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện xã hội hóa.
1. Những thuận lợi.
- Nghị định 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, thể thao; Nghị quyết 90/2007/NQ-CP ngày 21/8/2007 của Chính phủ về phương hướng và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao được ban hành trong thời điểm toàn xã hội nước ta đang triển khai tích cực chủ trương đổi mới của Đảng và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó phải nói đến sự đổi mới tư duy, mà đặc biệt là tư duy kinh tế, đã đem lại cho mọi đối tượng trong xã hội có nhận thức mới; Từ tư duy “bao cấp” sang tư duy của một xã hội sản xuất hàng hóa, theo kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có tác động đáng kể đến tư tưởng, nhận thức của đại bộ phận quần chúng nhân dân. Từ chuyển đổi về nhận thức, cùng với sự tác động của cơ chế quản lý kinh tế và thực tiễn hoạt động của ngành văn hóa, thể dục thể thao những năm qua, đã đem lại sự biến đổi sâu sắc đối với các đơn vị doanh nghiệp của ngành như: Công ty Nhiếp ảnh, Công ty Chiếu bóng giải thể năm 1993, Công ty Điện ảnh thu gom đầu mối từ 1994, rồi lại gặp phải những khó khăn, lúng túng trong kinh doanh, đến năm 2001 chuyển sang doanh nghiệp công ích, năm 2006 bị thua lỗ kéo dài, nên chuyển sang hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp theo nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ. Công ty Sách Vật phẩm Văn hóa và Xí nghiệp In bị phá sản thu gọn đầu mối vào năm 1996, thực hiện cổ phần hóa năm 2004. Đoàn Nghệ thuật chuyên nghiệp, từ 03 đoàn (Kịch, Cải lương và Ca múa nhạc) vào những năm 80; Năm 1991, thu gọn đầu mối thành Đoàn Ca kịch tổng hợp “Thông xanh”; Năm 1994 giải thể thu gom vào một đoàn mang đặc trưng cho tỉnh miền núi, dân tộc là Đoàn Ca múa nhạc dân tộc Lâm Đồng hiện nay.
- Nghị quyết 05/2005/NQ-CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế và thể dục thể thao, cùng với Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao đã khẳng định một lần nữa chủ trương xã hội hóa là đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cụ thể hóa chính sách khuyến khích xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, tạo điều kiện cho công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao phát triển.
- Nhiều năm nay, ngành Văn hóa, Thể thao đang chỉ đạo thực hiện phương châm: “Xây dựng đời sống văn hóa, thể dục thể thao từ cơ sở và đưa hoạt động văn hóa, thể dục thể thao về cơ sở” là biện pháp thực thi xã hội hóa rất hữu hiệu, đã thực sự động viên tinh thần nhân dân trực tiếp cống hiến nguồn lực sẵn có vào các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở cơ sở, Nhà nước chỉ mang tính định hướng, hỗ trợ và tạo điều kiện cho sự nghiêp văn hóa, thể dục thể thao ở cơ sở phát triển. Hoạt động văn hóa, thể dục thể thao là nhu cầu tự thân của xã hội, như nhu cầu tự tập luyện, nâng cao sức khỏe và khả năng biểu diễn nghệ thuật, nhu cầu xem, thưởng thức và trực tiếp tham gia các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao; nhu cầu quảng cáo kinh tế, tiếp thị thông qua hoạt động văn hóa, thể dục thể thao của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong xã hội ngày một tăng, qua đó cho thấy văn hóa văn nghệ và thể dục thể thao là một hoạt động có tính xã hội rất cao.
- Cùng với sự tăng trưởng kinh tế, sự phát triển không ngừng của khoa học công nghệ, sự vận hành tích cực của cơ chế mới “Kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế”; Đời sống kinh tế và văn hóa của nhân dân không ngừng được nâng cao, nhu cầu văn hóa tinh thần cũng ngày càng phát triển. Đây chính là điều kiện cho việc thực hiện xã hội hóa các dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao, nhất là một số dịch vụ văn hóa, thể thao cao cấp. Tuổi thọ trung bình hàng năm trong toàn xã hội tỉnh nhà được tăng lên, sự đam mê các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao của các tầng lớp nhân dân (nhất là lớp trẻ và lớp người cao tuổi). Kinh tế xã hội phát triển, mức thu nhập của số đông nhân dân tăng lên, nhu cầu rèn luyện thân thể nâng cao thể lực và giao lưu hưởng thụ văn hóa đã được quan tâm hơn, đó là điều kiện tốt để đẩy mạnh công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao.
- Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) và kết luận Hội nghị Trung ương 10 (khóa IX) của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X vừa qua, cũng như Nghị quyết Đại hội Đảng các cấp tỉnh Lâm Đồng đã xác định “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển”, đã tác động tích cực làm thay đổi nhận thức của toàn xã hội. Từ đó, đã có ngày càng nhiều tổ chức, cá nhân quan tâm hơn đến việc đầu tư các hoạt động văn hóa và thể dục thể thao, nhiều công trình, dự án được triển khai; Nhiều hoạt động mang tính tự nguyện, quan tâm tài trợ vào mục đích phát triển bền vững các hoạt động văn hóa và thể dục thể thao được thực hiện trên địa bàn toàn tỉnh.
2. Những khó khăn.
- Nước ta tiền thân là xã hội nông nghiệp lại trải qua thời gian dài sống trong chế độ “bao cấp”, nên tư tưởng trông chờ, ỷ lại vẫn còn nặng nề, nhất là vùng đồng bào dân tộc, miền núi, vùng kinh tế khó khăn.
- Lâm Đồng là tỉnh miền núi, dân tộc và kinh tế mới cho nên tỷ lệ đói nghèo còn cao. Đây là một trở ngại lớn cho công tác xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Định mức kinh phí chi cho sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao hàng năm còn quá hạn hẹp.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao của ngành hiện tại còn chắp vá, thiếu đồng bộ, chậm đổi mới, cho nên không đáp ứng được yêu cầu hoạt động cũng như đòi hỏi nâng cao mức hưởng thụ nghệ thuật, khả năng rèn luyện thên thể, giáo dục nhân cách và bồi dưỡng nhân tài đối với các đối tượng công chúng trong tỉnh. Đội ngũ cán bộ còn thiếu số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực tổ chức thực hiện các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao còn nhiều hạn chế.
- Từ đặc điểm riêng biệt của hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, cũng như thực tế cho thấy: vấn đề đầu tư vào các hoạt động, dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao là rất tốn kém (so với những hoạt động, dịch vụ khác), nhưng lợi nhuận thu lại chậm, cho nên thiếu hấp dẫn các nhà đầu tư. Từ thực tế những năm qua cho thấy, người quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này ở địa phương và cơ sở hiện nay còn quá ít. Riêng đối với lĩnh vực văn hóa (nhất là văn hóa nghệ thuật), thuộc thượng tầng kiến trúc của xã hội, văn hóa được gắn với chính trị, cho nên vấn đề quản lý Nhà nước đối với văn hóa rất chặt chẽ, đã tác động đến nhận thức xã hội, bằng quan niệm văn hóa là hoạt động mang tính nhạy cảm, hoạt động của Nhà nước, do đó đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến mục tiêu xã hội hóa, kêu gọi đầu tư vào các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa hiện nay.
II. Quan điểm và mục tiêu triển khai thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao.
1. Quan điểm thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao của Đảng và Nhà nước ta.
a) Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, nhằm phát huy trách nhiệm của toàn xã hội, trong việc chăm lo cho con người, cho cộng đồng. Cơ chế mới đã tạo điều kiện huy động rộng rãi sự tham gia, hưởng ứng và đóng góp của mọi thành phần kinh tế vào lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao, tăng cường một cách đáng kể các nguồn lực trong xã hội để phát triển sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao tỉnh nhà.
b) Thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, trên cơ sở quan tâm phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập dưới hình thức dân lập và tư thục: Ưu tiên, khuyến khích thành lập và có chính sách ưu đãi cho những hoạt động văn hóa, thể dục thể thao then chốt, góp phần định hướng chính trị - tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ và giá trị văn hóa xã hội. Bảo tồn và phát triển giá trị di sản văn hóa; các loại hình nghệ thuật, thể dục thể thao truyền thống các dân tộc, các yếu tố văn hóa, thể thao dân gian; các phong tục tập quán, thuần phong mỹ tục tốt đẹp của các dân tộc trong tỉnh.
c) Văn hóa, thể dục thể thao là sự nghiệp của nhân dân. Nhân dân là người sáng tạo, người thực hiện và là người hưởng thụ các thành quả của hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Xã hội hóa chính là một trong những phương thức nhằm thực hiện công bằng xã hội trong lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao; Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của các cá nhân, đơn vị tham gia hoạt động văn hóa, thể dục thể thao thuộc các thành phần kinh tế, các lực lượng xã hội.
d) Cần có bước đi thích hợp cho từng vùng dân cư, từng loại hình văn hóa, thể dục thể thao. Chú trọng phát triển mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao chất lượng cao ở địa bàn thành phố, khu vực đô thị và các vùng kinh tế phát triển. Tạo mọi điều kiện để nâng cao mức hưởng thụ văn hóa, thể dục thể thao của toàn xã hội, trong đó đặc biệt chú trọng đến các đối tượng chính sách ưu đãi về hưởng thụ văn hóa và thể dục thể thao. Giao quyền tự chủ cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch xem xét để từng bước chuyển sang loại hình ngoài công lập, đối với đoàn nghệ thuật, các loại hình Câu lạc bộ văn hóa, thể dục thể thao; xem xét để tách một số bộ môn thể dục thể thao đào tạo theo yêu cầu phổ thông, quần chúng thiếu chuyên sâu tại Trung tâm Thể thao hiện nay, để giao cho các cơ sở đào tạo ngoài công lập. Khuyến khích các đơn vị, tổ chức ngoài công lập xây dựng các thiết chế văn hóa, thể dục thể thao, trên nguyên tắc tự tổ chức, tự quản lý và chịu sự quản lý Nhà nước của cơ quan có thẩm quyền.
e) Xã hội hóa văn hóa, thể dục thể thao là quá trình chuyển đổi phương thức quản lý, chuyển một phần công việc của Nhà nước cho nhân dân và các tổ chức xã hội thực hiện, nhưng Nhà nước không giảm trách nhiệm, không giảm ngân sách chi cho hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Thực chất, đó là quá trình kết hợp giữa Nhà nước và nhân dân cùng làm, trong việc thực hiện định hướng chung, quy hoạch chung và có sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, thông qua công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và từng bước hoàn thiện cơ chế chính sách về xã hội hóa, nhằm đưa sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao phát triển đúng định hướng của Đảng và Nhà nước.
2. Mục tiêu thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao từ nay đến 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
a) Thực hiện xã hội hóa năm 2009 - 2010:
- Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền phổ biến quan điểm, đường lối xã hội hóa của Đảng và Nhà nước; nội dung thực hiện xã hội hóa của ngành, trong các tầng lớp nhân dân, nhất là các đơn vị sự nghiệp của ngành.
- Thúc đẩy tiến độ giải phóng mặt bằng khu liên hợp văn hóa, thể theo đồi Ba Cây, thành phố Đà Lạt. Chỉ đạo hoàn chỉnh thể chế phối hợp hoạt động văn hóa, thể thao tại Khu liên hợp văn hóa thể thao huyện Đức Trọng.
- Tiếp tục củng cố Ban chỉ đạo phong trào “TDĐKXDĐSVH” các cấp, tổ chức kiểm tra chất lượng các cuộc vận động xây dựng văn hóa (nhất là cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư).
- Triển khai xây dựng mô hình điểm xã, phường văn hóa ở đô thị Bảo Lộc, huyện Đức Trọng và huyện Lâm Hà.
- Tiếp tục rà soát những chức năng nhiệm vụ còn chồng chéo ở một số đơn vị sự nghiệp, để hoàn chỉnh việc sáp nhập theo tinh thần Quyết định 171/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
b) Giai đoạn 2011 đến 2015:
- Đối với các đơn vị sự nghiệp của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch, đẩy mạnh liên doanh, liên kết, nâng cao chất lượng chuyên ngành, gắn hoạt động chuyên môn với mục tiêu phát triển kinh tế du lịch của tỉnh và các địa phương, phấn đấu đến 2015 thực hiện hoạch toán thu chi, tự chủ được một phần kinh phí hoạt động theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ.
- Huy động vốn đầu tư xây dựng hoàn chỉnh rạp chiếu phim chất lượng cao tại đô thị Đà Lạt và Bảo Lộc. Đầu tư nâng cấp sân vận động thể dục thể thao tại đô thị Bảo Lộc và trung tâm Đức Trọng.
- Tăng cường khuyến khích vận động nhân dân quan tâm đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, phấn đấu đến hết 2015 có 90% thôn, buôn, khu phố có nhà sinh hoạt động đồng; 80% xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa và sân vận động thể dục thể thao; 60% huyện có trung tâm hoạt động văn hóa thể thao đa năng. Ổn định cơ sở vật chất cho các đơn vị sự nghiệp của tỉnh.
- Phong trào xây dựng đời sống văn hóa: đến năm 2015 có 60% thôn, buôn, khu phố kiện toàn được câu lạc bộ gia đình văn hóa và hoạt động thường xuyên; 100% hộ gia đình đăng ký xây dựng gia đình văn hóa hàng năm; 80% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa (trong đó có 50% trở lên số hộ đạt liên tục từ trên 3 đến 5 năm, 10% số hộ đạt từ 8 đến 10 năm); có 95% thôn, buôn, khu phố đăng ký xây dựng văn hóa, trên 70% số thôn, buôn, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa (trong đó có 30% số thôn, buôn, khu phố đạt tiêu chuẩn văn hóa liên tục từ 10 đến 15 năm); chỉ đạo xây dựng 1 đô thị, 1 huyện và 10 xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hóa; 100% cơ quan, đơn vị và nơi sinh hoạt xã hội công cộng đăng ký xây dựng văn hóa, hàng năm có 75% đạt tiêu chí văn hóa (trong đó có trên 30% đạt tiêu chí xuất sắc liên tục 5 đến 10 năm).
c) Giai đoạn 2015 đến 2020:
- Chuyển đổi một số bộ phận dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao sang hạch toán độc lập. Gọn nhẹ bộ máy sự nghiệp đảm bảo chức năng phục vụ hiệu quả mọi nhiệm vụ chính trị của tỉnh và các địa phương.
- Khai thác mọi nguồn vốn đầu tư và nâng cao chất lượng hoạt động 3 rạp chiếu phim chất lượng cao tại đô thị Bảo Lộc, Đà Lạt và trung tâm huyện lỵ Đức Trọng.
- Đôn đốc đầu tư hoàn thiện đưa vào hoạt động khu liên hợp văn hóa thể thao Đà Lạt và Bảo Lộc.
- Nâng cấp và đẩy mạnh hoạt động các nhà sinh hoạt cộng đồng thôn, buôn, khu phố; 100% xã, phường, thị trấn có nhà văn hóa, sân vận động thể dục thể thao; 100% đơn vị huyện có trung tâm hoạt động văn hóa thể thao đa năng.
- Xây dựng đời sống văn hóa đến năm 2020 có 80% thôn, buôn, khu phố có câu lạc bộ gia đình văn hóa; 95% gia đình đạt chuẩn văn hóa; 70% thôn, buôn, khu phố đạt chuẩn văn hóa; 2 đô thị, 3 huyện và 30% xã, phường, thị trấn đạt chuẩn văn hóa; 80% cơ quan, đơn vị và 90% khu sinh hoạt xã hội công cộng đạt chuẩn văn hóa.
III. Các nội dung và giải pháp tổ chức thực hiện các hoạt động văn hóa, thể thao những năm tới.
1. Nội dung thực hiện xã hội hóa.
Toàn ngành hiện có 09 đơn vị sự nghiệp: Thư viện, Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng, Ban Quản lý Di tích Cát tiên, Trung tâm Văn hóa, Đoàn Ca múa nhạc Dân tộc, Bảo tàng, Trung tâm huấn luyện thể dục thể thao, Câu lạc bộ bóng đá, Ban quản lý dự án đầu tư phát triển Du lịch trực thuộc sự quản lý của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; 12 đơn vị sự nghiệp (Trung tâm VH-TT) trực thuộc sự quản lý của UBND các huyện và thành phố trong tỉnh.
Hướng sắp xếp các đơn vị sự nghiệp, từ nay đến 2015 và tầm nhìn đến năm 2020, theo tinh thần Nghị quyết 24/TU ngày 12/10/2003 của Tỉnh ủy Lâm Đồng và Nghị quyết 05/CP ngày 18/4/2005 của Chính phủ về xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao với nội dung như sau:
a) Đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
* Trung tâm Văn hóa tỉnh:
- Thực hiện giao khoán kế hoạch trên cơ sở chức năng nhiệm vụ đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND tỉnh Lâm Đồng quy định. Đẩy mạnh một số hoạt động tại chỗ và lưu động tới các địa phương và cơ sở trong tỉnh; nhằm thực hiện từng bước “Lấy thu bù chi” cho một số hoạt động, theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ vào năm 2015.
- Chú trọng phát triển hoạt động cung ứng dịch vụ như: cung ứng vật tư, kỹ thuật và mỹ thuật văn hóa; Dịch vụ biểu diễn nghệ thuật, trang trí khánh tiết, hội nghị, dịch vụ âm thanh ánh sáng, dịch vụ kỹ thuật, thiết bị sân khấu, trang phục, nhạc cụ, đạo cụ biểu diễn, xây dựng kịch bản và tổ chức lễ hội…
- Tổ chức các dịch vụ thuê khoán chuyên môn như: Hướng dẫn phương pháp, tổ chức các mô hình mẫu về hoạt động văn hóa văn nghệ, tuyên truyền cổ động, triển lãm lưu động. Thuê khoán phương tiện, thiết bị chuyên dùng, sản xuất các chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị, xã hội, các nhu cầu khác trong tỉnh và các tỉnh lân cận.
* Bảo tàng tỉnh:
- Tập trung khai thác, phát huy tính đặc thù về chuyên môn nghiệp vụ, cơ sở vật chất, trang thiết bị và vốn hiện vật bảo tàng hiện có. Đẩy mạnh một số hoạt động nghiệp vụ tại chỗ, khai thác dịch vụ phục vụ khách, quan tâm công tác tuyên truyền quảng bá hoạt động bảo tàng để thu hút các đối tượng tham quan, nghiên cứu, học tập.
- Đến năm 2015 thực hiện khoán thu một số hoạt động dịch vụ phục vụ khách, từng bước thực hiện “gắn thu bù chi”, tiến tới tự chủ về tài chính theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ.
- Đẩy mạnh hoạt động lưu động về trưng bày, triển lãm; Chú trọng công tác bồi dưỡng hướng dẫn phương pháp chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ văn hóa các địa phương và cơ sở. Đi sâu nghiên cứu mô hình mẫu, để định hướng và từng bước tiến tới xây dựng nhà truyền thống, phòng bảo tàng các huyện, thị, thành phố trong tỉnh theo hình thức hợp đồng, thuê khoán chuyên môn.
* Đoàn Ca múa nhạc Dân tộc tỉnh:
- Thực hiện kế hoạch, chương trình xã hội hóa của Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đối với các tỉnh Tây Nguyên, miền núi và dân tộc.
- Hướng tới được sắp xếp lại, với quy mô vừa phải, đúng tôn chỉ mục đích là: “Đoàn Ca múa nhạc dân tộc tỉnh Lâm Đồng”. Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động phục vụ nhiệm vụ chính trị theo hướng “Bảo tồn, phát huy loại hình nghệ thuật ca múa nhạc truyền thống các dân tộc bản địa Nam Tây Nguyên tỉnh Lâm Đồng”.
- Để vươn tới trở thành một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp phải cần quan tâm đẩy mạnh đào tạo, thu hút nhân tài, không ngừng nâng cao chất lượng nội dung và nghệ thuật để đến năm 2015 phải thực hiện giao khoán kế hoạch hàng năm, vươn lên tự chủ về tài chính, thực hiện gắn thu bù chi, để đỡ gánh nặng ngân sách mà Nhà nước phải bao cấp, thông qua hình thức thuê khoán như: Thuê khoán dịch vụ thẩm định giá trị nghệ thuật ca múa nhạc; biên tập, biên đạo chương trình, tổ chức dịch vụ dẫn chương trình nghệ thuật, thuê khoán tham gia lễ hội; Mở các lớp bồi dưỡng năng khiếu ca múa nhạc…
- Nhà nước tiếp tục trợ cấp hoạt động ca múa nhạc truyền thống dân tộc bản địa Lâm Đồng, trên cơ sở phải phát huy vai trò “định hướng nghệ thuật” cho phong trào văn nghệ quần chúng về “ca múa nhạc”, từng bước chuyên nghiệp hóa, chuyên môn hóa cao đội ngũ diễn viên, nhạc công của đoàn, để vươn tới hiện đại hóa trang thiết bị và chuyên môn hóa hoạt động biểu diễn nghệ thuật của đoàn.
* Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng tỉnh:
Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng tỉnh có nhiệm vụ: Tuyên truyền, giáo dục chính trị, định hướng thị hiếu điện ảnh, phổ biến giới thiệu nghệ thuật điện ảnh cho các đối tượng công chúng (nhất là công chúng ở vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa trong tỉnh). Từ chức năng nhiệm vụ của mình, Trung tâm Phát hành Phim và Chiếu bóng tỉnh được sắp xếp lại theo tinh thần xã hội hóa như sau:
- Đến năm 2010, nhiệm vụ phát hành phim được chuyển cho tư nhân tự khai thác và phục vụ, trên cơ sở tuân thủ Luật Điện ảnh.
- Tiếp tục củng cố và nâng cấp 03 đội chiếu bóng lưu động, trên cơ sở đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật và con người, củng cố xây dựng các điểm chiếu ở địa bàn dân cư. Phấn đấu từ nay đến năm 2015, cả 03 đội trở thành đội quân xung kích trên mặt trận tư tưởng văn hóa ở địa bàn dân cư miền núi vùng sâu vùng xa của tỉnh. Thông qua hoạt động của đội để từng bước nâng cao thị hiếu điện ảnh cho nhân dân vùng đồng bào dân tộc, miền núi và vùng sâu, vùng xa trong tỉnh.
- Tiếp tục củng cố, nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật chiếu phim tại rạp 3/4 Đà Lạt, tranh thủ vốn phát triển điện ảnh của Bộ để đầu tư hoàn chỉnh rạp chiếu phim tại đô thị Bảo Lộc vào năm 2015, nhằm xây dựng 2 trung tâm tuyên truyền giáo dục nghệ thuật điện ảnh và chiếu phim quốc gia của tỉnh. Chủ động khai thác nguồn phim, nâng cao chất lượng phục vụ các buổi chiếu tại rạp. xây dựng đề án, phát huy công suất rạp 3/4 hiện có trên cơ sở đẩy mạnh hoạt động nghiệp vụ như: tổ chức các hình thức câu lạc bộ điện ảnh (theo sở thích và lứa tuổi), tích cực khai thác các dịch vụ khác về điện ảnh tại rạp. Tích cực tuyên truyền quảng bá nghệ thuật điện ảnh và nội dung phim ảnh, nhằm mở rộng đối tượng và củng cố nâng cao thị hiếu điện ảnh cho nhân dân. Lấy hoạt động cung cấp dịch vụ điện ảnh và chiếu phim tại rạp để thực hiện nhiệm vụ gắn thu bù chi, tiến tới tự chủ về tài chính theo tinh thần Nghị định 43/CP của Chính phủ.
* Ban Quản lý Di tích Cát Tiên:
Là một đơn vị sự nghiệp của ngành mới được thành lập cuối năm 2006. Chức năng nhiệm vụ của đơn vị được gắn với di tích khảo cổ học Cát Tiên huyện Cát Tiên. Bước đầu còn đang thực hiện công tác khảo sát, nghiên cứu xây dựng quy hoạch tu bổ, tôn tạo và thiết lập cơ sở hạ tầng cho đơn vị tại xã Quảng Ngãi, huyện Cát Tiên. Cần tranh thủ sự tài trợ kinh phí chương trình mục tiêu quốc gia của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch để thực hiện việc bảo quản và phục dựng di tích và được UBND tỉnh tài trợ kinh phí chi lương và các khoản phụ cấp cho đội ngũ cán bộ, công chức viên chức của Ban; Hướng tới Ban Quản lý Di tích Cát Tiên được chuyển đổi như sau:
- Từ nay đến năm 2015, là đơn vị sự nghiệp do Nhà nước chi trả.
- Từ năm 2016 đến 2020, từng bước thực hiện “gắn thu bù chi” tiến tới chủ động khai thác các dịch vụ văn hóa, gắn với hoạt động tham quan du lịch tại chỗ và khu vực để tự chủ về tài chính theo tinh thần Nghị định 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 của Chính phủ.
* Thư viện tỉnh:
Là đơn vị sự nghiệp văn hóa, đang quản lý và khai thác hàng ngàn đầu sách, báo, tạp chí, với hàng vạn bản sách các loại; Hàng ngày tổ chức hoạt động tạo điều kiện cho các đối tượng đọc giả đến tìm hiều, tra cứu, tham quan, học tập nâng cao tri thức về sách. Với tinh thần xã hội hóa, thư viện tỉnh phải thực hiện nhiệm vụ tiên phong cho công tác sách và thư viện toàn tỉnh cụ thể là:
- Đổi mới, nâng cao chất lượng phục vụ độc giả cho đội ngũ cán bộ và nhân viên thư viện. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giới thiệu sách, xây dựng thư mục phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị tại địa phương. Từng bước đầu tư nâng cấp, tiến tới hiện đại hóa công tác phục vụ bạn đọc và quảng bá giới thiệu sách tạo điều kiện thu hút thêm nhiều bạn đọc là đối tượng khách du lịch đến đọc tại chỗ trong thời gian tham quan, nghỉ dưỡng tại thành phố Đà Lạt.
- Tích cực khai thác và đẩy mạnh hoạt động dịch vụ cung ứng sách và vật tư thiết bị thư viện; dịch vụ phục vụ bạn đọc, để thực hiện kế hoạch tự đảm bảo một phần kinh phí cho một số hoạt động bảo trợ xã hội nghề nghiệp tại đơn vị vào năm 2015.
- Cần quan tâm đẩy mạnh hoạt động nghiệp vụ mở rộng phong trào thư viện, thực hiện chức năng định hướng phát triển phong trào và hướng dẫn phương pháp công tác thư viện cho các cơ quan, đơn vị và các địa phương.
- Mở rộng hoạt động tuyên truyền giới thiệu và phục vụ bạn đọc tại Thư viện tỉnh, Thư viện các huyện, thị. Chú trọng hình thức luân chuyển sách giữa các thư viện, tủ sách để sách đến tay bạn đọc. Vận động thành lập phòng đọc sách, tủ sách tư nhân ở các địa bàn dân cư, tiến tới thành lập thư viện tư nhân phục vụ bạn đọc theo quy định của pháp lệnh thư viện.
- Khuyến khích thành lập và đẩy mạnh hoạt động CLB bạn đọc, CLB những người thích sưu tầm sách tại các thư viện, thành lập Hội thư viện toàn tỉnh để tập hợp, quảng bá việc bảo quản, sử dụng, phát huy vốn tư liệu sách trong toàn dân.
* Trung tâm Thể dục Thể thao tỉnh:
Đây là đơn vị sự nghiệp thể dục thể thao của ngành, được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và UBND tỉnh quy định chức năng nhiệm vụ, nhằm đẩy mạnh các hoạt động thể dục thể thao tại chỗ và lưu động, mở rộng hình thức cung ứng dịch vụ thể dục thể thao cho các tổ chức, cá nhân trong tỉnh, từng bước thực hiện “lấy thu bù chi” và tự chủ một phần tài chính hoạt động sự nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 43/CP của Chính phủ, cụ thể là:
- Tiến hành rà soát lại chức năng nhiệm vụ của Trung tâm, nhằm không ngừng đẩy mạnh các hoạt động đảm bảo đúng tính chất xã hội hóa công tác thể dục thể thao hiện nay. Tập trung chăm lo cho phong trào thể dục thể thao cơ sở, mở rộng mô hình câu lạc bộ các bộ môn thể dục thể thao quần chúng. Từng bước chuyển đổi công tác huấn luyện nâng cao các môn thể thao thành tích cao cho các tổ chức, cá nhân có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất huấn luyện thể dục thể thao (như Công ty Thái Thịnh, đầu tư khu Liên hiệp văn hóa thể thao đồi 3 cây, phường 7, thành phố Đà Lạt). Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ cung ứng dụng cụ, trang phục thi đấu thể dục thể thao, dịch vụ huấn luyện chuyên môn, dịch vụ thuê khoán sân bãi và thiết bị thể dục thể thao.
* Ban quản lý hạ tầng du lịch:
Đây là đơn vị sự nghiệp, nhưng được thực hiện chức năng lấy thu bù chi bằng hình thức: tranh thủ khai thác vốn đầu tư vào các dự án hạ tầng cơ sở cho du lịch của Trung ương và địa phương (nhất là Tổng Cục du lịch- Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch); trên cơ sở trích tỷ lệ % quản lý phí của dự án để tổ chức hoạt động nghiệp vụ của đơn vị.
Trước mắt (trong năm 2009), đơn vị tổ chức hực hiện dứt điểm những dự án đã và đang được đầu tư trong năm, tiến hành thanh quyết toán, khóa sổ để đến năm 2010 chuyển chức năng về Phòng Kế hoạch-Tài chính của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Thực hiện đúng Quyết định 171/CP của Chính phủ về sắp xếp lại các tổ chức, các ban quản lý trùng lặp chức năng.
b) Đối với các đơn vị sự nghiệp trực thuộc UBND các huyện và đô thị Đà Lạt, Bảo Lộc:
- Từ nay đến năm 2015, cần chủ trương khai thác các hoạt động dịch vụ theo hướng xã hội hóa như: quảng bá, khuyến khích cá nhân, tổ chức đầu tư vào một số lĩnh vực hoạt động vui chơi giải trí cho các đối tượng công chúng ở địa phương. Khai thác các dịch vụ cung ứng vật tư, ấn phẩm văn hóa, thể dục thể thao các dịch vụ thuê khoán sân bãi, dụng cụ thể dục thể thao, nghiệp vụ trang trí khánh tiết, biên tập dàn dựng chương trình văn nghệ, thông tin và một số dịch vụ công cộng khác… sau năm 2015 tự cân đối thu chi theo Quyết định 43/CP của Chính phủ.
- Chú trọng tổ chức và nâng cao chất lượng các hoạt động hướng dẫn phương pháp công tác văn hóa, thể dục thể thao cho các xã, phường, thị trấn; Tổ chức các câu lạc bộ, các lớp bồi dưỡng năng khiếu, đào tạo nhân tài cho một số loại hình nghệ thuật văn hóa, thể dục thể thao tại địa phương và cơ sở.
- Đảm bảo sự phong phú, đa dạng và tiến tới thực hiện việc thuê khoán các hoạt động văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao phục vụ nhiệm vụ chính trị và một số công tác trọng tâm đột xuất của cấp ủy Đảng, chính quyền ở địa phương và cơ sở.
c) Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở cơ sở:
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở cơ sở là tạo điều kiện phát huy dân chủ và nâng cao tinh thần chủ động sáng tạo của đông đảo quần chúng nhân dân trong việc sản xuất, bảo quản, tiêu thụ các sản phẩm văn hóa. Tham gia tích cực các hoạt động thể dục thể thao, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, thể thao truyền thống các dân tộc; nâng cao mức hưởng thụ văn hóa tinh thần cho nhân dân ở các địa bàn dân cư. Nội dung xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở cơ sở gồm:
* Văn nghệ quần chúng:
- Lấy cơ sở thôn, buôn, khu phố, các cơ quan đơn vị, các thiết chế tôn giáo, tín ngưỡng làm nơi phát động phong trào tự chủ để tổ chức các hoạt động văn nghệ quần chúng. Động viên toàn dân tham gia xây dựng chương trình, tập luyện và tổ chức biểu diễn phục vụ tại cơ sở, cũng như tham gia các cuộc hội thi, hội diễn văn nghệ các cấp. Huy động các cá nhân, đơn vị, các tổ chức hỗ trợ phong trào, cũng như tự nguyện đóng góp cùng các cơ quan chuyên môn của ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức các cuộc hội thi, hội diễn cũng như trao giải thưởng động viên cổ vũ phong trào văn nghệ quần chúng ở địa phương và cơ sở.
- Từ mô hình các đội nhóm câu lạc bộ văn nghệ mang tính tự chủ ở một số địa phương, khuyến khích và định hướng giúp đỡ các cá nhân, tổ chức đầu tư thành lập các đội nhóm văn nghệ dân tộc, các nhóm nhạc truyền thống gia đình, các nhóm nhạc trẻ, nhằm phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân đi sâu khai thác vốn di sản văn hoá truyền thống của từng dân tộc, để đưa vào tập luyện và tổ chức biểu diễn phục vụ nhu cầu của nhân dân cũng như khách du lịch đến với Đà Lạt cũng như các địa phương trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng .
- Toàn tỉnh tiếp tục duy trì một đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp mang tính đặc trưng dân tộc thiểu số Nam Tây Nguyên, đến năm 2020 phát triển thêm một đoàn nghệ thuật ca múa nhạc có đặc trưng Đà Lạt, với quy mô từ 21 đến 25 người (kể cả lãnh đạo đoàn, diễn viên, nhạc công) để làm nòng cốt cho phong trào nghệ thuật quần chúng trong tỉnh.
- Khuyến khích tập thể, tư nhân và gia đình thành lập các đoàn nghệ thuật, đơn vị tổ chức biểu diễn ngoài công lập theo các loại hình: ca nhạc, xiếc, sân khấu, tạp kỹ, biểu diễn thời trang, được tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật cho phép.
- Tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất, cung ứng băng, đĩa ca nhạc, sân khấu; sản xuất và cung ứng nhạc cụ, đạo cụ, phục trang và thiết bị sân khấu ngoài công lập trong khuôn khổ pháp luật hiện hành.
- Phát huy mô hình tự chủ tại các làng nghề, nhóm nghề như: Buôn Go (Cát Tiên), K’Long (Đức Trọng), B’Nơ’C (xã Lát, Lạc Dương), Pró (Đơn Dương)… Các nhóm nghề tại các điểm tham quan du lịch, để tham mưu tích cực cho Nhà nước có cơ chế chính sách, khuyến khích mời gọi các cá nhân, tập thể đầu tư phát triển các làng nghề truyền thống ở các địa phương và các điểm tham quan du lịch trên địa bàn toàn tỉnh.
* Thể dục thể thao quần chúng:
- Khuyến khích, động viên và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia hoạt động và phát triển sự nghiệp thể dục thể thao, tạo cơ hội cho mọi người, ở mọi lứa tuổi, mọi hoàn cảnh kinh tế và mọi địa bàn dân cư đều được tập luyện thể dục thể thao, hướng tới một xã hội tập luyện thể dục thể thao lành mạnh. Phát triển nhiều môn thể thao hiện đại và các trò chơi dân gian, các môn thể thao truyền thống dân tộc, để đáp ứng nhu cầu sở thích của các đối tượng. Thực hiện cơ chế hỗ trợ chuyên môn và các điều kiện khác để các ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị- kinh tế-xã hội và nhân dân đứng ra tổ chức các giải thi đấu thể dục, thể thao theo các loại hình và quy mô khác nhau.
- Tạo điều kiện để cộng đồng dân cư tự xây dựng các câu lạc bộ, đội thể thao theo hướng: Nhà nước tiếp tục hỗ trợ phát triển phong trào thể dục thể thao ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, người khuyết tật và các đối tượng chính sách khác, đảm bảo mọi đối tượng đều có cơ hội tiếp cận với hoạt động thể dục thể thao phổ thông và nâng cao.
- Tiếp tục tăng cường các hoạt động phối hợp liên ngành để đẩy mạnh các phong trào tập luyện thể dục thể thao cho các đối tượng (nhất là học sinh, sinh viên các trường học) trên địa bàn dân cư trong tỉnh.
- Tiếp tục hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”, chương trình “Phát triển thể dục thể thao ở cơ sở xã, phường đến năm 2010” và “Chương trình nâng cao tầm vóc, thể lực người dân Việt Nam”, coi đây là chương trình trọng điểm để phát triển sự nghiệp thể dục thể thao nói chung và đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực hoạt động thể dục thể thao quần chúng.
- Đổi mới phương thức tổ chức điều hành các hoạt động thi đấu thể thao thành tích cao theo hướng chuyển dần các tổ chức hoạt động của Nhà nước sang cho các liên đoàn, hội thể thao. Nhà nước hỗ trợ về mặt cơ chế, chính sách và các điều kiện cần thiết để các tổ chức thực hiện. Giao kế hoạch, chỉ tiêu đào tạo, chuyên môn cho các liên đoàn, hội thể thao thực hiện. Vận động doanh nghiệp, tư nhân đứng ra tài trợ tổ chức các giải thi đấu đỉnh cao. Thực hiện các chính sách đối với đội ngũ huấn luyện viên, trọng tài, vận động viên thể thao như; chế độ tiền lương, tiền công, chế độ thưởng… tạo điều kiện cho họ yên tâm cống hiến cho sự nghiệp thể dục thể thao toàn tỉnh.
- Củng cố, kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các liên đoàn, hội đã được thành lập. Tiếp tục triển khai thành lập các liên đoàn, hội còn lại để đến năm 2010 các môn thể thao đang có phong trào phát triển mạnh như: bóng chuyền, điền kinh, thể dục thể hình, thể dục thẩm mỹ, cầu lông, bóng rổ, Billiards… thành lập liên đoàn và nâng CLB Mô tô thành Hội Mô tô cấp tỉnh. Thiết lập mối quan hệ phối hợp công việc chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước với các tổ chức xã hội. Tổ chức phối hợp giữa hai bên, qua đó triển khai các nhiệm vụ phối hợp giữa cơ quan quản lý Nhà nước và tổ chức xã hội.
* Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá:
- Với mục tiêu “Xây dựng đời sống văn hoá, thể thao từ cơ sở”. Ngành văn hoá thể thao và du lịch định hướng giúp đỡ chuyên môn nghiệp vụ, động viên tinh thần toàn dân tham gia vào các công việc xây dựng đời sống văn hoá, thể dục thể thao ở cơ sở. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia các cuộc vận động xã hội, nhất là cuộc vận động xây dựng thôn, buôn, khu phố văn hoá; xây dựng gia đình văn hóa, cơ quan, đơn vị văn hoá; xây dựng nếp sống văn hoá nơi công cộng. Hướng dẫn các tổ chức, cá nhân tham gia thực hiện tốt các bước đi trong việc biên soạn quy ước, hương ước văn hoá; Xây dựng gia đình văn hoá và tham gia sinh hoạt câu lạc bộ gia đình văn hoá, thể dục thể thao ở các địa bàn dân cư và cơ sở.
- Động viên quần chúng nhân dân các dân tộc trong tỉnh, quan tâm khai thác, phát huy các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao truyền thống tại các lễ hội như: mừng cơm mới, hội thác, hội xuân, hội nghề, hội đình đền, giỗ tổ Hùng Vương 10/3 âm lịch… Từng bước định hướng và xây dựng đưa vào hoạt động nền nếp một số lễ hội mới đang hình thành trong đời sống nhân dân như: Festival Hoa Đà Lạt, lễ hội Trà, lễ hội đại đoàn kết toàn dân do UBMTTQ Việt Nam chủ trì, Lễ Quốc khánh 2/9, lễ hội thống nhất đất nước 30/4… Động viên nhân dân thực hiện việc cưới, việc tang, tổ chức việc giỗ, tết lành mạnh, tiết kiệm, đảm bảo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
* Về bảo tồn, phát huy di sản văn hoá:
- Đầu tư nâng cấp hoạt động của Bảo tàng tỉnh, tạo điều kiện giúp đỡ xây dựng hệ thống phòng, nhà truyền thống, nhà trưng bày các ngành, các địa phương.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, gia đình khai thác, sưu tầm thành lập bảo tàng, bộ sưu tập tư nhân và mở rộng hoạt động trưng bày quảng bá di sản văn hoá, trên cơ sở nguyên tắc của Luật Di sản văn hóa.
- Tiếp tục khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư tôn tạo, khai thác phát huy các di tích lịch sử văn hoá, danh lam thắng cảnh tại các địa phương, hướng vào mục tiêu phát triển kinh tế du lịch của tỉnh.
- Tạo điều kiện thành lập và đẩy mạnh hoạt động của Hiệp hội Du lịch, Hội di sản văn hoá, Hội UNESCO nghiên cứu bảo tồn cổ vật của tỉnh, các câu lạc bộ nghề nghiệp, sở thích (CLB cổ vật, CLB thắng cảnh, CLB sinh vật cảnh, CLB bảo tồn kiến trúc cổ, câu lạc bộ hướng dẫn viên du lịch…) nhằm bảo tồn, phát huy Di sản văn hoá vật thể, phi vật thể tại các địa phương trong tỉnh Lâm Đồng.
* Lĩnh vực Mỹ thuật – Nhiếp ảnh:
- Mở rộng các hình thức trưng bày triển lãm tập thể, cá nhân về mỹ thuật và nhiếp ảnh. Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư tổ chức các cuộc thi sáng tác, trưng bày mỹ thuật, ảnh nghệ thuật tại tỉnh Lâm Đồng.
- Khuyến khích các nghệ sỹ thành lập các phòng trưng bày tranh, ảnh, thủ công mỹ nghệ, thêu tay… Tạo điều kiện cho việc tổ chức các dịch vụ giới thiệu, mua bán sản phẩm ảnh nghệ thuật, mỹ thuật, thành lập Bảo tàng mỹ thuật, nhiếp ảnh và thủ công mỹ nghệ ngoài công lập, đảm bảo đúng các quy định của Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch và pháp luật hiện hành.
- Tạo điều kiện cho các Trung tâm Văn hoá tỉnh phối hợp với Hội Văn học Nghệ thuật thành lập các câu lạc bộ sở thích, nghề nghiệp cho những người yêu thích mỹ thuật, nhiếp ảnh ở các địa phương và cơ sở trong tỉnh.
* Đào tạo, bồi dưỡng năng khiếu văn hoá nghệ thuật và thể dục thể thao:
- Tạo điều kiện cho các trung tâm văn hoá, trung tâm thể thao liên kết với tư nhân (trong và ngoài nước) hoặc cho phép cá nhân, gia đình tổ chức mở các lớp dạy theo chương trình hoặc truyền nghề, hướng dẫn năng khiếu như: kịch, âm nhạc, múa, hội hoạ, xiếc, ảo thuật, các môn võ thuật, thể dục dụng cụ, thể dục nhịp điệu, các môn bóng, cờ, bắn nỏ, đi cà kheo…(nhất là các loại hình văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao truyền thống các dân tộc).
- Nhà nước tạo điều kiện pháp lý để Trung tâm văn hoá và Trung tâm thể dục thể thao hỗ trợ, khuyến khích các nhân tài thể dục thể thao, các nghệ nhân văn hóa là người dân tộc mở lớp truyền dạy kỹ năng chế tác, sử dụng nhạc cụ, kỹ năng múa, hát, làm nghề thủ công, mỹ nghệ và các môn thể thao truyền thống các dân tộc bản địa Lâm Đồng.
d) Xây dựng cơ sở vật chất cho các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao:
Thực hiện quyết định 271/TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường cơ sở vật chất cho ngành văn hóa, thể thao từ tỉnh đến các địa phương và cơ sở, với chỉ tiêu đến năm 2020: 100% cơ sở vật chất cho thiết chế văn hóa, thể dục thể thao tỉnh và các huyện; 90% nhà văn hóa, thể thao xã, phường, thị trấn và 100% nhà văn hóa (nhà sinh hoạt cộng đồng) thôn, buôn, khu phố được xây dựng trên cơ sở thực hiện và đẩy mạnh những cơ chế chính sách như sau:
- Khuyến khích và cho phép cá nhân, và tổ chức ngoài công lập được đầu tư vào xây dựng cơ sở vật chất và tổ chức các hoạt động tại công viên, điểm vui chơi giải trí, rạp chiếu bóng; sân vận động, nhà văn hoá từ tỉnh đến các địa phương và cơ sở.
- Huy động nhân dân tham gia đóng góp xây dựng hệ thống đèn chiếu sáng ở những nơi công cộng, xây dựng nhà sinh hoạt văn hoá, thể dục thể thao cộng đồng, trạm truyền thanh, cụm cổ động trực quan, tủ sách báo…
- Tranh thủ các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất của Trung ương, của tỉnh, của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, quan tâm phát triển sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao (nhất là văn hóa, thể thao truyền thống) ở các địa phương, cơ sở trong tỉnh.
2. Những giải pháp.
a) Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao nhận thức về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về thực thi xã hội hoá các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, trong đó cần chú ý Nghị quyết 05 của Chính phủ về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao; Nghị định 69/CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Nghị quyết TW5 (khoá VIII) và kết luận hội nghị TW10 (khoá IX) của Đảng về “Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”; các văn kiện Đại hội tỉnh Đảng bộ Lâm Đồng lần thứ VIII và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X về công tác văn hoá, thể dục thể thao.
b) Tiếp tục hoàn thiện và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển ngành văn hóa, thể thao và du lịch đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Cụ thể hoá bằng kế hoạch những nội dung quy hoạch cho từng năm, từng thời kỳ 3 năm, 5 năm để tổ chức thực hiện đồng bộ và có kết quả (trong đó có nội dung triển khai thực hiện đề án xã hội hóa công tác văn hóa, thể dục thể thao).
c) Căn cứ các văn bản luật: Luật Di sản văn hoá, Luật Doanh nghiệp, Luật Thể dục thể thao, Luật Du lịch, Pháp lệnh thư viện, Pháp lệnh quảng cáo và các văn bản dưới luật của Chính phủ, của các Bộ, ngành liên quan và của tỉnh; nhất là những hướng dẫn, quy chế quy định của Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, để tăng cường công tác quản lý, đẩy mạnh các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
d) Tiếp tục nghiên cứu, phát huy các điểm sáng về thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao theo Nghị quyết 90/CP và Nghị định 73/CP trong 5 năm qua. Tổ chức đúc rút kinh nghiệm, tuyên truyền phổ biến nhân rộng trên địa bàn toàn tỉnh. Song song với việc triển khai thực hiện Nghị quyết 05/CP và Nghị định 69/CP của Chính phủ về thực hiện xã hội hóa và chính sách khuyến khích xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể dục thể thao thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
e) Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về văn hoá, thể dục thể thao của các cấp, chính quyền từ tỉnh đến các địa phương và cơ sở, nhằm uốn nắn, điều chỉnh các hoạt động, các dịch vụ văn hoá, thể dục thể thao đi đúng chủ trương, định hướng công tác văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao của Đảng. Hoạt động văn hóa và thể dục thể thao là hoạt động hết sức đặc thù và nhạy cảm. Thông qua nội dung và hình thức hoạt động, trực tiếp tác động đến tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống của các đối tượng quần chúng nhân dân; Hơn nữa trong cơ chế mở cửa và hội nhập quốc tế, thực hiện xã hội hóa sẽ có các cá nhân, tổ chức ngoài công lập (kể cả nước ngoài) tham gia vào các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao, nhưng vẫn bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, thể thao truyền thống của người Việt Nam.
g) Cần sớm xác định và thực hiện tiêu chuẩn hoá cán bộ làm công tác văn hoá, thể dục thể thao Nhà nước (công lập) để đặt ra yêu cầu đào tạo bồi dưỡng nâng cao phẩm chất chính trị và năng lực chuyên môn, xây dựng bản lĩnh lãnh đạo, chỉ đạo và vai trò chủ đạo trong công tác văn hoá, thể dục thể thao, để thực sự là nòng cốt cho mọi phong trào ở các địa phương và cơ sở.
h) Tạo điều kiện cho các đối tượng tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao (trên tinh thần xã hội hóa) được bình đẳng trước pháp luật, được hưởng những chính sách đãi ngộ, chính sách khen thưởng của Nhà nước một cách thuận lợi.
IV. Phân công trách nhiệm thực hiện.
1. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch:
- Là cơ quan thường trực của đề án xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể dục thể thao. Chủ động lập kế hoạch hàng năm, phối hợp với các Sở, ban, ngành trong việc thực hiện kế hoạch, tổ chức sơ, tổng kết, báo cáo kết quả gửi UBND tỉnh và Bộ Văn hóa, Thể thao và du lịch.
- Tham mưu cho UBND tỉnh ban hành, hướng dẫn và kiểm tra thực hiện quy chế quản lý hoạt động của các đội, nhóm, hội, đoàn; các câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao, câu lạc bộ gia đình văn hóa, các đội nhóm nghệ thuật, các làng nghề, tổ nghề, nhóm nghề truyền thống các dân tộc.
- Chủ trì phối hợp với Sở Nội vụ, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính, Chi cục Thuế tỉnh và UBND các huyện, thị, thành phố xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện đề án xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao, hướng dẫn việc thực hiện các chính sách khuyến khích xã hội hóa, theo tinh thần Nghị định 69/CP của Chính phủ trên địa bàn toàn tỉnh.
2. Sở Tài nguyên và Môi trường:
Chủ trì, phối hợp với UBND các huyện, thị, thành phố rà soát, kiểm tra và hoàn thiện quy hoạch đất đai dành cho xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao ở các địa phương và cơ sở, theo tinh thần Quyết định 271/TTg của Thủ tướng Chính phủ và tham mưu cho UBND tỉnh thiết lập các chế tài để triển khai, giám sát và thực hiện trên địa bàn toàn tỉnh.
3. Sở Tài chính:
- Hướng dẫn các đơn vị liên quan thực hiện đề án này theo quy định tại Nghị định 69/Cp và quy định hiện hành về thực hiện chính sách khuyến khích phát triển các loại hình xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao (công lập và ngoài công lập).
4. Sở Kế hoạch và Đầu tư:
Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc hướng dẫn, xây dựng và đầu tư các công tình văn hóa, thể dục thể thao và cơ sở vật chất theo đúng tinh thần Quyết định số 26/2008/QĐ-UBND ngày 09/7/2008 của UBND tỉnh về ban hành quy định một số cơ chế chính sách thu hút đầu tư lĩnh vực xã hội hóa thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng.
5. Sở Nội vụ:
Chủ trì, phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan trong việc thành lập, bố trí nhân sự cho các loại hình hoạt động văn hóa, thể dục thể thao theo yêu cầu của đề án này.
6. Cục thuế tỉnh:
Phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong việc hướng dẫn các chế độ, chính sách khuyến khích về thuế theo tinh thần Nghị định 69/CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường.
7. UBND các huyện, thị, thành phố trong tỉnh:
Căn cứ nội dung đề án, lập kế hoạch hàng năm và kế hoạch 5 năm của địa phương để triển khai thực hiện đề án; bố trí cán bộ chuyên trách công tác văn hóa, thể dục thể thao phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương và đúng với quy định của pháp luật hiện hành.
8. Các tổ chức chính trị-xã hội:
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Cựu chiến binh, Hội Người cao tuổi… phối hợp với ngành văn hóa, thể thao và du lịch tuyên truyền, vận động các hội viên, đoàn viên tích cực tham gia thực hiện các mục tiêu đã đề ra của đề án.
V. Đánh giá tác động và hiệu quả kinh tế xã hội của đề án
Xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao nhằm huy động mọi tiềm năng trí tuệ và vật chất trong xã hội, vào chăm lo, phát triển các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao; Đồng thời tạo mọi điều kiện để toàn xã hội, nhất là các đối tượng chính sách được hưởng thụ các giá trị văn hóa và tham gia phong trào thể dục thể thao quần chúng, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu văn hóa tinh thần và rèn luyện nâng cao sức khỏe của mọi tầng lớp nhân dân các dân tộc tỉnh Lâm Đồng. Thực hiện xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao là nhằm tăng nguồn lực đầu tư cho sự nghiệp văn hóa, thể dục thể thao; Trên cơ sở đổi mới mục tiêu, phương thức và cơ cấu về nguồn vốn, để tập trung cho các mục tiêu ưu tiên và chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa và thể dục thể thao; Ưu tiên hỗ trợ, đầu tư phát triển văn hóa, thể dục thể thao ở vùng dân cư nghèo, vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tích cực phát triển các cơ sở dịch vụ văn hóa, thể dục thể thao ngoài công lập và tư nhân. Khuyến khích và ưu tiên đầu tư cho những hoạt động văn hóa và thể dục thể thao then chốt, góp phần giáo dục, định hướng tư tưởng, chính trị, đạo đức lối sống lành mạnh của nhân dân.
Trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao các nước nói chung và nước ta nói riêng sẽ phát triển theo các hướng: Văn hóa, thể dục thể thao vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển, là nhân tố đảm bảo cho sự phát triển kinh tế- xã hội bền vững. Xu thế chung hiện nay, các quốc gia ngày càng đề cao tính đặc thù, bản sắc văn hóa, thể dục thể thao truyền thống các dân tộc, coi trọng việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa, thể dục thể thao truyền thống, quan tâm đến việc tiếp thu các giá trị văn hóa và thể dục thể thao của nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới. Những tiến bộ về khoa học và công nghệ, cùng với sự bùng nổ thông tin và nền kinh tế tri thức, đã và đang làm thay đổi mối quan hệ giữa các cá nhân, cộng đồng và xã hội, cùng với yêu cầu sử dụng ngày một có ích thì giờ nhàn rỗi của cá nhân và cộng đồng, sẽ làm cho văn hóa và thể dục thể thao phát triển mạnh mẽ trên cả hai phương diện: sáng tạo và hưởng thụ, để thúc đẩy sự sáng tạo và hưởng thụ có định hướng, có chất lượng, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực cho phát triển văn hóa, thể dục thể thao, tạo điều kiện để các lực lượng xã hội quan tâm hơn nữa đến đầu tư cho các lĩnh vực bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa, thể dục thể thao truyền thống; sáng tạo các công trình, các sản phẩm văn hóa, thể thao có chất lượng cao, đều được thực hiện và thông qua chủ trương, chính sách xã hội hóa của Đảng và Nhà nước ta hiện nay./-
- 1Quyết định 21/2013/QĐ-UBND về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
- 2Quyết định 19/2013/QĐ-UBND về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
- 3Nghị quyết 23/2013/NQ-HĐND thống nhất chủ trương tăng cường khuyến khích xã hội hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Cà Mau
- 4Quyết định 75/QĐ-UBND năm 2016 phê duyệt Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao thành phố Cần Thơ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 5Nghị quyết 16/NQ-HĐND năm 2015 thông qua Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao thành phố Cần Thơ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 6Quyết định 1697/QĐ-UBND năm 2016 về quy định danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi xã hội hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng
- 1Quyết định 100/2005/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển thể dục thể thao ở xã, phường, thị trấn đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Luật du lịch 2005
- 3Quyết định 271/2005/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống thiết chế văn hóa thông tin cơ sở đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4Quyết định số 61/2005/QĐ-BVHTT phê duyệt Đề án Quy hoạch phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa đến năm 2010 do Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin ban hành
- 5Luật Doanh nghiệp 2005
- 6Nghị định 43/2006/NĐ-CP quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
- 7Luật Điện ảnh 2006
- 8Luật Thể dục, Thể thao 2006
- 9Nghị quyết số 90-CP về phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá do Chính phủ ban hành
- 10Nghị định 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao
- 11Pháp Lệnh thư viện năm 2000
- 12Luật di sản văn hóa 2001
- 13Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001
- 14Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 15Nghị định 171/2004/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
- 16Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP về việc đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục, thể thao do Chính Phủ ban hành
- 17Nghị định 69/2008/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường
- 18Quyết định 26/2008/QĐ-UBND về Quy định cơ chế, chính sách thu hút đầu tư lĩnh vực xã hội hóa trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng do Ủy ban nhân dân tỉnh Lâm Đồng ban hành
- 19Công văn 4509/BVHTT-KHTC năm 2005 hướng dẫn thực hiện đề án quy hoạch phát triển xã hội hóa hoạt động văn hóa đến năm 2010
- 20Quyết định 21/2013/QĐ-UBND về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
- 21Quyết định 19/2013/QĐ-UBND về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu
- 22Nghị quyết 23/2013/NQ-HĐND thống nhất chủ trương tăng cường khuyến khích xã hội hóa đối với hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, môi trường trên địa bàn tỉnh Cà Mau
- 23Nghị quyết số 20/2001/NQ-HĐND tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hóa hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao do tỉnh Lâm Đồng ban hành
- 24Quyết định 61/2003/QĐ-UB phê duyệt dự án “Quy hoạch phát triển sự nghiệp thể dục thể thao tỉnh Lâm Đồng đến năm 2010 và những năm tiếp theo
- 25Chỉ thị 19/2005/CT-UBND về việc đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục thể thao và bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
- 26Quyết định 75/QĐ-UBND năm 2016 phê duyệt Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao thành phố Cần Thơ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 27Nghị quyết 16/NQ-HĐND năm 2015 thông qua Quy hoạch phát triển thể dục, thể thao thành phố Cần Thơ đến năm 2020, định hướng đến năm 2030
- 28Quyết định 1697/QĐ-UBND năm 2016 về quy định danh mục lĩnh vực và địa bàn ưu đãi xã hội hóa trên địa bàn thành phố Hải Phòng
Quyết định 1403/QĐ-UBND năm 2009 phê duyệt Đề án Xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể dục thể thao tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2009 – 2015 và tầm nhìn đến 2020
- Số hiệu: 1403/QĐ-UBND
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 19/06/2009
- Nơi ban hành: Tỉnh Lâm Đồng
- Người ký: Huỳnh Đức Hòa
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 19/06/2009
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định