Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
CHÍNH PHỦ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 218/BC-CP | Hà Nội, ngày 17 tháng 4 năm 2025 |
BÁO CÁO
KẾT QUẢ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ TRONG NĂM 2024
Kính gửi: | - Quốc hội; |
Năm 2024 là năm thứ tư thực hiện Kế hoạch 05 năm 2021 - 2025, năm quyết liệt, tăng tốc, bứt phá để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) 05 năm 2021 - 2025. Cả nước thực hiện các nhiệm vụ phát triển KTXH trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp với nhiều yếu tố bất định và rủi ro khó lường. Bất ổn địa chính trị, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt; thị trường tài chính, tiền tệ, giá vàng, xăng dầu, nguyên vật liệu, hàng hóa, vận tải thế giới biến động mạnh. Trong nước, tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, độ mở cao, quy mô còn khiêm tốn, khả năng cạnh tranh, sức chống chịu bên ngoài còn hạn chế; cần dành thời gian, nguồn lực để khắc phục những hạn chế, bất cập, tồn đọng từ nhiều năm và giải quyết những vấn đề đột xuất, phát sinh, ứng phó, khắc phục hậu quả của thiên tai.
Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự đồng hành, phối hợp của Quốc hội; sự tham gia toàn hệ thống chính trị; sự chung sức, đồng lòng, ủng hộ của Nhân dân, cộng đồng doanh nghiệp, sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế; Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương tiếp tục phát huy đoàn kết, coi trọng thời gian, trí tuệ; bám sát tình hình thực tiễn, vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt, hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách, có phản ứng chính sách đúng, trúng, kịp thời; tập trung chỉ đạo điều hành chủ động, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, làm việc nào dứt việc đó, khẩn trương triển khai các nhiệm vụ, giải pháp trên tất cả các lĩnh vực. Nhờ đó, chúng ta đã hoàn thành thắng lợi, toàn diện các mục tiêu phát triển KTXH; đạt và vượt toàn bộ 15/15 chỉ tiêu chủ yếu phát triển KTXH đã đề ra; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát, tăng trưởng kinh tế cao hơn mục tiêu đề ra, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm và có thặng dư cao, an sinh xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân tiếp tục được nâng lên; tạo nền tảng, tạo đà, khí thế mới, tâm thế mới, tạo hi vọng, tạo động lực mạnh mẽ để đất nước ta bước vào năm 2025 với niềm tin hoàn thành và đạt kết quả cao nhất các nhiệm vụ, chỉ tiêu của cả giai đoạn 2020 - 2025, hướng tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc. Công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (viết tắt là “THTK, CLP”) được đẩy mạnh và phát huy trên nhiều lĩnh vực, góp phần huy động, quản lý, sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, vật lực, tài lực, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội của đất nước.
Chính phủ báo cáo kết quả THTK, CLP trong năm 2024 và nhiệm vụ, giải pháp THTK, CLP năm 2025 như sau:
Phần I
CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quán triệt, chấp hành nghiêm, triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết, Kết luận, chỉ đạo của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội; tiếp tục phát huy kết quả đạt được, kiên quyết, kiên trì, bản lĩnh vững vàng, không lùi bước trước khó khăn, thách thức; quyết tâm xây dựng tổ chức bộ máy trong sạch, vững mạnh toàn diện, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đổi mới tư duy trong chỉ đạo, điều hành; đột phá, tự tin, chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đoàn kết, thống nhất, kỷ luật, kỷ cương; nỗ lực cao nhất để tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; thực hiện nghiêm các quy định của Luật THTK, CLP. Một số kết quả nổi bật trong công tác chỉ đạo, điều hành như sau:
1. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện Kế hoạch phát triển KTXH và dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2024, yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức, giữ vững tinh thần vượt khó, đoàn kết, tự lực, tự cường, chủ động thích ứng, linh hoạt, hành động quyết liệt, khoa học, hiệu quả, tích cực đổi mới, sáng tạo theo chủ đề “Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tăng tốc sáng tạo; hiệu quả bền vững” với 6 quan điểm, trọng tâm chỉ đạo, điều hành, 12 nhóm nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1764/QĐ-TTg ngày 31/12/2023 về việc ban hành Chương trình tổng thể của Chính phủ về THTK, CLP năm 2024, đề ra 09 nhiệm vụ trọng tâm, 05 nhóm giải pháp chủ yếu về THTK, CLP trong các lĩnh vực, nhằm thực hiện đồng bộ, quyết liệt, hiệu quả, thực chất các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp THTK, CLP trong các lĩnh vực, góp phần huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để tạo nguồn cải cách tiền lương, đảm bảo giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm cân đối lớn của nền kinh tế; tạo chuyển biến thực chất hơn trong nhận thức và hành động của các CBCCVC, người lao động và nhân dân về THTK, CLP. Các bộ, ngành, địa phương, tập đoàn, tổng công ty nhà nước đã ban hành và thực hiện tốt chương trình, kế hoạch hành động thực hiện các nghị quyết của Chính phủ và Chương trình THTK, CLP năm 2024 của bộ, ngành, địa phương mình, theo quy định của Luật THTK, CLP.
Xác định phòng, chống lãng phí là nhiệm vụ cấp bách, ưu tiên phải làm ngay; triển khai kịp thời hiệu quả công tác phòng, chống lãng phí theo chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Trong năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống lãng phí của Chính phủ[1]; ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống lãng phí, điển hình như:
(1) Chỉ thị số 01/CT-TTg ngày 04/01/2024 về tăng cường tiết kiệm chi NSNN; Công điện số 125/CĐ-TTg ngày 01/12/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm chống lãng phí;
(2) Công điện số 112/CĐ-TTg ngày 6/11/2024 và Công điện số 13/CĐ-TTg ngày 08/02/2025 về tập trung giải quyết dứt điểm các dự án tồn đọng, dừng thi công, khẩn trương triển khai, hoàn thành, đưa vào sử dụng chống lãng phí, thất thoát.
(3) Công điện số 131/CĐ-TTg ngày 11/12/2024 về việc cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp ngay từ khâu xây dựng văn bản quy phạm pháp luật.
(4) Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 17/3/2025 về đẩy mạnh phòng, chống lãng phí, khơi thông nguồn lực, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
2. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/6/2024 Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Chương trình đưa ra 5 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: Quán triệt, nâng cao nhận thức, tổ chức triển khai thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác THTK, CLP; tăng cường công tác giáo dục, tuyên truyền, vận động về THTK, CLP; tiếp tục rà soát, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật THTK, CLP; xây dựng và tổ chức triển khai có hiệu quả chiến lược và chương trình quốc gia về THTK, CLP 05 năm, hàng năm; tăng cường công tác quản lý nhà nước, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, triệt để tiết kiệm, chống lãng phí, nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng các nguồn lực quốc gia.
3. Ưu tiên thúc đẩy tăng trưởng gắn với giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả, phối hợp đồng bộ, hài hòa, chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác. Thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, công khai chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất cho vay, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế; hướng tín dụng vào sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên; kiểm soát chặt chẽ tín dụng đối với các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro. Ban hành nhiều giải pháp chính sách tài khóa, miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và các khoản thu ngân sách. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách nhà nước; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên; kiểm soát chặt chẽ bội chi, nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia. Quản lý thị trường bảo hiểm, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, thị trường vàng lành mạnh, an toàn, hiệu quả, bền vững. Chú trọng công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại và hàng giả, gian lận xuất xứ hàng hóa.
4. Thực hiện “5 quyết tâm”, “5 đảm bảo” trong giải ngân vốn đầu tư công; tăng cường hoạt động của các tổ công tác đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công. Kiên quyết điều chuyển số vốn chưa phân bổ, chậm giải ngân sang các dự án quan trọng, trọng điểm có khả năng giải ngân tốt hơn và thiếu vốn. Thường xuyên đôn đốc, tháo gỡ vướng mắc, thúc đẩy tiến độ các dự án quan trọng, trọng điểm. Kịp thời tháo gỡ vướng mắc; đẩy mạnh triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia.
5. Thực hiện quyết liệt cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; khai thác hiệu quả các động lực tăng trưởng truyền thống, thúc đẩy các động lực tăng trưởng mới (kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, các ngành, các lĩnh vực mới nổi). Tập trung hoàn thành sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đầu đàn, doanh nghiệp dân tộc; triển khai nhiều nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
6. Triển khai hiệu quả Nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển các vùng KTXH; ban hành Kế hoạch thực hiện quy hoạch 06 vùng KTXH thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn 2050, khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế của từng vùng. Tiếp tục rà soát quy hoạch tỉnh phù hợp với quy hoạch cấp quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch kỹ thuật, chuyên ngành. Trình Quốc hội thông qua Luật Thủ đô (sửa đổi); chỉ đạo xây dựng triển khai nhiều dự án lớn, trọng điểm có tính lan tỏa tại nhiều vùng, địa phương để thúc đẩy phát triển KTXH.
7. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế được xác định là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, đột phá của đột phá trong chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ theo Nghị quyết số 27-NQ/TW. Thành lập Ban Chỉ đạo rà soát và tổ chức thực hiện việc xử lý vướng mắc trong hệ thống pháp luật với nhiều hoạt động khẩn trương, tích cực. Tổ chức quán triệt, triển khai các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua. Khẩn trương xây dựng, ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành. Tích cực sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập; thành lập Ban Chỉ đạo của Chính phủ tổng kết Nghị quyết số 18-NQ/TW, tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ trên cơ sở tổ chức hợp lý các bộ đa ngành, đa lĩnh vực; tổng kết, xây dựng dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi), Luật Tổ chức chính quyền địa phương (sửa đổi). Thực hiện chính sách cải cách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang theo Nghị quyết số 27-NQ/TW theo lộ trình phù hợp, từng bước thận trọng, chắc chắn, hiệu quả.
8. Tập trung chỉ đạo, điều hành chủ động, kịp thời, toàn diện các chính sách, giải pháp an sinh xã hội, cải thiện đời sống của Nhân dân. Triển khai điều chỉnh mức lương cơ sở, mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động; lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và mức chuẩn trợ giúp xã hội,... Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiện đại, hiệu quả, bền vững và hội nhập, kết nối cung - cầu lao động;...
9. Quyết liệt triển khai Chương trình công tác năm 2024 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, cụ thể hóa đầy đủ, kịp thời các kết luận, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư - Trưởng Ban Chỉ đạo với tinh thần "không có vùng cấm, không có ngoại lệ", ban hành chương trình hành động thực hiện Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác THTK, CLP;. Tập trung phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, THTK, CLP trong các lĩnh vực: Quản lý NSNN, sử dụng vốn đầu tư, tài sản công, tài nguyên, khoáng sản, tài sản nhà nước,...
Phần II
TÌNH HÌNH, KẾT QUẢ THTK, CLP
I. THTK, CLP TRONG VIỆC BAN HÀNH, THỰC HIỆN ĐỊNH MỨC, TIÊU CHUẨN, CHẾ ĐỘ
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xác định công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, ưu tiên hàng đầu, là “đột phá của đột phá”; đổi mới tư duy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII về hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là các lĩnh vực có nhiều vướng mắc, bất cập, tiếp tục khơi thông nguồn lực, thúc đẩy phát triển KTXH.
Trong năm 2024, Chính phủ đã tổ chức 11 Phiên họp chuyên đề xây dựng pháp luật để kịp thời thông qua các chính sách, cho ý kiến đối với các dự thảo luật, nghị quyết trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thông qua các nghị định thuộc thẩm quyền. Theo đó, Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua khối lượng nhiệm vụ lập pháp lớn nhất từ đầu nhiệm kỳ đến nay (với 28 luật[2], 24 nghị quyết và cho ý kiến lần đầu với 18 dự án luật); tập trung tối đa nguồn lực cho việc rà soát, hoàn thiện thể chế, pháp luật, cơ chế, chính sách để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tranh thủ tối đa cơ hội thu hút đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xuất khẩu[3]. Trên tinh thần “vừa chạy, vừa xếp hàng”, đẩy mạnh đột phá chiến lược về thể chế với tư duy mới; tập trung rà soát, đề xuất phương án xử lý các cơ chế, chính sách, quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, không phù hợp thực tiễn, tháo gỡ dứt điểm khó khăn, vướng mắc để sửa đổi, bổ sung ngay các văn bản theo thẩm quyền và báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8 để tháo gỡ ngay những vướng mắc, điểm nghẽn ở tầm luật, nhất là Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Chứng khoán, Luật quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế,... Để bảo đảm tiến độ, chất lượng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã phân công cơ quan chủ trì soạn thảo, thời gian trình các dự án luật[4]; thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ soạn thảo, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan của Quốc hội trong xây dựng, chỉnh lý, hoàn thiện nội dung; giao các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế; khẩn trương xây dựng, trình ban hành và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành[5], đã ban hành đầy đủ các văn bản quy định chi tiết các luật, nghị quyết[6]. Hệ thống pháp luật, tiêu chuẩn, định mức chế độ trong các lĩnh vực ngày càng được bổ sung, hoàn thiện trong các lĩnh vực như tài chính - ngân sách, y tế, giáo dục, giao thông - vận tải, xây dựng, tài nguyên - môi trường... điển hình như: Bộ Công an ban hành 13 thông tư tiêu chuẩn định mức áp dụng trong công an nhân dân; Bộ Xây dựng đã ban hành, sửa đổi các TCVN, quy chuẩn kỹ thuật xây dựng, đã chuyển sang Bộ Khoa học và Công nghệ thẩm định 100 dự thảo tiêu chuẩn và đã công bố 91 tiêu chuẩn lĩnh vực kết cấu, công nghệ xây dựng, vật liệu xây dựng...(chi tiết tại Phụ lục I kèm theo)
Chính phủ chỉ đạo tăng cường công tác kiểm tra, xử lý văn bản trái pháp luật; rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để kịp thời phát hiện, xử lý ngay các bất cập, vướng mắc[7]. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo rà soát, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật (nay là Ban Chỉ đạo rà soát và tổ chức thực hiện việc xử lý vướng mắc trong hệ thống pháp luật)[8]. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã tập trung chỉ đạo, tăng cường công tác tổ chức thi hành pháp luật với nhiều giải pháp đồng bộ; Chính phủ đã phối hợp với Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức Hội nghị để quán triệt, triển khai nội dung quan trọng của các luật, nghị quyết được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7, Kỳ họp thứ 8 và Kỳ họp bất thường lần thứ 5; đề ra nhiều giải pháp đổi mới, xác định rõ trách nhiệm, cơ chế phối hợp và nâng cao năng lực tổ chức thi hành pháp luật; ban hành Nghị định bảo đảm nguồn lực cho công tác triển khai, thi hành pháp luật, đội ngũ làm công tác pháp chế[9]. Đẩy mạnh công tác truyền thông chính sách, giúp người dân, doanh nghiệp kịp thời nắm bắt nội dung các chính sách lớn, quan trọng ngay từ khâu soạn thảo, tạo thuận lợi cho đóng góp ý kiến, đồng thuận xã hội.
Tuy nhiên, việc thực hiện một số quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật chưa thực sự đầy đủ, thống nhất; vẫn còn tình trạng bổ sung dự án, dự thảo sát thời điểm tổ chức kỳ họp, phiên họp của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; tình trạng nợ đọng, chậm ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh chưa được khắc phục triệt để; một số quy định pháp luật đến nay không còn phù hợp với thực tiễn và yêu cầu phát triển, nhưng chậm được sửa đổi, tháo gỡ; một số bộ, ngành, địa phương trong một số trường hợp chưa thực sự nêu cao tinh thần cải cách trong tham mưu, sửa đổi các quy định thuộc phạm vi quản lý; việc xử lý văn bản trái pháp luật của một số bộ, ngành, địa phương sau khi có kết luận kiểm tra còn chậm; việc phân cấp, phân quyền, cắt giảm một số quy định, thủ tục hành chính, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, điều kiện kinh doanh rườm rà, chưa triệt để như quy định phòng cháy, chữa cháy, truy xuất nguồn gốc hàng hóa...; công tác thực thi có lúc, có nơi còn chưa thống nhất; một số hệ thống thông tin trong thực hiện thủ tục về hành chính tư pháp chậm được nâng cấp, dẫn đến có thời điểm hệ thống gặp sự cố, ảnh hưởng trực tiếp đến tiếp nhận, giải quyết các yêu cầu thủ tục hành chính của các bộ tư pháp và của người dân, nhất là trong lĩnh vực hộ tịch, lý lịch tư pháp [10]; công tác phối hợp giữa một số bộ, ngành, các cơ quan liên quan trong việc giải quyết những mâu thuẫn, chồng chéo của chính sách, pháp luật còn chưa kịp thời nên gây khó khăn cho việc áp dụng [11].
II. THTK, CLP TRONG LẬP, THẨM ĐỊNH, PHÊ DUYỆT DỰ TOÁN, QUYẾT TOÁN, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG KINH PHÍ NSNN
1. Về quản lý, điều hành tài chính - NSNN
Thực hiện Nghị quyết, Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ [12], các cấp, các ngành, các địa phương triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, thực chất, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực [13]. Tập trung theo dõi sát tình hình quốc tế, trong nước, kịp thời có đối sách xử lý ngay những vấn đề mới phát sinh [14]. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kịp thời, hiệu quả và chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm; thực hiện miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất. Đã thực hiện tiết kiệm chi 10% ngay từ đầu năm, đồng thời tiết kiệm chi thêm 5% để bổ sung nguồn lực thực hiện các công trình trọng điểm và công tác xóa nhà tạm, nhà dột nát cho nhân dân, các đối tượng khó khăn, hộ nghèo, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.
Thể chế và chính sách cơ cấu lại NSNN, tiếp tục được sửa đổi, hoàn thiện theo hướng nâng cao vai trò của chính sách tài chính trong việc huy động và phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực trong và ngoài nước vào các mục tiêu ưu tiên phát triển KTXH. Gia tăng tỷ trọng các nguồn thu bền vững. Bộ Tài chính đã trình Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NSNN, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2025), qua đó góp phần thể chế hóa chủ trương đường lối của Đảng, Nhà nước; tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, cải thiện môi trường kinh doanh; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền trong quản lý và sử dụng NSNN, tài sản công.
Kết quả thu NSNN năm 2024 thực hiện dạt 2.043,7 nghìn tỷ đồng, tăng 342,7 nghìn tỷ đồng (tỷ lệ tăng 20,1%) so với dự toán, tăng 16,2% so với năm trước, trong đó: Thu ngân sách trung ương (NSTW) đạt 1.039,9 nghìn tỷ đồng, tăng 187,2 nghìn tỷ đồng (tỷ lệ tăng 22%) so dự toán; thu ngân sách địa phương (NSĐP) đạt 1.003,8 nghìn tỷ đồng, tăng 155,5 nghìn tỷ đồng (tỷ lệ tăng 18,3%) so dự toán. Tổng số tiền miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất khi trình cấp có thẩm quyền ban hành các chính sách dự kiến khoảng 191 nghìn tỷ đồng [15]; kết quả thực hiện ước tính đến hết tháng 12/2024, ước đạt khoảng 197,3 nghìn tỷ đồng (bao gồm các chính sách ban hành từ năm 2023, tiếp tục tác động làm giảm thu NSNN năm 2024), trong đó: số miễn, giảm khoảng 99 nghìn tỷ đồng [16]; gia hạn khoảng 98,3 nghìn tỷ đồng [17]. Các nhiệm vụ chi NSNN năm 2024 đã cơ bản hoàn thành mục tiêu đề ra, tập trung đảm bảo các nhu cầu phát triển KTXH, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản chi trả nợ đến hạn, đảm bảo chi trả kịp thời các khoản lương và các khoản có tính chất lương đến các đối tượng thụ hưởng NSNN, góp phần thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội, chi phòng chống thiên tai bão lũ. Tổng chi NSNN năm 2024 ước đạt khoản 1.830,8 nghìn tỷ đồng, bằng 86,4% dự toán; trong đó chi đầu tư phát triển ước đạt 529,1 nghìn tỷ đồng, bằng 78,1% dự toán Quốc hội quyết định, tỷ lệ giải ngân đạt 77,5% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao[18] (cùng kỳ năm 2023 giải ngân đạt 579,8 nghìn tỷ đồng, bằng 81,9% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao); chi thường xuyên ước đạt 94,5% dự toán. Năm 2024, ngân sách trung ương đã chi từ dự phòng 34,9 nghìn tỷ đồng để bổ sung kinh phí thực hiện các nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh, hỗ trợ các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thực hiện một số nhiệm vụ quan trọng, đột xuất, cấp bách,... thực hiện Chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính đã xuất cấp gần 17,4 nghìn tấn gạo dự trữ quốc gia để hỗ trợ cho các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ. Cân đối ngân sách trung ương và ngân sách các cấp địa phương được đảm bảo, tính đến ngày 23/12/2024 đã phát hành 328,4 nghìn tỷ đồng trái phiếu Chính phủ, kỳ hạn bình quân 11,08 năm, lãi suất bình quân 2,52%/năm. Nợ công được quản lý chặt chẽ, giữ vững an ninh, an toàn nền tài chính quốc gia, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý tài chính quốc gia, đến cuối năm 2024 chỉ tiêu dư nợ công khoảng 36-37% GDP, nợ Chính phủ khoảng 33-34% GDP, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với thu NSNN khoảng 20-21%, thấp hơn mức trần Quốc hội cho phép.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương THTK, CLP năm 2024 được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực theo quy định của Luật THTK, CLP và pháp luật chuyên ngành, trong đó: Quản lý và sử dụng kinh phí NSNN phải siết chặt kỷ luật tài khóa - NSNN; bảo đảm chi NSNN chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả và theo đúng dự toán được Quốc hội thông qua. Triệt để tiết kiệm các khoản chi thường xuyên, các khoản chi chưa thực sự cần thiết để bảo đảm nguồn lực cho phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bổ sung vốn đầu tư phát triển và hỗ trợ phục hồi kinh tế; tiếp tục thực hiện các giải pháp tạo nguồn cải cách chính sách tiền lương; kiểm soát chặt chẽ công tác lập, phân bổ, quản lý và sử dụng chi NSNN, đặc biệt là các khoản chi mua sắm, sửa chữa, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới hạng mục công trình bảo đảm đúng quy định pháp luật, tiết kiệm, hiệu quả; tăng cường thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách [19].
Kết quả thực hiện THTK, CLP năm 2024 trong quản lý, sử dụng kinh phí NSNN, vốn nhà nước (như: tiết kiệm chi thường xuyên; tiết kiệm chi quản lý hành chính; tiết kiệm trong mua sắm, sửa chữa; tiết kiệm trong đầu tư xây dựng...) theo báo cáo kết quả THTK, CLP năm 2024 của các bộ, ngành, địa phương là 64.014 tỷ đồng[20], một số bộ, ngành, địa phương có kết quả cao trong tiết kiệm kinh phí ngân sách như: Bộ Giao thông vận tải 1.051 tỷ đồng, Bộ Tài chính 553 tỷ đồng, Bộ Công an 3.288 tỷ đồng, TP. Hà Nội 11.545 tỷ đồng, Bà Rịa - Vũng Tàu 3.462 tỷ đồng, Nghệ An 1.281 tỷ đồng, Ninh Bình 1.896 tỷ đồng, Quảng Ninh 1.523 tỷ đồng...(chi tiết tại Phụ lục II kèm theo). Việc triển khai, thực hiện hiệu quả các giải pháp THTK, CLP đã góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ tài chính NSNN năm 2024; đáp ứng kịp thời, đầy đủ các nhiệm vụ chi phát triển KTXH, phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Đánh giá thực hiện thu NSNN cả nước vượt dự toán, song tiến độ một số khoản thu, sắc thuế đạt thấp. Việc tiếp tục đề xuất ban hành các chính sách miễn, giảm, gia hạn thuế chưa được tính trong dự toán có tác động đến nguồn thu NSNN trong thời gian tới. Tình hình thiên tai, bão lũ diễn biến phức tạp ảnh hưởng đến kinh tế xã hội và tác động đến thu NSNN; triển khai dự toán chi thường xuyên, phân bổ chi tiết kế hoạch và giải ngân vốn đầu tư công ở một số bộ, cơ quan trung ương và địa phương còn chậm; việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương tài chính ở một số nơi còn chưa nghiệm, vẫn còn tình trạng gian lận, trốn lậu thuế, sai phạm trong việc quản lý, sử dụng ngân sách, tài sản công, thất thoát, lãng phí tại một số cơ quan, đơn vị. Nguyên nhân do: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ những tháng đầu năm, tiếp tục phát sinh nhiều yếu tố không thuận lợi, nhất là tình hình thiên tai, bão lũ diễn biến bất thường, ảnh hưởng đến việc điều hành nhiệm vụ NSNN năm 2024; một số bộ ngành, địa phương chưa chủ động trong công tác chuẩn bị triển khai dự toán chi NSNN và kế hoạch vốn đầu tư công được giao, đề xuất tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, vẫn còn tâm lý e ngại, đùn đẩy trách nhiệm[21].
2. Về quản lý nợ công
Với mục tiêu quản lý nợ công đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững; huy động, quản lý, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch vay, trả nợ công năm 2024[22]. Kế hoạch huy động vốn của Chính phủ năm 2024 tối đa 676.057 tỷ đồng[23]. Căn cứ tình hình giải ngân các chương trình, dự án, khả năng huy động vốn trái phiếu chính phủ trên thị trường, tồn dư ngân quỹ, Bộ Tài chính ước huy động vốn vay cả năm 2024 đạt 564.199 tỷ đồng (đạt 83,5% kế hoạch huy động được duyệt)[24]. Trả nợ của Chính phủ năm 2024 ước đạt 447.896 tỷ đồng, trong đó trả nợ trực tiếp ước đạt 389.780 tỷ đồng, bằng 98,2% kế hoạch được duyệt theo Quyết định số 260/QĐ-TTg; trả nợ nước ngoài về cho vay lại ước đạt 58.116 tỷ đồng, bằng 100% kế hoạch, việc trả nợ của Chính phủ năm 2024 được thực hiện đầy đủ theo cam kết, trong phạm vi dự toán được cấp có thẩm quyền phê duyệt; chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ năm 2024 so với thu NSNN khoảng 20,8% đảm bảo trong phạm vi mức trần 25% được Quốc hội cho phép.
Đến cuối năm 2024, nợ công/GDP ước thực hiện 34,7%, nợ Chính phủ/GDP ước thực hiện 32,2%, nợ nước ngoài của quốc gia/GDP ước thực hiện 31,8%, nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ/Thu NSNN ước thực hiện 20,8%, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia/Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa, dịch vụ ước thực hiện 8,1%, trong phạm vi Quốc hội cho phép tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội về kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm giai đoạn 2021-2025[25].
Bám sát chủ trương quản lý chặt chẽ bảo lãnh Chính phủ tại Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và các Nghị quyết của Quốc hội, trong năm 2024 Chính phủ không cấp mới bảo lãnh cho các dự án vay trong nước và nước ngoài, chi cấp bảo lãnh phát hành cho các ngân hàng chính sách tối đa bằng nghĩa vụ trả nợ gốc đến hạn hàng năm. Dự kiến vay, trả nợ Chính phủ bảo lãnh năm 2024 nằm trong hạn mức được phê duyệt[26].
Nợ chính quyền địa phương, ước thực hiện vay, trả nợ NSĐP năm 2024: Tổng số vay trong năm ước ở mức 20.574 tỷ đồng (so với mức vay Quốc hội duyệt 30.619 tỷ đồng); trả nợ gốc trong năm ước 4.103 tỷ đồng (so với mức 4.119 tỷ đồng theo dự toán được Quốc hội duyệt), trả nợ lãi ước đạt 2.478 tỷ đồng (dự toán là 2.874 tỷ đồng). Dự kiến bội chi NSĐP năm 2024 ở mức 16.471 tỷ đồng, giảm 10.029 tỷ đồng so với dự toán Quốc hội quyết định 26.500 tỷ đồng. Dư nợ cuối năm 2024 khoảng 77.147 tỷ đồng, tương đương 0,7% GDP.
Công tác quản lý nợ công tiếp tục được thực hiện chủ động, chặt chẽ, hiệu quả, đáp ứng nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển, đồng thời đảm bảo các chỉ tiêu nợ đến cuối năm 2024 trong giới hạn trần và ngưỡng cảnh báo an toàn đã được Quốc hội phê duyệt, tăng tính chủ động ứng phó với những rủi ro phát sinh từ nguyên nhân bên ngoài và trong nội tại nền kinh tế;...
Tuy nhiên tiến độ đàm phán, ký kết thỏa thuận vay nước ngoài của Chính phủ chậm hơn so với dự kiến, do nhiều dự án chưa hoàn thành thủ tục đầu tư hoặc đã hoàn thành thủ tục đầu tư nhưng chưa được bố trí vốn đầu tư công trung hạn, dẫn đến chậm trình phê duyệt chủ trương đàm phán; do khác biệt giữa quy định trong nước và quy định của nhà tài trợ (thủ tục đấu thầu, giải phóng mặt bằng, quy định về môi trường xã hội...) trong bối cảnh luật pháp trong nước đang tiếp tục hoàn thiện nên quá trình đàm phán để đạt được thống nhất với nhà tài trợ kéo dài hơn; Chi phí vay nước ngoài hiện đang cao hơn so với chi phí vay bình quân trong nước và tiềm ẩn các rủi ro về biến động tỷ giá giữa đồng ngoại tệ/nội tệ,... Giải ngân vốn đầu tư công nguồn vốn ngoài nước đạt thấp so với kế hoạch.
3. Công tác đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động, cơ chế tự chủ tài chính các đơn vị sự nghiệp công lập
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành địa phương tích cực triển khai Nghị quyết số 19-NQ/TW [27], Kết luận số 62-KL/TW ngày 01/10/2023 của Bộ Chính trị về thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW và Nghị quyết số 38/NQ-CP ngày 02/4/2024 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 62-KL/TW nhằm nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý nhà nước, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính nhằm đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính nhằm bảo đảm mục tiêu đạt ít nhất 10% đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL) thuộc phạm vi quản lý của mình. Hệ thống văn bản QPPL ban hành đã tạo hành lang pháp lý quan trọng trong việc đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL. Các quy định về cơ chế tự chủ tài chính của ĐVSNCL đã dần từng bước được hoàn thiện theo hướng đẩy mạnh giao quyền tự chủ tài chính cho các ĐVSNCL, trong đó đã thể hiện các quan điểm chỉ đạo và mục tiêu của Nghị quyết số 19-NQ/TW về lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công sử dụng NSNN, về xác định mức tự chủ tài chính, về cơ chế tự chủ chi trả tiền lương. Các ĐVSNCL đã được triển khai sắp xếp, tổ chức lại theo hướng tinh gọn tổ chức bộ máy bên trong, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công. Công tác chuyển đổi các ĐVSNCL thành công ty cổ phần đang được tích cực triển khai thực hiện. Kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy, ĐVSNCL, tính đến thời điểm 31/12/2023 tổng số lượng ĐVSNCL trên cả nước (trung ương và địa phương) là 47.596 đơn vị, giảm 846 đơn vị so với năm 2021 (khoảng 1,7%) và giảm 8.295 đơn vị so với năm 2015 (khoảng 17,4%)[28].
Việc cơ cấu lại các ĐVSNCL vẫn còn hạn chế; cơ chế, chính sách tự chủ còn nhiều bất cập, chưa đầy đủ, chưa phù hợp, chậm được ban hành; định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ công chưa được ban hành đầy đủ. Việc chuyển các ĐVSNCL sang cơ chế tự chủ [29], thành công ty cổ phần còn hạn chế, tiến độ chậm; chủ yếu mới dừng lại ở mức rà soát, lập danh mục các ĐVSNCL đủ điều kiện chuyển thành công ty cổ phần[30].
4. Về thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG)
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, cơ quan và địa phương tập trung đẩy nhanh việc triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả 03 CTMTQG. Tại Trung ương, đến nay hệ thống cơ chế, chính sách và các văn bản hướng dẫn đã cơ bản được ban hành đầy đủ, đồng bộ; kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trong Chương trình công tác năm 2024 của Ban Chỉ đạo [31], đảm bảo cơ sở pháp lý trong triển khai tổ chức thực hiện các CTMTQG; tổ chức nhiều hội nghị, đoàn công tác làm việc, đối thoại, lắng nghe ý kiến các địa phương nhằm tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy giải ngân vốn của các chương trình [32]; Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản hướng dẫn các địa phương thực hiện chính sách đối với người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu số; hằng tháng Chính phủ đều thảo luận và chỉ đạo các nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy thực hiện các CTMTQG.
Đối với CTMTQG phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi: Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 phê duyệt đầu tư CTMTQG phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2023 giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025, ngày 16/10/2024 Hội đồng thẩm định nhà nước ban hành Quyết định số 2414/QĐ-HĐTĐNN phê duyệt Kế hoạch thẩm định Báo cáo nghiên cứu khả thi điều chỉnh CTMTQG phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2023 giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang hoàn thiện dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 12/2022/TT-BNNPTNT ngày 20/9/2022 quy định một số hoạt động về lâm nghiệp thực hiện Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững và CTMTQG phát triển KTXH vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2023 giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025. Một số kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ: trong 9 nhóm mục tiêu cụ thể được Quốc hội giao đến hết năm 2025 tại Nghị quyết số 120/2020/QH14, có 02 nhóm mục tiêu đánh giá vào cuối giai đoạn thực hiện Chương trình [33]. Theo tổng hợp từ báo cáo của các địa phương, với 07 nhóm mục tiêu có thể rà soát được kết quả bước đầu ước đến thời điểm báo cáo, có 05 nhóm mục tiêu cơ bản đạt; 02 nhóm mục tiêu chưa đạt[34].
Đối với CTMTQG giảm nghèo bền vững: Chính phủ ban hành Nghị định số 30/2025/NĐ-CP ngày 24/02/2025 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 07/2021/NĐ-CP của Chính phủ quy định chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025, trong đó bổ sung quy định tiêu chí xác định người lao động có thu nhập thấp; Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Thông tư số 01/2025/TT-BTTTT ngày 18/02/2025 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 06/2022/TT-BTTTT ngày 30/6/2022 của hướng dẫn thực hiện dự án truyền thông và giảm nghèo về thông tin; hoàn thiện trình Thủ tướng Chính phủ dự kiến công nhận 04 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn vào cuối năm 2024. Một số kết quả thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ: Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều năm 2024 là 1,93% (với 599.608 hộ), giảm 1% so với năm 2023 (đạt mục tiêu Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ giao); tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2024 là 12,55%, giảm 3,95% so với năm 2023 (vượt mục tiêu Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ giao); tỷ lệ hộ nghèo tại các huyện nghèo năm 2024 là 24,86% (với 246.932 hộ), giảm 6,86% so với năm 2023 (vượt mục tiêu Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ giao).
Đối với CTMTQG xây dựng nông thôn mới: Đang nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi Quyết định số 321/QĐ-TTg ngày 08/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ quy định tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang hoàn tổng hợp, hoàn thiện dự thảo quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định huyện nông thôn mới kiểu mẫu giai đoạn 2024-2025; có 53/63 tỉnh, thành phố đã hoàn thành các văn bản hướng dẫn thực hiện các tiêu chí nông thôn mới theo phân cấp. Ước thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đến tháng 01 năm 2025: Cấp xã, theo số liệu tổng hợp kết quả xây dựng nông thôn mới từ báo cáo của các địa phương, đến tháng 01/2025, cả nước đã có 6.252/8.014 xã (78%) đạt chuẩn nông thôn mới [35]. Cấp huyện, cả nước có 305 đơn vị cấp huyện thuộc 59 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 47,3% tổng số đơn vị cấp huyện của cả nước) trong đó: đã có 17 huyện được Thủ tướng Chính phủ công nhận đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao [36]. Cấp tỉnh, có 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [37] có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới, trong đó có 15 tỉnh, thành phố [38] có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và 100% đơn vị cấp huyện được công nhận đạt chuẩn/hoàn thành nhiệm vụ nông thôn mới. Có 05 tỉnh (Nam Định, Đồng Nai, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương) đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Tính đến 01/2025, cả nước đã có 15.590 sản phẩm OCOP đạt 3 sao trở lên [39].
Tuy nhiên, công tác hoàn thiện thể chế quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia từ trung ương đến địa phương còn chậm, chưa kịp thời, đồng bộ [40]. Công tác nghiên cứu, khảo sát, đánh giá đặc điểm tự nhiên, xã hội, văn hóa, rà soát mặt bằng pháp lý trong xây dựng các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, chưa được tiến hành đồng bộ, kỹ lưỡng ngay từ trước khi ban hành chính sách, quy định. Còn một số nội dung, nhiệm vụ thuộc CTMTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi chưa được triển khai thực hiện, dự kiến một số mục tiêu không thể hoàn thành, cần rà soát, điều chỉnh phù hợp với điều kiện thực tiễn, mặt bằng pháp lý. Một số chỉ tiêu cụ thể trong thực hiện giảm nghèo bền vững còn thấp, chưa bền vững; một bộ phận nhỏ người dân vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của nhà nước, chưa có ý thức và hỗ trợ người khác vươn lên thoát nghèo bền vững. Kết quả đạt chuẩn xã nông thôn mới của một số vùng vẫn còn khoảng cách chênh lệch lớn giữa Khu vực Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ và khu vực Miền núi phía Bắc, Tây Nguyên [41], vẫn còn 04 tỉnh [42] thuộc khu vực Miền núi phía Bắc, có tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới dưới 30%, 16 huyện nghèo thuộc 12 tỉnh còn “trắng xã nông thôn mới”[43], số lượng xã đặc biệt khó khăn (xã khu vực II, III) vùng dân tộc thiểu số và miền núi, vùng bãi ngang ven biển và hải đảo được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới rất hạn chế; chưa có huyện nghèo thuộc danh sách các huyện nghèo được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
5. Về Quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do trung ương quản lý
Thực hiện quy định của Luật NSNN, triển khai Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội [44]; chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ [45], các Bộ, cơ quan trung ương đã tổ chức đánh giá việc thi hành pháp luật liên quan đến việc thành lập, quản lý và sử dụng Quỹ tài chính nhà nước được giao quản lý; tiếp tục thực hiện rà soát, đánh giá hiệu quả hoạt động của các quỹ; xây dựng lộ trình cơ cấu lại, sáp nhập, dừng hoạt động, hoặc giải thể đối với các Quỹ hoạt động không hiệu quả, không đúng mục tiêu đề ra, hoặc không còn phù hợp với tình hình phát triển KTXH, trùng lặp về mục tiêu, nhiệm vụ, đối tượng phục vụ, hoặc không có khả năng độc lập về tài chính, trùng lặp nguồn thu, nhiệm vụ chi với NSNN; rà soát các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về quản lý, sử dụng các quỹ tài chính nhà nước để sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ theo thẩm quyền hoặc trình cấp thẩm quyền xem xét, quyết định[46].
Hiện nay có 22 quỹ tài chính nhà nước đã thành lập do các Bộ, cơ quan trung ương quản lý, trong đó: Quỹ vắc xin phòng Covid-19 đang triển khai các thủ tục để giải thể Quỹ theo quy định [47]; Quỹ Phòng chống thiên tai trung ương đang hoàn thiện cơ sở pháp lý để Quỹ đi vào hoạt động; 20 Quỹ đang hoạt động [48], trong đó có 08 quỹ quy mô vốn, nguồn thu và nhiệm vụ chi lớn [49], các quỹ còn lại quy mô nhỏ, phạm vi hoạt động hẹp.
Tổng số dư đầu năm 2024 của các quỹ khoảng 1.420,2 nghìn tỷ đồng, trong đó chủ yếu là số dư của 03 quỹ [50] do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý (chiếm 90,8% tổng số dư các Quỹ), Quỹ tích lũy trả nợ (chiếm 7,8%), các quỹ còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ dưới 2% [51]. Năm 2024, tổng số thu của các quỹ ước là 610,7 nghìn tỷ đồng, tăng 3,9% (+22,7 nghìn tỷ đồng) so kế hoạch [52]; tổng số chi các quỹ ước là 554,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,8% (40,2 nghìn tỷ đồng) so kế hoạch; chênh lệch nguồn vốn và sử dụng nguồn vốn của các quỹ năm 2024 ước là 56,4 nghìn tỷ đồng; dự kiến số dư nguồn các quỹ cuối năm 2024 khoảng 1.476,6 nghìn tỷ đồng, tăng 3,97% (56,4 nghìn tỷ đồng) so cuối năm 2023, trong đó số dư của 03 quỹ do Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý chiếm 91,4% tổng số dư các quỹ[53].
III. THTK, CLP TRONG MUA SẮM, SỬ DỤNG PHƯƠNG TIỆN, THIẾT BỊ LÀM VIỆC CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC TRONG KHU VỰC NHÀ NƯỚC; QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TÀI SẢN CÔNG
Quốc hội ban hành Luật số 56/2024/QH15 ngày 29/11/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Thu nhập cá nhân, Luật Dự trữ Quốc gia, Luật Xử lý vi phạm hành chính Chính phủ đã ban hành 07 nghị định, 02 quyết định, Bộ Tài chính ban hành 03 thông tư [54], hệ thống pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công được hoàn thiện góp phần nâng cao hiệu quả trong quản lý, sử dụng tài sản công. Pháp luật về tài sản công đã xác định rõ đối tượng được giao quản lý, sử dụng đối với mỗi loại tài sản công gắn với quyền, nghĩa vụ của tập thể, cá nhân, người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong quản lý, sử dụng tài sản công; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công đồng bộ gắn với trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ tiêu chuẩn, định mức trong toàn bộ quá trình quản lý tài sản công từ quá trình đầu tư, mua sắm đến quản lý, sử dụng và xử lý tài sản.
Công tác quản lý, mua sắm tài sản công tại các bộ, ngành và địa phương tiếp tục chuyển biến, đảm bảo chặt chẽ, tiết kiệm. Theo số liệu do các bộ, ngành, địa phương cập nhật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công, số lượng tài sản công tăng do mua sắm trong năm 2024 là 251 chiếc xe ô tô (nguyên giá 264,66 tỷ đồng), 22 phương tiện vận tải khác (nguyên giá 3,1 tỷ đồng) và 24.414 máy móc thiết bị (nguyên giá 2.072,52 tỷ đồng). Số liệu về tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị tính đến ngày 31/12/2024 được các Bộ, ngành, địa phương cập nhật trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công, số lượng xe ô tô là 34.331 xe (nguyên giá 23.814 tỷ đồng), phương tiện vận tải khác là 5.744 phương tiện (nguyên giá 1.397 tỷ đồng), máy móc thiết bị là 1.825.197 phương tiện (nguyên giá 236.747 tỷ đồng); trong năm 2024 các bộ, ngành, địa phương thanh lý 276 xe ô tô (số tiền thu được 21,42 tỷ đồng), 71 phương tiện vận tải khác (số tiền thu được 1,48 tỷ đồng) và 11.293 máy móc thiết bị (số tiền thu được 2,86 tỷ đồng).
Đến ngày 31/12/2024, tổng số tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đã đăng nhập thông tin vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công là 67.480 tài sản, với tổng nguyên giá 3.806.724 tỷ, giá trị còn lại 2.748.763 tỷ đồng; tổng chiều dài các tuyến đường, cầu đường đã đăng nhập là 915.228,836 km [55]; tổng số tài sản là công trình nước sạch nông thôn tập trung đã đăng nhập thông tin vào Cơ sở dữ liệu quốc gia về tài sản công là 15.460 công trình, tổng giá trị 38.388 tỷ đồng, giá trị còn lại là 20.014 tỷ đồng[56].
IV. THTK, CLP TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG, ĐẦU TƯ CÔNG; QUẢN LÝ, SỬ DỤNG TRỤ SỞ LÀM VIỆC
1. THTK, CLP trong đầu tư xây dựng, đầu tư công
Ngay sau khi Quốc hội thông qua các Nghị quyết số 104/2023/QH15 về dự toán NSNN năm 2024, Nghị quyết số 105/2023/QH15 về phân bổ ngân sách trung ương năm 2024, Thủ tướng Chính phủ đã giao kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2024 cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương [57]; chỉ đạo các bộ, cơ quan trung ương, địa phương khẩn trương phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2024 theo đúng nguyên tắc, thứ tự ưu tiên theo quy định, bảo đảm trọng tâm, trọng điểm, không để dàn trải, manh mún, kéo dài, phấn đấu tỷ lệ giải ngân vốn đầu tư công đạt 95% kế hoạch giao. Chính phủ đã ban hành 11 nghị quyết, Thủ tướng Chính phủ ban hành 03 chỉ thị, 05 công điện và nhiều văn bản chỉ đạo, đôn đốc giải ngân vốn đầu tư công; thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp hướng dẫn xử lý, tháo gỡ vướng mắc, khó khăn một cách kịp thời, hiệu quả, để đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công; yêu cầu xác định giải ngân vốn đầu tư công là nhiệm vụ chính trị quan trọng hàng đầu; xác định rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, làm việc nào dứt việc đó, đề cao vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong giải ngân vốn đầu tư công, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, chậm tiến độ giao vốn, thực hiện, giải ngân kế hoạch vốn, chống lãng phí, thất thoát, tham nhũng. Thực hiện “5 quyết tâm”, “5 đảm bảo” trong giải ngân kế hoạch đầu tư công; kiên quyết điều chuyển số vốn chưa được phân bổ, vốn của các dự án chậm giải ngân sang các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án có khả năng giải ngân tốt hơn và còn thiếu vốn[58]. Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ có quyết định giao kế hoạch vốn, Bộ Tài chính đã có văn bản đôn đốc các bộ, cơ quan trung ương và địa phương đẩy nhanh việc triển khai phân bổ chi tiết kế hoạch vốn hằng năm và triển khai nhập dự toán trên hệ thống Tabmis để phê duyệt làm căn cứ thanh toán vốn. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương xác định việc giải ngân vốn đầu tư công là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm cần sự tham gia của tất cả các cấp, các ngành ngay từ những tháng đầu năm để giải ngân đạt trên 95%, phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch đầu tư công được Thủ tướng Chính phủ giao [59]. Một số đơn vị có kết quả giải ngân rất tốt, đạt mục tiêu giải ngân tối thiểu 95% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 của Chính phủ như: Đài truyền hình Việt Nam (đạt 100%); Ngân hàng Chính sách xã hội (đạt 100%); Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật (đạt 98,22%); Văn phòng Quốc hội (đạt 97,56%); Bộ Giao thông vận tải (đạt 97,21%); Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (đạt 97,1%); Đài tiếng nói Việt Nam (đạt 96,62%); Bộ Quốc phòng (đạt 95,25%); Hải Phòng (đạt 99,83%); Sóc Trăng (đạt 99,67%); Đồng Tháp (đạt 99,4%); Hải Dương (đạt 99,4%); Hà Nam (đạt 98,28%); Bến Tre (đạt 98,13%);...
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án quan trọng, trọng điểm quốc gia, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, mở ra không gian phát triển mới cho các địa phương và cả nước. Phát động phong trào thi đua 500 ngày đêm hoàn thành 3.000 km cao tốc trước ngày 31/12/2025. Chỉ đạo quyết liệt hoàn thành hệ thống đường dây truyền tải điện 500KV mạch 3 từ Quảng Trạch (Quảng Bình) đến Phố Nối (Hưng Yên) sau hơn 6 tháng thi công thần tốc; tích cực triển khai nhiều dự án, công trình năng lượng trọng điểm như: Khai thác mỏ khí Lô B, trung tâm nhiệt điện Ô Môn..., trình Quốc hội đồng ý thông qua chủ trương đầu tư dự án điện hạt nhân Ninh Thuận. Thủ tướng Chính phủ đã chủ trì 07 phiên họp Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án quan trọng quốc gia, trọng điểm ngành giao thông vận tải, đã tạo bước đột phá mới về phát triển hạ tầng giao thông trong năm 2024. Hoàn thành nâng tổng chiều dài đường cao tốc đưa vào khai thác đến nay là trên 2.000 km. Hoàn thành đưa vào khai thác Nhà ga hành khách T2, cảng hàng không Phú Bài, dự án mở rộng sân bay Điện Biên; xử lý quyết liệt, dứt điểm vướng mắc để khởi công nhà ga hành khách T3 - Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất, dự án Cảng hàng không quốc tế Long Thành [60]…. Chính phủ đã trình Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam; thúc đẩy triển khai các tuyến đường sắt kết nối với Trung Quốc [61]; cơ bản hoàn thành từng phần và bàn giao đưa vào khai thác sử dụng 02 dự án nâng cấp tuyến đường sắt quốc gia Bắc - Nam [62], khởi công 03 dự án[63], đưa vào khai thác thương mại phần trên cao tuyến đường sắt đô thị TP. Hồ Chí Minh - Bến Thành - Suối Tiên và Nhổn - ga Hà Nội, đẩy nhanh tiến độ các dự án đường sắt đô thị tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, về hàng hải, đường thủy nội địa, đã khởi công 02 dự án [64], hoàn thành 01 dự án [65]; đang triển khai thi công 02 dự án[66]; hoàn thiện các thủ tục để khởi công 01 dự án [67]. Đến hết ngày 31/12/2024, tổng số vốn giải ngân của 09 dự án quan trọng quốc gia ngành giao thông vận tải là 70.743,08 tỷ đồng, đạt tỷ lệ 72,9% kế hoạch năm 2024 được giao (96.991,66 tỷ đồng); trong đó dự án Cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020 giải ngân được 3.753 tỷ đồng (đạt 66,9%); dự án Cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 giải ngân được 32.540,84 tỷ đồng (đạt 86,7%); dự án Trụ sở cơ quan Hải quan Cảng hàng không quốc tế Long Thành giải ngân được 80,87 tỷ đồng (đạt 99,3%).
Năm 2024, các khó khăn vướng mắc chủ yếu ảnh hưởng đến tiến độ giải ngân như: Nhiều bộ, ngành, địa phương chưa phân bổ chi tiết cho các dự án theo đúng thời gian quy định nên không thể giải ngân; vướng mắc về giải phóng mặt bằng, quy hoạch sử dụng đất và nguồn cung ứng nguyên vật liệu; vướng mắc ở các khâu hoàn thiện thủ tục đầu tư, quy trình giải ngân của các dự án ODA;... đối với vốn NSĐP, các khó khăn liên quan đến nguồn thu sử dụng đất do chưa đảm bảo so với dự toán được cấp thẩm quyền giao, dẫn đến chậm phân bổ nguồn thu sử dụng đất, ảnh hưởng việc triển khai thực hiện và giải ngân các dự án sử dụng nguồn vốn này. Còn 30/46 bộ, cơ quan trung ương, và 26/63 địa phương có có tỷ lệ ước giải ngân thấp hơn bình quân chung của cả nước. Một số cơ quan giải ngân bằng 0% như: Liên minh Hợp tác xã Việt Nam; hoặc giải ngân rất thấp như: Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam (đạt 10,85%), Ủy ban Dân tộc (đạt 11,42%), Đại học quốc gia Hà Nội (đạt 26,55%), Bộ Y tế (đạt 28,36%), Viện Khoa học xã hội Việt Nam (đạt 31,76%) ... Một số địa phương có tỷ lệ giải ngân dưới 65% như: Quảng Ngãi (đạt 57,41%), Lâm Đồng (đạt 60,49%), Kiên Giang (đạt 63,27%), Bình Phước (đạt 64,16%), Quảng Ninh (đạt 64,19%). Trong quá trình triển khai thực hiện, một số dự án quan trọng quốc gia vẫn còn ghi nhận một số các khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục nỗ lực để tháo gỡ như sau: (1) Công tác GPMB tại nhiều địa phương vẫn còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu về tiến độ. (2) Về nguồn nguyên vật liệu: các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Nai triển khai thủ tục cấp phép để khai thác mỏ cho các nhà thầu chưa đáp ứng tiến độ theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, ảnh hưởng đến tiến độ thi công các dự án khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; một số địa phương đã bố trí tối đa các mỏ để cung cấp cho dự án nhưng công suất vẫn chưa đáp ứng kế hoạch. (3) Về thủ tục điều chỉnh chủ trương đầu tư: tỉnh Đồng Nai chậm xác định giá trị GPMB dự án cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu ảnh hưởng tiến độ điều chỉnh chủ trương; cần triển khai nhiều thủ tục điều chỉnh chủ trương dự án cao tốc Bến Lức - Long Thành; ... Trong quá trình triển khai các công trình, dự án phòng, chống thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, biến đổi khí hậu gặp một số khó khăn vướng mắc như: Nguồn nguyên vật liệu khan hiếm, hiện nay vùng Đồng bằng sông Cửu Long đang được đầu tư nhiều dự án đường cao tốc, do vậy nguồn vật liệu cát, sỏi, đá để san lấp, thực hiện công trình này thường xuyên khan hiếm, giá cả tăng cao ảnh hưởng tới việc thực hiện các dự án phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển; Yếu tố thời tiết, thời gian thi công; Các dự án được Thủ tướng Chính phủ hỗ trợ để xử lý khẩn cấp, phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển, tuy nhiên vẫn còn địa phương chậm hoàn thiện thủ tục đầu tư, chậm giải ngân.
2. THTK, CLP trong quản lý, sử dụng trụ sở làm việc
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản công tại các cơ quan, tổ chức, đơn vị được ban hành đầy đủ. Công tác sắp xếp trụ sở, nhà, đất công tiếp tục được các bộ, ngành, địa phương quan tâm thực hiện, nhiều bộ, ngành, địa phương thực hiện tốt việc rà soát, sắp xếp và bố trí lại hệ thống trụ sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của các cơ quan, tổ chức, đơn vị phù hợp với tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài sản và quy hoạch sử dụng đất của địa phương. Qua hơn 20 năm triển khai, việc sắp xếp lại, xử lý nhà, đất của các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương đã đạt được những kết quả quan trọng, cơ bản nắm được tổng thể nhà, đất do các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp nhà nước thuộc trung ương và địa phương đang quản lý; việc thực hiện các quy định đã góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp trong việc quản lý, sử dụng nhà, đất hiệu quả; tạo quỹ đất để xây dựng các công trình công cộng, đầu tư, phát triển các dự án nhà ở xã hội, nhà ở thương mại, khách sạn, dịch vụ,... góp phần chỉnh trang đô thị, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội và tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, tạo nguồn lực để đầu tư cải tạo, nâng cấp, đầu tư xây dựng mới theo hướng hiện đại hóa một số trụ sở của các Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp.
Kết quả thực hiện sắp xếp, xử lý nhà đất của các bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp nhà nước, tính đến ngày 26/12/2024 số cơ sở nhà, đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý trong phạm vi cả nước 205.862 cơ sở; số cơ sở nhà, đất chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý theo quy định là 62.739 cơ sở [68].
Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn phát sinh vướng mắc, bất cập ảnh hưởng đến tiến độ sắp xếp lại, xử lý nhà, đất dẫn đến tiến độ sắp xếp còn chậm, kéo dài thời gian, số lượng các cơ sở nhà, đất của một số Bộ, ngành, địa phương chưa được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án sắp xếp lại, xử lý nhà đất tương đối lớn. Còn một số cơ quan, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp chưa quan tâm, chỉ đạo quyết liệt việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện sắp xếp lại, xử lý nhà, đất; nguồn gốc nhà đất đa dạng, hồ sơ pháp lý về nhà, đất phức tạp hoặc thiếu/thất lạc hồ sơ; thẩm quyền trong phê duyệt và quyết định xử lý nhà, đất chưa được phân cấp triệt để; việc kiểm tra hiện trạng nhà, đất chưa quy định rõ được phân cấp hay không được phân cấp,...
V. THTK, CLP TRONG QUẢN LÝ, KHAI THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN
1. Công tác quản lý, sử dụng đất đai
Ngay sau khi Luật Đất đai được Quốc hội thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 5 ngày 18/01/2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 05/3/2024 về Kế hoạch tổ chức thi hành Luật Đất đai; Chính phủ ban hành 05 Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai[69], Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành 08 Thông tư trong lĩnh vực đất đai [70] và Quyết định số 2124/QĐ-BTNMT ngày 01/8/2024 về công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực đất đai thuộc phạm vi chức năng quản lý nhà nước của Bộ Tài nguyên và Môi trường
Thủ tướng Chính phủ ban hành các công điện về việc tổ chức thi hành Luật Đất đai (53/CĐ-TTg ngày 26/5/2024, số 63/CĐ-TTg ngày 26/6/2024, số 79/CĐ-TTg ngày 13/8/2024, số 105/CĐ-TTg ngày 10/10/2024, số 109/CĐ-TTg ngày 22/10/2024...); tổ chức Hội nghị toàn quốc triển khai thi hành Luật Đất đai và các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai. Quá trình phổ biến Luật Đất đai và các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật đã kết hợp với giải đáp các vướng mắc trong quá trình tổ chức thi hành Luật để tạo cách hiểu thống nhất khi áp dụng. Qua đó góp phần đẩy nhanh tiến độ triển khai thi hành Luật, tạo sự thống nhất trong tổ chức thực hiện tại các cơ quan quản lý nhà nước, cũng như người dân, doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý, sử dụng đất đai mà Luật Đất đai năm 2024 đã đề ra.
Kịp thời trình Quốc hội thông qua Luật số 43/2024/QH15 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản và Luật Các tổ chức tín dụng, theo đó đề xuất Luật Đất đai có hiệu lực thi hành từ ngày 01/8/2024 (sớm hơn 5 tháng so với đề xuất ban đầu) và trình Quốc hội thông qua 02 Nghị quyết (Nghị quyết số 170/2024/QH15 về cơ chế, chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc đối với các dự án, đất đai trong kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án tại TP Hồ Chí Minh, thành phố Đà Nẵng và tỉnh Khánh Hòa và Nghị quyết số 171/2024/QH15 về thí điểm thực hiện dự án nhà ở thương mại thông qua thỏa thuận về nhận quyền sử dụng đất hoặc đang có quyền sử dụng đất).
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2024/NĐ-CP ngày 05/02/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ quy định về giá đất và Nghị định số 10/2023/NĐ-CP ngày 03/4/2023 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai. Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 22/CT-TTg ngày 23/7/2024 về việc kiểm kê đất đai năm 2024 và Quyết định số 817/QĐ-TTg ngày 09/8/2024 về việc phê duyệt Đề án Kiểm kê đất đai, lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất năm 2024.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng và đưa vào quản lý, vận hành và khai thác sử dụng 04 khối dữ liệu đất đai do Trung ương quản lý gồm cơ sở dữ liệu về thống kê, kiểm kê đất đai; cơ sở dữ liệu về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; cơ sở dữ liệu về giá đất; cơ sở dữ liệu về điều tra, đánh giá đất đai. Đã hoàn thành tái cấu trúc quy trình, thực hiện kết nối, tích hợp, công bố, cung cấp DVCTT “Đăng ký biến động đối với trường hợp đổi tên hoặc thay đổi thông tin về người sử dụng đất, chủ sở hữu tài sản gắn liền với đất; thay đổi hạn chế quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc có thay đổi quyền đối với thửa đất liền kề; giảm diện tích thửa đất do sạt lở tự nhiên” trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, kết nối với CSDLQG về dân cư.
Tham mưu trình Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1216/NQ-UBTVQH15 ngày 09/10/2024 về điều chỉnh chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa nước từ hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021 - 2025. Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh một số chỉ tiêu sử dụng đất đến năm 2025[71]. Tham mưu trình Chính phủ để trình Quốc hội phê duyệt chủ trương điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050.
Qua 03 năm thực hiện Quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 và Kế hoạch sử dụng đất quốc gia 5 năm 2021 - 2025, được cụ thể hóa bằng các quy hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, quy hoạch tỉnh, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện, đã phát huy hiệu quả tích cực, là căn cứ để các Bộ, ngành, địa phương thực hiện việc giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, công nhận quyền sử dụng đất, góp phần đáp ứng các mục tiêu phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an ninh của các địa phương và của cả nước[72].
Bên cạnh đó, khiếu kiện liên quan đến đất đai có xu hướng giảm so với trước đây nhưng vẫn chiếm tỷ lệ lớn. Vi phạm trong quản lý, sử dụng đất đai còn xảy ra ở nhiều nơi.
2. Quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên nước
Thực hiện Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Chính phủ đã ban hành 02 Nghị định [73] hướng dẫn thực hiện luật. Triển khai thực hiện Quy hoạch tài nguyên nước quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến 2050, Chiến lược phát triển ngành thủy lợi đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Kế hoạch hành động của Chính phủ về bảo đảm An ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước giai đoạn 2022-2030, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các quy hoạch tổng hợp một số lưu vực sông [74]; tăng cường thực hiện công tác quản lý, thẩm định và hậu kiểm hồ sơ đề nghị cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả thải vào nguồn nước.
Đến nay 100% hồ chứa thủy điện lớn, quan trọng trên phạm vi cả nước đã được kết nối, cung cấp thông tin, dữ liệu hàng ngày; khoảng 850 công trình Bộ cấp phép và hàng nghìn công trình ở địa phương được giám sát thông qua Hệ thống giám sát. Thực hiện công bố giá trị dòng chảy tối thiểu hạ lưu 725 hồ chứa, đập dâng của 644 công trình thủy lợi, thủy điện. Chỉ đạo các địa phương ban hành danh mục hồ, ao không được san lấp, lấn chiếm nhằm giảm thiểu ngập úng các đô thị và nhiều nhiệm vụ khác để cụ thể hóa Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Công bố kịch bản nguồn nước trên 02 lưu vực sông lớn quan trọng là sông Hồng - Thái Bình và sông Cửu Long. Các kịch bản được công bố sẽ phục vụ công tác điều hòa, phân phối tài nguyên nước trên lưu vực sông, góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng và các nhu cầu thiết yếu khác của người dân. Đồng thời, làm căn cứ để các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên lưu vực sông, trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, chỉ đạo việc lập kế hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên nước phù hợp với Kịch bản nguồn nước[75].
Tình trạng thiếu nước, hạn hán, thiên tai sẽ còn tiếp diễn nghiêm trọng, tác động tiêu cực đến phát triển KTXH và thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững. Tình trạng vi phạm quy định của pháp luật trong quản lý, sử dụng tài nguyên nước vẫn còn xảy ra (năm 2024, các cơ quan chức năng của Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành 30 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính với số tiền phạt hơn 5,2 tỷ đồng; chuyển 01 hồ sơ vụ vi phạm có dấu hiệu tội phạm để truy cứu trách nhiệm hình sự sang bên công an xử lý).
3. Quản lý, khai thác, sử dụng khoáng sản
Chính phủ trình Quốc hội thông qua Luật Địa chất và Khoáng sản năm 2024, hoàn thiện các dự thảo Nghị định, dự thảo Thông tư hướng dẫn thi hành Luật Địa chất và Khoáng sản về khoáng sản nhóm IV để bảo đảm hiệu lực thi hành từ ngày 15/01/2025 đồng bộ cùng với Luật.
Chỉ đạo các địa phương tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động thăm dò, khai thác khoáng sản nhất là đối với công tác thống kê, kiểm kê trữ lượng. Thực hiện phê duyệt theo thẩm quyền và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt khu vực cấm, khu vực tạm thời cấm hoạt động khai thác cát, sỏi lòng sông trên địa bàn các địa phương. Rà soát, thẩm định các hồ sơ đề nghị cấp phép thăm dò khoáng sản, cấp phép khai thác khoáng sản, đóng cửa mỏ khoáng sản.
Chủ động hướng dẫn, thành lập Đoàn công tác liên ngành làm việc với các địa phương tháo gỡ vướng mắc, tập trung cấp phép các mỏ vật liệu san lấp để cung cấp cho các dự án đường cao tốc, các dự án giao thông trọng điểm phía Nam theo chỉ đạo của Chính phủ. Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Bộ Giao thông vận tải tham mưu Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các địa phương khu vực Đồng bằng sông Cửu Long phân bổ, điều phối nguồn cát đắp cho các dự án trong khu vực đáp ứng tiến độ thi công và hoàn thành các dự án.
VI. THTK, CLP TRONG TỔ CHỨC BỘ MÁY, QUẢN LÝ, SỬ DỤNG LAO ĐỘNG VÀ THỜI GIAN LAO ĐỘNG TRONG KHU VỰC NHÀ NƯỚC
1. Công tác tổ chức bộ máy và biên chế:
Thực hiện Kế hoạch của Ban chỉ đạo Trung ương về tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khoá XII, các cơ quan khẩn trương xây dựng đề án, văn bản quy định liên quan đến sắp xếp bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ bảo đảm tinh gọn, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả, báo cáo Ban Chỉ đạo Chính phủ và Bộ Chính trị; chủ động, kịp thời hướng dẫn các địa phương thực hiện sắp xếp tinh gọn các cơ quan tham mưu trực thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện theo hướng bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước từ Trung ương đến địa phương; tích cực đề xuất cơ chế, chính sách vượt trội, đủ mạnh đối với CBCCVC và người lao động làm cơ sở để thực hiện sắp xếp tinh gọn bộ máy, gắn tinh giản biên chế với cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC. Đây là khối lượng công việc rất lớn, phức tạp, nhạy cảm, song với sự thống nhất về nhận thức và thực hiện nghiêm chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ, kết quả đến nay đã cơ bản hoàn thành các đề án để báo cáo Chính phủ trình Bộ Chính trị, Ban Chỉ đạo Trung ương.
Qua đó tạo tiền đề và cơ sở pháp lý quan trọng cho việc sắp xếp, giảm số lượng các bộ, sở, phòng và cơ cấu tổ chức bên trong tinh gọn theo yêu cầu của Nghị quyết số 18-NQ/TW; khắc phục tình trạng trùng lặp, chồng chéo, bỏ sót hoặc không rõ chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực quản lý và đáp ứng nguyên tắc, tiêu chí thành lập tổ chức theo chủ trương của Đảng và quy định của pháp luật; đồng thời tập trung xây dựng dự án Luật Tổ chức Chính phủ (sửa đổi) trình cấp thẩm quyền theo kế hoạch[76].
Kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy (tính đến ngày 30/10/2024) tại 63 tỉnh, thành phố: tiếp tục giảm 12 tổ chức chi cục, phòng và tương đương của cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; giảm 29 tổ chức phòng và tương đương thuộc UBND cấp huyện, lũy kế đến nay, giảm 13 Sở và tương đương; 2.613 tổ chức cấp phòng và tương đương ở địa phương.
2. Công tác cải cách hành chính, thủ tục hành chính (TTHC)
Công tác cải cách hành chính, cải cách TTHC, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt. Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 7 về kết quả rà soát, xử lý các vướng mắc, bất cập về TTHC và đề ra nhiều giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm[77]; thống nhất triển khai thí điểm Mô hình Trung tâm phục vụ hành chính công một cấp trực thuộc UBND cấp tỉnh từ tháng 9/2024 đến tháng 11/2025 tại 05 địa phương (Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Quảng Ninh và Bắc Ninh), tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp thực hiện TTHC, dịch vụ công không phụ thuộc địa giới hành chính[78].
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 63/2024/NĐ-CP ngày 10/6/2024 quy định việc thực hiện liên thông điện tử 02 nhóm TTHC: đăng ký khai sinh, đăng ký thường trú, cấp thẻ bảo hiểm y tế cho trẻ em dưới 6 tuổi; đăng ký khai tử, xóa đăng ký thường trú, giải quyết mai táng phí, tử tuất. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Kế hoạch cải cách TTHC trọng tâm năm 2024 với 24 nhiệm vụ cụ thể; phê duyệt Danh mục nhóm dịch vụ công trực tuyến liên thông, phương án đơn giản hóa quy định, TTHC liên quan đến phiếu lý lịch tư pháp[79]; chỉ đạo thực hiện nghiêm việc cắt giảm, đơn giản hóa TTHC trong đề nghị, dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật, giảm chi phí tuân thủ ngay từ khâu dự thảo; nâng cao hiệu quả giải quyết TTHC, tổ chức hiệu quả hoạt động Bộ phận Một cửa các cấp, cung cấp 02 nhóm TTHC liên thông điện tử từ ngày 01/7/2024[80]. Nhờ đó, công tác cải cách TTHC đạt nhiều kết quả tích cực[81].
Việc đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số nâng cao hiệu quả của cơ quan hành chính nhà nước tiếp tục được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt với tinh thần: “Phát triển kinh tế số với 04 trụ cột công nghiệp công nghệ thông tin, số hóa các ngành kinh tế, quản trị số, dữ liệu số - Động lực quan trọng cho phát triển KTXH nhanh và bền vững”. Đã trình Quốc hội thông qua Luật Dữ liệu; xem xét, cho ý kiến đối với dự án Luật Bảo vệ dữ liệu cá nhân, Luật Công nghiệp công nghệ số. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 10 Nghị định[82], 11 Quyết định[83], 02 Chỉ thị[84], nhiều văn bản chỉ đạo hoàn thiện cơ sở pháp lý, thúc đẩy chuyển đổi số và Đề án 06; bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng[85].
Ủy ban Quốc gia về chuyển đổi số đã ban hành Kế hoạch hoạt động năm 2024 với mục tiêu đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, đóng góp tích cực, tạo bứt phá phát triển KTXH năm 2024 và giai đoạn 2021 - 2025; ban hành Kế hoạch hành động chuyển đổi số hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trực tuyến và dựa trên dữ liệu giai đoạn 2024 - 2025, định hướng đến năm 2030, đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thúc đẩy công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương dựa trên dữ liệu, theo thời gian thực. Các hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu nền tảng và Đề án 06, đổi mới mạnh mẽ phương thức làm việc, chuyển đổi số trong nội khối cơ quan hành chính nhà nước và phục vụ chỉ đạo, điều hành, cung cấp dịch vụ công, giải quyết TTHC trên môi trường điện tử tiếp tục được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt[86].
3. Về xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ công chức, viên chức:
Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ chế độ công vụ, công chức nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu lực, hiệu quả bằng các giải pháp cụ thể, theo đó tham mưu ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tuyển dụng, sử dụng và quản lý CBCCVC[87] đáp ứng yêu cầu của nền hành chính quốc gia; hoàn thiện quy định tiêu chuẩn lãnh đạo quản lý; tích cực phối hợp các cơ quan liên quan tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng vào làm việc trong cơ quan nhà nước và ĐVSNCL, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm, tiêu chuẩn nghiệp vụ, tiêu chí đánh giá CBCCVC dựa trên kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao, bằng sản phẩm cụ thể; sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý, bổ nhiệm, miễn nhiệm, kỷ luật, đánh giá, xếp loại CBCCVC bảo đảm đồng bộ quy định của Đảng và phù hợp với yêu cầu đổi mới, cải cách công vụ. Đổi mới và phân cấp triệt để trong tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức; bỏ quy định thi thăng hạng, chỉ quy định về xét thăng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức; cải cách thủ tục, quy trình tuyển dụng; tăng cường ứng dụng công nghệ trong tuyển dụng, nâng ngạch, thăng hạng; tăng cường tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Đẩy mạnh triển khai việc xác định vị trí việc làm và cơ cấu công chức theo ngạch trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội từ Trung ương đến địa phương.
Tiếp tục siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính trong thực thi công vụ, xử lý nghiêm minh, kịp thời những người có sai phạm, vi phạm pháp luật; đồng thời, thực hiện các biện pháp nhằm đẩy lùi tình trạng đùn đẩy, né tránh, thiếu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức, viên chức.
Năm 2024, các bộ, ngành và địa phương đã tuyển dụng được 39.218 CCVC (có 3.879 công chức; 35.402 viên chức). Trong đó bộ, ngành tuyển dụng 3.740 CCVC (561 công chức; 3.179 viên chức); các địa phương tuyển dụng 35.541 CCVC (3.318 công chức; 32.223 viên chức), tuyển dụng theo Nghị định số 140/2017/NĐ-CP được 230 người (trong đó 170 sinh viên xuất sắc, 60 cán bộ khoa học trẻ).
Thực hiện nghiêm các quy định về đánh giá, xếp loại chất lượng CBCCVC; đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tuyển dụng và quản lý CBCCVC gắn với siết chặt kỷ cương hành chính, kỷ luật công vụ; tăng cường thanh tra công vụ, công chức tại các bộ, ngành, địa phương, kịp thời chấn chỉnh những sai phạm, khuyết điểm trong công tác tuyển dụng, sử dụng và quản lý CBCC nhất là công tác quy hoạch, bổ nhiệm, bổ nhiệm lại CBCCVC. Theo đó, năm 2024 các bộ, ngành, địa phương đã xử lý kỷ luật 4.741 CBCCVC (cán bộ: 390 người; công chức 1.092 người, viên chức 6.313 người).
Còn tình trạng một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có biểu hiện né tránh, đùn đẩy công việc, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám tham mưu, đề xuất xử lý công việc dẫn đến công việc chậm tiến độ, giảm hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và niềm tin của doanh nghiệp, người dân. Công tác phối hợp giữa các bộ, cơ quan trong xử lý công việc có lúc, có nơi còn chưa chặt chẽ, chất lượng chưa cao.
VII. THTK, CLP TRONG QUẢN LÝ, SỬ DỤNG VỐN VÀ TÀI SẢN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ quyết liệt chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp hiệu quả, thực chất cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng; đẩy mạnh phát triển các động lực tăng trưởng mới như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế sáng tạo, các ngành, lĩnh vực mới nổi... Chính phủ đã ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ mới[88], các Nghị định: về Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, về sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp[89].
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo khẩn trương hoàn thành sắp xếp lại, đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động và phát huy nguồn lực đầu tư của doanh nghiệp nhà nước. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại của 04 tập đoàn kinh tế, tổng công ty[90]; phê duyệt và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt việc bổ sung vốn điều lệ/vốn nhà nước cho các doanh nghiệp nhà nước, các ngân hàng thương mại[91]; yêu cầu các doanh nghiệp đổi mới quản trị, nâng cao hiệu quả hoạt động, đầu tư phát triển, thể hiện vai trò mở đường, dẫn dắt trong nền kinh tế. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo xây dựng, hoàn thiện dự thảo Luật Quản lý và đầu tư vốn nhà nước tại doanh nghiệp; ban hành 04 Nghị định[92], 02 Chỉ thị, 01 Công điện[93] và nhiều văn bản để tháo gỡ khó khăn, phát huy nguồn lực đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty; phê duyệt Kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển 05 năm 2021 - 2025 của EVN, VNPT, Tập đoàn Hóa chất Việt Nam[94]. Trình Bộ Chính trị thông qua chủ trương và trình Quốc hội chấp thuận về các giải pháp tiếp tục tháo gỡ khó khăn do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19 để Tổng công ty Hàng không Việt Nam phục hồi, phát triển. Triển khai quyết liệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021 - 2025; thực hiện hiệu quả phương án xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại kiểm soát đặc biệt. Trong năm 2024, đã trình Bộ Chính trị cho ý kiến về chủ trương xử lý tất cả các dự án, doanh nghiệp yếu kém, chậm tiến độ của ngành Công Thương; chủ trương xử lý đối với Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy.
Công tác THTKCLP được các Tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước được quan tâm; theo báo cáo một số tập đoàn, tổng công ty có kết quả tốt trong tiết kiệm từ sản xuất kinh doanh, đầu tư (Tập đoàn Công nghiệp Than, Khoáng sản Việt Nam 3.384 tỷ đồng; Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông Quân đội 4.170 tỷ đồng...). Tập đoàn Viettel đã đẩy mạnh hoạt động sáng kiến ý tưởng, đã tạo ra hệ thống các thiết bị, công cụ hỗ trợ trực tiếp cho hoạt động khai thác viễn thông, góp phần thực thi các chiến lược thay đổi mô hình tổ chức, nâng cao lợi thế cạnh tranh của Viettel; giá trị làm lợi trong hoạt động sáng kiến, ý tưởng đã được công nhận trong năm 2024 là 466 sáng kiến ý tưởng (Sáng kiến: 120; Ý tưởng: 346), tương ứng giá trị 54,7 tỷ đồng. Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã phát điện hòa lưới 02 tổ máy NMTĐ Ialy MR (360MW); đóng điện 216 dự án lưới điện 110-500kV; nhiều công trình lưới điện truyền tải trọng điểm đã kịp hoàn thành trong thời gian rất ngắn, đã được Chính phủ và các Bộ, ngành đánh giá cao, đặc biệt công trình đường dây 500kV mạch 3 từ Quảng Trạch đến Phố Nối đã hoàn thành sau hơn 6 tháng thi công (trong điều kiện bình thường sẽ cần từ 24-36 tháng); hoàn thành 3 công trình lưới điện giúp tăng cường nhập khẩu điện từ Lào để mua thêm ~1.000MW nguồn điện ngay từ đầu năm 2025.
VIII. THTK, CLP TRONG HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT, KINH DOANH VÀ TIÊU DÙNG CỦA NHÂN DÂN
Trong bối cảnh sản xuất công nghiệp và thị trường xuất khẩu gặp khó khăn, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp phát triển thị trường trong nước, kích cầu tiêu dùng, phát triển mạnh mẽ các kênh phân phối nội địa, đa dạng các hình thức mua hàng, khuyến mại; chỉ đạo các cơ quan liên quan theo dõi sát diễn biến cung cầu, giá cả hàng hóa để tập trung điều tiết sản xuất, quản lý thị trường, bảo đảm ổn định thị trường, giá cả, không để xảy ra tình trạng thiếu hàng, gián đoạn nguồn hàng gây tăng giá đột biến, nhất là trong các dịp lễ, tết. Chính phủ đã chỉ đạo triển khai các giải pháp thúc đẩy Đề án “Đầu tư ít nhất 1 triệu căn hộ nhà ở xã hội cho đối tượng thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp giai đoạn 2021 - 2030”; đẩy mạnh hoạt động của Tổ công tác 1435 tháo gỡ cho các dự án bất động sản trên cả nước. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc liên quan đến các dự án[95], khơi thông các nguồn lực đất đai, tài nguyên, không để lãng phí; thành lập Ban Chỉ đạo rà soát, xử lý vướng mắc trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật.
Với quan điểm “Phát triển du lịch phải đặt trong tổng thể với phát triển KTXH với vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn”, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo mạnh mẽ phát triển du lịch toàn diện, nhanh, bền vững; nâng cao hiệu quả công tác thống kê du lịch[96]. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch hệ thống du lịch thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045[97]; ban hành tiêu chí, tiêu chuẩn, định mức kinh tế - kỹ thuật dịch vụ xúc tiến, quảng bá du lịch ở trong nước và ngoài nước; kế hoạch truyền thông, quảng bá Năm Du lịch quốc gia 2024; phát triển thương hiệu du lịch quốc gia và địa phương, quảng bá du lịch Việt Nam ra thế giới[98] với tinh thần “lấy văn hóa để phát triển du lịch, lấy du lịch để phát triển văn hóa”, thúc đẩy liên kết giữa các ngành dịch vụ với du lịch (vận tải - lưu trú - tiêu dùng - y tế - giáo dục - sự kiện - thể thao); tạo thuận lợi về thủ tục xuất nhập cảnh. Chỉ đạo triển khai Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030, Đề án cơ cấu lại ngành du lịch, đáp ứng yêu cầu phát triển thành ngành kinh tế mũi nhọn, Đề án cơ chế, chính sách đặc thù phát triển khu du lịch Thác Bản Giốc, tỉnh Cao Bằng... Nhờ đó, tăng trưởng của ngành du lịch năm 2024 đạt kết quả tích cực, là điểm sáng về phát triển KTXH[99].
IX. CÔNG TÁC THANH TRA, KIỂM TRA THTK, CLP
Năm 2024, Thanh tra Chính phủ và Thanh tra các bộ, ngành, địa phương bám sát định hướng chương trình thanh tra và sự chỉ đạo của Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực các cấp, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Thủ trưởng cơ quan hành chính xây dựng và triển khai kế hoạch thanh tra và thanh tra đột xuất. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 20/10/2023 về chấn chỉnh, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động công vụ; chỉ đạo thanh tra một số lĩnh vực có nguy cơ phát sinh tham nhũng cao; đã chỉ đạo xử lý nhiều kết luận thanh tra và xử lý sau thanh tra, xử lý kỷ luật nghiêm đối với những tổ chức, cá nhân vi phạm.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật về THTK, CLP theo Nghị quyết 74/2022/QH15 của Quốc hội. Trong công tác xây dựng Định hướng chương trình, kế hoạch thanh tra, kiểm tra hàng năm đã lồng ghép nội dung thanh tra, kiểm tra THTK, CLP vào nội dung thanh tra, kiểm tra trách nhiệm, hành chính. Trong đó, chú trọng lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, tài chính công, tài nguyên, khoáng sản... với tinh thần quyết liệt, sai đến đâu kiến nghị xử lý tới đó, áp dụng kịp thời các biện pháp theo thẩm quyền nhằm phát hiện, ngăn chặn, phòng ngừa, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí; thu hồi tiền, tài sản nhà nước do các tổ chức, cá nhân, cơ quan, đơn vị gây ra.
Đẩy nhanh tiến độ ban hành kết luận thanh tra; nâng cao chất lượng kết luận thanh tra, đảm bảo chặt chẽ, khách quan, kịp thời và khả thi; xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật đối với tập thể, cá nhân vi phạm pháp luật; quan tâm kiến nghị hoàn thiện chính sách, pháp luật trên lĩnh vực được thanh tra. Kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện kết luận thanh tra. Kết quả công tác thanh tra tiếp tục đóng góp quan trọng trong công tác phòng, chống lãng phí và góp phần tích cực trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong năm 2024, ngành Thanh tra cả nước đã triển khai 6.673 cuộc thanh tra hành chính và 118.983 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành (đã lồng ghép nội dung thanh tra THTK, CLP vào nội dung thanh tra trách nhiệm, thanh tra hành chính); phát hiện vi phạm về kinh tế 157.585 tỷ đồng, 245 ha đất; kiến nghị thu hồi 85.403 tỷ đồng (trong đó thu hồi về NSNN 20.467 tỷ đồng, thu hồi về tổ chức, đơn vị 64.935 tỷ đồng) và thu hồi 41 ha đất; xuất toán, loại khỏi giá trị quyết toán do chưa thực hiện đúng quy định và đề nghị cấp có thẩm quyền xem xét xử lý 72.183 tỷ đồng, 204 ha đất; ban hành 105.108 quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với tổ chức, cá nhân, với số tiền 4.150 tỷ đồng; kiến nghị xem xét, xử lý hành chính đối với 2.360 tập thể và 9.017 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra xem xét, xử lý 269 vụ, 173 đối tượng; kiến nghị chấn chỉnh công tác quản lý, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật trên nhiều lĩnh vực, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý, sử dụng NSNN, tài sản công, vốn nhà nước,...
Tập trung đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện 6.771 kết luận thanh tra và quyết định xử lý về thanh tra, thu hồi 6.050 tỷ đồng, 77 ha đất; xử lý hành chính 2.965 tổ chức, 11.109 cá nhân; chuyển cơ quan điều tra 108 vụ, 106 đối tượng; khởi tố 21 vụ, 29 đối tượng; ban hành mới, sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ 399 văn bản về cơ chế, chính sách, pháp luật. Một số cuộc thanh tra triển khai chậm so với kế hoạch hoặc kéo dài thời gian xây dựng báo cáo và ban hành kết luận thanh tra; tỷ lệ thu hồi tiền, tài sản qua đôn đốc, xử lý sau thanh tra còn thấp (đạt 45,3%).
X. ĐÁNH GIÁ CHUNG
Năm 2024 là năm thứ tư thực hiện Kế hoạch 05 năm 2021 - 2025, năm quyết liệt, tăng tốc, bứt phá để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội (KTXH) 05 năm 2021 - 2025. Bối cảnh tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp với nhiều yếu tố bất định và rủi ro khó lường. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương triển khai, thực hiện quyết liệt, hiệu quả quy định của Luật THTK, CLP, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ và các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trong Chương trình tổng thể của Chính phủ về THTK, CLP năm 2024, công tác THTK, CLP đã có nhiều chuyển biến và đạt được kết quả quan trọng, tích cực trên các lĩnh vực góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu, chỉ tiêu phát triển KTXH (đạt và vượt toàn bộ 15/15 chỉ tiêu chủ yếu phát triển KTXH đã đề ra); tạo nền tảng, tạo đà, khí thế mới, tâm thế mới, tạo hi vọng, tạo động lực mạnh mẽ để đất nước ta bước vào năm 2025 với niềm tin hoàn thành và đạt kết quả cao nhất các nhiệm vụ, chỉ tiêu của cả giai đoạn 2020 - 2025, hướng tới kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình, phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc. Nhiều bộ, ngành, địa phương ban hành chương trình THTK, CLP năm 2024 đúng thời hạn quy định, như: Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thanh tra Chính phủ,...báo cáo kịp thời đúng thời hạn và đạt kết quả tốt trong THTK, CLP như: Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Quốc phòng, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các tỉnh: Đà Nẵng, Bắc Kạn, Bình Định, Cà Mau, Gia Lai, Hà Giang, Hải Dương, Nghệ An, Ninh Bình, Quảng Ninh, Yên Bái,... Bên cạnh đó, một số bộ, ngành, địa phương chậm ban hành Chương trình THTK, CLP năm 2024, như: tỉnh Cao Bằng (ngày 11/6/2024); Thành phố Hồ Chí Minh (ban hành 05/4/2024); tỉnh Sóc Trăng (ban hành 09/4/2024); Tổng công ty Thép Việt Nam (ban hành 13/6/2024); Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (ban hành 05/4/2024); Tổng Công ty thuốc lá Việt Nam (ban hành 04/5/2024); Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (ngày 17/4/2024)... Có một số Bộ ngành, tổng công ty chưa ban hành Chương trình THTK, CLP năm 2024 đó là: Bộ Công Thương; Bộ Giáo dục và Đào tạo...Một số bộ, ngành, địa phương chưa báo cáo như: Bộ Giáo dục và Đào tạo, UBND TP. Hồ Chí Minh...
Phần III
NHIỆM VỤ, GIẢI PHÁP THTK, CLP NĂM 2025
Năm 2025 là năm cuối thực hiện Kế hoạch 5 năm 2021 - 2025 và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chương trình tổng thể về THTK, CLP của Chính phủ năm 2025 (Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 31/12/2024), với mục tiêu thực hiện kiên quyết, đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp hữu hiệu trong công tác THTK, CLP tạo sự lan tỏa mạnh mẽ, nắm bắt cơ hội, đẩy lùi thách thức, tăng tốc, bứt phá về đích, phấn đấu đạt kết quả cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 05 năm 2021 - 2025, gia tăng nguồn lực chăm lo cho Nhân dân, làm giàu cho đất nước trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng tương lai tốt đẹp, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Những nội dung chủ yếu của Chương trình như sau:
I. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM
1. Phấn đấu thực hiện cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 đã được Quốc hội đề ra để góp phần đưa tổng sản phẩm trong nước (GDP) đạt 8% trở lên, GDP bình quân đầu người đạt khoảng 5.000 USD.
2. Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng tài chính, ngân sách; điều hành chi ngân sách nhà nước theo dự toán, bảo đảm chặt chẽ, tiết kiệm, hiệu quả; THTK, CLP, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhà nước gắn với huy động các nguồn lực xã hội và sắp xếp, tinh gọn bộ máy.
3. Quản lý chặt chẽ việc huy động và quản lý, sử dụng các khoản vốn vay bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, vay để trả nợ gốc của ngân sách nhà nước. Thường xuyên rà soát, theo dõi, đánh giá kỹ việc phát hành trái phiếu Chính phủ gắn với nhu cầu chi đầu tư phát triển, trả nợ gốc của ngân sách bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả.
4. Tăng cường quản lý, sử dụng tài sản công, đảm bảo đúng tiêu chuẩn, định mức, chế độ và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ, tập trung vào việc sắp xếp, xử lý tài sản, đặc biệt là nhà, đất gắn với việc sắp xếp, tổ chức tinh gọn bộ máy.
5. Đẩy mạnh phân bổ, triển khai thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công; tập trung rà soát, kiên quyết loại bỏ những dự án kém hiệu quả, dự án chưa thật sự cần thiết, cấp bách, ưu tiên vốn cho các dự án trọng điểm, cấp bách, tạo động lực cho phát triển nhanh và bền vững.
6. Hoàn thành sắp xếp tổ chức tinh gọn bộ máy theo đúng mục tiêu, yêu cầu đề ra gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ CBCCVC. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền gắn với nâng cao khả năng tự lực, tự cường, trách nhiệm quản trị địa phương.
7. Hoàn thiện thể chế, khung khổ pháp luật để phù hợp với thực tiễn của đất nước hiện nay. Tập trung rà soát khắc phục những hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật về THTK, CLP, nhất là những lĩnh vực dễ phát sinh lãng phí.
8. Ưu tiên nguồn lực, trí lực, chuẩn bị nhân lực, tập trung thực hiện nhiệm vụ chuyển đổi số, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt.
9. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán việc thực hiện chính sách, pháp luật về THTK, CLP. Thu hồi triệt để các dự án treo và đẩy nhanh việc thu hồi các tài sản, đất đai nhà nước bị thất thoát, vi phạm theo các kết luận, kiến nghị của các cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
10. Xây dựng văn hóa tiết kiệm, chống lãng phí trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Có các biện pháp khuyến khích Nhân dân tăng cường THTK, CLP trong sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng.
II. MỘT CHỈ TIÊU, GIẢI PHÁP TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ
1. Trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công: Tiếp tục rà soát, hoàn thiện đồng bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản công, trong đó tập trung hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng tài sản công và khai thác đối với một số loại tài sản kết cấu hạ tầng theo quy định của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công làm cơ sở để tổ chức khai thác có hiệu quả nguồn lực tài chính từ các loại tài sản này. Tập trung rà soát lại toàn bộ tài sản công, trụ sở làm việc không sử dụng, sử dụng kém hiệu quả để quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc để báo cáo cấp có thẩm quyền quyết định xử lý theo quy định, không để lãng phí, thất thoát tài sản nhà nước.
2. Trong quản lý, sử dụng kinh phí chi thường xuyên của ngân sách nhà nước: Ngoài số tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo quy định, trong tổ chức thực hiện, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương phấn đấu tiết kiệm thêm khoảng 10% chi thường xuyên tăng thêm dự toán năm 2025 so với dự toán năm 2024 (loại trừ các khoản chi lương, có tính chất tiền lương, chi cho con người, các khoản phải bố trí đủ theo cam kết quốc tế, các nhiệm vụ chính trị, chuyên môn đặc thù, quan trọng không thực hiện cắt giảm và phần tiết kiệm 10% chi thường xuyên để tạo nguồn cải cách tiền lương theo Nghị quyết của Trung ương).
3. Trong quản lý, sử dụng vốn đầu tư công:
Phân bổ vốn đầu tư công năm 2025 bảo đảm tập trung, có trọng tâm, trọng điểm, tuân thủ điều kiện, trật tự ưu tiên theo quy định; thanh toán đủ số nợ đọng đầu tư xây dựng theo đúng quy định của pháp luật. Đẩy nhanh tiến độ thực hiện và hoàn thành các dự án sử dụng vốn đầu tư công và vốn nhà nước khác; sớm đưa vào khai thác, sử dụng các dự án đã hoàn thành nhiều năm, không để lãng phí. Giải quyết các khó khăn, vướng mắc đã tồn tại nhiều năm của các dự án PPP theo quy định của pháp luật và hợp đồng đã ký kết. Đánh giá kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2021 - 2025 để xác định nhiệm vụ trọng tâm, quan trọng thực hiện trong giai đoạn 2026 - 2030 phù hợp với các mục tiêu, định hướng phân bổ nguồn vốn đầu tư công giai đoạn 2026 - 2030.
4. Trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên
Tăng cường công tác quản lý, khai thác, sử dụng đất, tài nguyên, khoáng sản; kịp thời khắc phục các tồn tại, hạn chế; nâng cao chất lượng quy hoạch để bảo đảm khai thác, sử dụng đất, tài nguyên, khoáng sản tiết kiệm, hiệu quả, bền vững, giảm thiểu thất thoát, lãng phí, tác động tiêu cực đến môi trường; bổ sung các giải pháp để nâng cao hiệu quả khai thác, quản lý, sử dụng tài nguyên nước.
Tăng cường rà soát các dự án, kiến nghị liên quan đến đất đai trong các kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án có khó khăn, vướng mắc và các dự án sử dụng đất chậm tiến độ để có phương án, giải pháp tháo gỡ theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét quyết định theo đúng quy định pháp luật, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư để sớm đưa đất vào khai thác, sử dụng, phát huy hiệu quả, không tiếp tục gây thất thoát, lãng phí. Làm rõ trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân có liên quan nhất là trách nhiệm giải trình của người đứng đầu để xảy ra các vi phạm, thất thoát, lãng phí đối với trường tài nguyên, đặc biệt là các trường hợp sử dụng đất sai mục đích, bỏ hoang hóa, vi phạm pháp luật gây lãng phí.
Đến hết năm 2025 hoàn thiện, kết nối liên thông hệ thống thông tin đất đai và cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia tập trung, thống nhất, trong đó có dữ liệu về quy hoạch sử dụng đất, quản lý cập nhật biến động đến từng thửa đất, công bố công khai, minh bạch, tạo điều kiện cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận thông tin dữ liệu về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
5. Trong quản lý, sử dụng vốn và tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp
Tổng kết Đề án cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định tại Quyết định số 360/QĐ-TTg ngày 17/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ. Hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước bảo đảm tiến độ, hiệu quả; xử lý dứt điểm những yếu kém, thất thoát của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Tổng hợp tình hình triển khai thực hiện trên toàn quốc để phục vụ công tác báo cáo tổng kết Quyết định số 1479/QĐ-TTg ngày 29/11/2022 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn nhà nước giai đoạn 2022 - 2025.
6. Trong tổ chức bộ máy, quản lý, sử dụng lao động và thời gian lao động
Tiếp tục sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của Chính phủ và tổ chức bên trong của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (giảm tối thiểu 15% - 20% đầu mối tổ chức bên trong, không bao gồm các tổ chức thuộc diện hợp nhất, sáp nhập do trùng lặp chức năng, nhiệm vụ khi thực hiện phương án hợp nhất các bộ, 30% - 35% đầu mối tổ chức bên trong của các cơ quan thực hiện cơ cấu sắp xếp và hợp nhất); đồng thời rà soát lại tất cả các hoạt động của các ban chỉ đạo theo hướng kết thúc hoạt động, chỉ giữ lại những ban chỉ đạo có chức năng, nhiệm vụ cần thiết; nghiên cứu bỏ cấp huyện, sáp nhập một số đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Rà soát hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức bộ máy của Chính phủ để có giải pháp đề xuất xử lý trong quá trình sắp xếp; xây dựng dự thảo quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đảm bảo mục tiêu giai đoạn 2021 - 2026, toàn hệ thống chính trị tinh giản ít nhất 5% biên chế cán bộ, công chức và ít nhất 10% biên chế viên chức hưởng lương từ ngân sách nhà nước theo Kết luận số 40-KL/TW ngày 18/7/2022 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả công tác quản lý biên chế của hệ thống chính trị giai đoạn 2022 - 2026.
7. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, xử lý nghiêm các vi phạm quy định về THTK, CLP
Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, xử lý nghiêm minh các vụ vi phạm gây lãng phí lớn, dư luận quan tâm trong các lĩnh vực theo quy định của Luật THTK, CLP và pháp luật chuyên ngành theo tinh thần “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực”. Các bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch kiểm tra, thanh tra cụ thể liên quan đến THTK, CLP trong đó cần chú trọng:
- Xây dựng kế hoạch và tập trung tổ chức kiểm tra, thanh tra, kiểm toán một số nội dung, lĩnh vực trọng điểm, cụ thể cần tập trung vào các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, tài chính công, tài sản công, tài nguyên, khoáng sản. Nghiên cứu đề xuất thanh tra, kiểm tra chuyên đề về việc áp dụng trình tự thủ tục, thẩm quyền giải quyết thủ tục hành chính về đầu tư, xây dựng, triển khai các dự án hợp tác công tư, cung cấp dịch vụ công cho người dân, doanh nghiệp; phát hiện những bất cập trong quy định từ đó đề xuất cấp có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung nhằm đơn giản hóa, tối ưu hóa thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian, công sức, vật chất của Nhà nước, người dân và doanh nghiệp.
- Đối với những vi phạm được phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, thủ trưởng đơn vị phải khắc phục, xử lý hoặc đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có biện pháp xử lý. Thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về xử lý vi phạm đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị và các cá nhân để xảy ra lãng phí. Tổ chức thực hiện các kết luận, kiến nghị của thanh tra, kiểm tra, kiểm toán. Quyết liệt trong xử lý kết quả thanh tra, kiểm tra, kiểm toán để thu hồi tối đa cho Nhà nước tiền, tài sản bị vi phạm, chiếm đoạt, sử dụng sai quy định, lãng phí phát hiện qua công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.
Trên đây là Báo cáo kết quả THTK, CLP năm 2024 và nhiệm vụ, giải pháp THTK, CLP trong năm 2025, Chính phủ trân trọng báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội./.
| TM. CHÍNH PHỦ |
[1] Quyết định số 1579/QĐ-TTg ngày 17/12/2024 về việc thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống lãng phí và Quyết định số 145/QĐ-BCĐ ngày 17/12/2024 ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo phòng, chống lãng phí.
[2] Gồm: Luật Thủ đô (sửa đổi), Luật Đất đai, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Lưu trữ, Luật Đường bộ, Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản, Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Luật Thủ, Luật Cảnh vệ, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Các tổ chức tín, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dược, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi), Luật Công chứng (sửa đổi), Luật Quy hoạch đô thị và nông thôn, Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), Luật Phòng không nhân dân, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sỹ quan Quân đội nhân dân Việt Nam, Luật Phòng, chống mua bán người (sửa đổi), Luật Địa chất và khoáng sản, Luật Phòng cháy, chữa cháy và cứu nạn, cứu hộ, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Luật NSNN, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công, Luật Quản lý thuế, Luật Dự trữ quốc gia, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư và Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công (sửa đổi), Luật Dữ liệu, Luật Điện lực (sửa đổi) (Theo Báo cáo Kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ ban hành tại Văn bản số 505/VPCP-TH ngày 18/01/2025 của Văn phòng Chính phủ).
[3] Theo Báo cáo số 129/BC-BKHĐT ngày 07/01/2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Năm 2024, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 185 Nghị định, 329 Nghị quyết, 1.846 quyết định, 47 Chỉ thị.
[4] Các Quyết định số: 568/QĐ-TTg ngày 26/6/2024, 424/QĐ-TTg ngày 16/5/2024, 90/QĐ-TTg ngày 23/01/2024
[5] Các Quyết định số: 19/QĐ-TTg ngày 08/01/2024, 299/QĐ-TTg ngày 10/4/2024, 717/QĐ-TTg ngày 27/7/2024, 1610/QĐ-TTg ngày 19/12/2024.
[6] Gồm: 35/43 văn bản quy định chi tiết các luật, nghị quyết có hiệu lực thi hành từ 01/7/2024 và 69/110 văn bản quy định chi tiết các luật, nghị quyết có hiệu lực thi hành từ 01/01/2025 (Theo Báo cáo Kiểm điểm công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ ban hành tại Văn bản số 505/VPCP-TH ngày 18/01/2025 của Văn phòng Chính phủ)
[7] Nghị định số 107/2024/NĐ-CP ngày 20/8/2024, Quyết định số 14/QĐ-TTg ngày 19/9/2024
[8] Các Quyết định số: 603/QĐ-TTg ngày 08/7/2024, 1512/QĐ-TTg ngày 04/12/2024
[9] Nghị định số 56/NĐ-CP ngày 18/5/2024
[10] Báo cáo số 132/BC-BKHĐT ngày 07/01/2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng kết tình hình thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 05/01/2024 về nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu thực hiện kế hoạch phát triển KTXH và dự toán NSNN năm 2024.
[11] Báo cáo số 589/BC-BTP ngày 31/12/2024 của Bộ Tư pháp tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và ban hành văn bản quy định chi tiết thi hành luật, pháp lệnh năm 2024 và nhiệm vụ năm 2025.
[12] Nhất là các Kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị: Kết luận số 64-KL/TW; các Nghị quyết của Quốc hội: số 103/2023/QH15; số 104/2023/QH15; các Nghị quyết của Chính phủ: Nghị quyết số 01/NQ-CP, 02/NQ-CP, 93/NQ-CP, các Nghị quyết chuyên đề và Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ,…
[13] Theo Báo cáo số 132/BC-BKHĐT ngày 07/01/2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Trong tổng số 168 nhiệm vụ được Chính phủ giao cụ thể cho 17 bộ, cơ quan trung ương, đến thời điểm báo cáo có 120 nhiệm vụ hoàn thành, đạt 71,4% (Bộ Công Thương 04/05 nhiệm vụ; Bộ Giáo dục và Đào tạo 03/04 nhiệm vụ; Bộ Khoa học và Công nghệ 05/08 nhiệm vụ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư 27/30 nhiệm vụ; Bộ Lao động - Thương binh và xã hội 10/10 nhiệm vụ; Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn 03/09 nhiệm vụ; Bộ Nội vụ 05/07 nhiệm vụ; Bộ Quốc phòng 02/03 nhiệm vụ; Bộ Tài chính 06/09 nhiệm vụ; Bộ Tài nguyên và Môi trường 13/27 nhiệm vụ; Bộ Tư pháp 08/08 nhiệm vụ; Bộ Thông tin và Truyền thông 12/19 nhiệm vụ; Bộ Xây dựng 10/11 nhiệm vụ; Bộ Y tế 01/06 nhiệm vụ; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 01/01 nhiệm vụ; Ủy ban Dân tộc 06/07 nhiệm vụ. Còn lại 48 nhiệm vụ (gồm: 22 nhiệm vụ xin lùi thời gian thực hiện; 12 nhiệm vụ xin rút khỏi Chương trình; 13 nhiệm vụ các bộ, cơ quan trung ương đang triển khai thực hiện; 01 nhiệm vụ mật không báo cáo.
[14] Theo Báo cáo số 129/BC-BKHĐT ngày 07/01/2025 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều Chỉ thị. Công điện về kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ sản xuất kinh doanh và phát triển thị trường trong nước, các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công, thúc đẩy phát triển KTXH, điều hành chính sách tiền tệ, tăng trưởng tín dụng, quản lý thị trường vàng, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, kinh doanh, tăng cường quản lý thu, tiết kiệm chi NSNN, bảo đảm nguồn cung xăng dầu cho sản xuất kinh doanh, đời sống nhân dân, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, bão lũ....
[15] Cụ thể: Giảm 2% thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với một số nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10% theo các Nghị quyết số 110/2023/QH15 ngày 29/11/2023, số 142/2024/QH15 ngày 29/6/2024 của Quốc hội; giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn theo Nghị quyết số 42/2023/UBTVQH15 ngày 18/12/2023 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; gia hạn thời gian nộp thuế GTGT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân và tiền thuê đất trong năm 2024 theo Nghị định số 64/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 và gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo Nghị định số 65/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 của Chính phủ; giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất, lắp giáp trong nước trong 3 tháng (từ tháng 9 đến hết tháng 11) theo Nghị định số 109/NĐ-CP ngày 29/8/2024 của Chính phủ; giảm phí, lệ phí từ 10% đến 50% theo các Thông tư số 63/2023/TT-BTC ngày 16/10/2023, số 43/2024/TT-BTC ngày 28/6/2024 của Bộ Tài chính; điều chỉnh chính sách thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu theo Nghị định số 144/2024/NĐ-CP ngày 01/11/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 26/2023/NĐ-CP ngày 31/5/2023 về Biểu thuế xuất khẩu, biểu nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài ngạch thuế quan.
[16] Trong đó: Giảm thuế suất thuế GTGT từ 10% xuống 8% theo Nghị định số 44/2023/NĐ-CP, Nghị định số 94/2023/NĐ-CP, Nghị định số 72/2024/NĐ-CP khoảng 50,8 nghìn tỷ đồng; giảm thuế bảo vệ môi trường theo Nghị quyết số 30/2022/UBTVQH15 và số 42/2023/UBTVQH15 ước khoảng 40,4 nghìn tỷ đồng; giảm tiền thuê đất theo Quyết định số 25/2023/QĐ-TTg ước khoảng 2,7 nghìn tỷ đồng; giảm phí, lệ phí theo Thông tư số 44/2023/TT-BTC khoảng 24 tỷ đồng; giảm lệ phí trước bạ theo Nghị định số 109/2024/NĐ-CP khoảng 5 nghìn tỷ đồng.
[17] Bao gồm: Gia hạn tiền thuế, tiền thuê đất theo Nghị định số 64/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 khoảng 85,1 nghìn tỷ đồng và gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt theo Nghị định số 65/2024/NĐ-CP ngày 17/6/2024 khoảng 13,2 nghìn tỷ đồng.
[18] Dự toán chi đầu tư phát triển năm 2024 Quốc hội quyết định là 677,3% nghìn tỷ đồng; kế hoạch vốn Thủ tướng Chính phủ đã giao là 680 nghìn tỷ đồng.
[19] Trong năm 2024 Bộ Tài chính đã thực hiện 71.079 cuộc thanh tra, kiểm tra (trong đó: 68.712 cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên ngành; 06 cuộc thanh tra hành chính; 2.361 cuộc kiểm tra nội bộ); tiến hành kiểm tra 661.930 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế, kiểm tra sau thông quan 2.076 cuộc. Qua thanh tra, kiểm tra kiến nghị xử lý tài chính 81.681,471 tỷ đồng (trong đó: Kiến nghị thu hồi nông NSNN là 17.481,168 tỷ đồng)
[20] Gồm: các bộ, ngành là 7.523 tỷ đồng (trong đó: tiết kiệm trong lập, thẩm định, phân bổ dự toán là 1.221 tỷ đồng; tiết kiệm trong sử dụng và thanh quyết toán NSNN là 1.755 tỷ đồng; tiết kiệm trong đầu tư là 5.535 tỷ đồng); các địa phương là 48.964 tỷ đồng (trong đó: tiết kiệm trong lập, thẩm định, phân bổ dự toán là 19.107 tỷ đồng; tiết kiệm trong sử dụng và thanh quyết toán NSNN là 15.541 tỷ đồng; tiết kiệm trong đầu tư là 13.757 tỷ đồng, tiết kiệm khác 502 tỷ đồng); các tập đoàn, tổng công ty là 12.250 tỷ đồng (trong đó tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh là 5.154 tỷ đồng; tiết kiệm trong đầu tư là 7.373 tỷ đồng).
[21] Theo Báo cáo số 40/BC-CP ngày 16/10/2024 của Chính phủ đánh giá tình hình thực hiện NSNN năm 2024 và dự toán NSNN năm 2025.
[22] Quyết định số 260/QĐ-TTg ngày 31/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
[23] Gồm: Vay cân đối NSTW tối đa 659.934 tỷ đồng (trong đó: vay bù đắp bội chi NSTW tối đa 372.900 tỷ đồng, vay để trả nợ gốc không quá 287.034 tỷ đồng), vay về cho vay lại 16.123 tỷ đồng.
[24] Trong đó: Vay trong nước dự kiến ở mức 538.889 tỷ đồng (trong đó huy động từ trái phiếu chính phủ ước đạt 330.376 tỷ đồng); Vay ODA, vay ưu đãi từ các nhà tài trợ nước ngoài ước đạt 25.310 tỷ đồng (trong đó vay về cho vay lại ước đạt 8.453 tỷ đồng).
[25] Nghị quyết số 23/2021/QH15 quy định: (i) Trần nợ công hàng năm không quá 60%GDP, ngưỡng cảnh báo là 55%GDP; (ii) Trần nợ Chính phủ hàng năm không quá 50%GDP, ngưỡng cảnh báo là 45%GDP; (iii) Trần nợ nước ngoài của quốc gia hàng năm không quá 50%GDP, ngưỡng cảnh báo là 45%GDP; (iv) Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% tổng thu NSNN.
[26] Bảo lãnh vay trong nước của Chính phủ cho các dự án, Chính phủ không cấp bảo lãnh cho các dự án mới, các đối tượng được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc ước ở mức 1.031 tỷ đồng, trả nợ lãi ước ở mức 844 tỷ đồng, dư nợ đến cuối năm 2024 dự kiến 9.464 tỷ đồng; Bảo lãnh phát hành trái phiếu cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam, năm 2024 không phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chi trả nợ gốc và lãi, dư nợ trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Phát triển Việt Nam cuối năm 2024 dự kiến 76.071 tỷ đồng; Bảo lãnh phát hành trái phiếu cho Ngân hàng Chính sách xã hội, năm 2024 không phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, chi trả nợ, dư nợ trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh cho Ngân hàng Chính sách Xã hội cuối năm 2024 dự kiến 77.731 tỷ đồng; Bảo lãnh vay nước ngoài, năm 2024 Chính phủ không cấp bảo lãnh cho các dự án mới, các dự án đều đã hoàn thành giai đoạn giải ngân, không còn rút vốn, chi thực hiện trả nợ gốc, trả nợ lãi, dư nợ đến cuối năm 2024 dự kiến 89.194 tỷ đồng.
[27] Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2023 của Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.
[28] Theo Báo cáo số 930/BC-ĐGS ngày 26/8/2024 của Đoàn Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
[29] Các ĐVSNCL đạt mức độ tự chủ chưa cao, chủ yếu ở mức độ 2, chủ yếu tập trung ở một số lĩnh vực sự nghiệp kinh tế dễ thu lợi nhuận và tập trung ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển.
[30] Theo Báo cáo số 10928/BC-BKHĐT ngày 31/12/2024 tình hình thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2021-2025 năm 2024
[31] Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1243/QĐ-TTg ngày 22/10/2024 về việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước; Quyết định số 1119/QĐ-TTg ngày 07/10/2024 kiện toàn Ban Chỉ đạo Trung ương các CTMTQG giai đoạn 2021-2025; Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày 19/7/2024 điều chỉnh, bổ sung và hiệu chỉnh danh sách xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 75/2024/TT-BTC ngày 31/10/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 55/2023/TT-BTC ngày 15/8/2023 quy định quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí sự nghiệp từ nguồn ngân sách nhà nước thực hiện các CTMTQG giai đoạn 2021-2025.
[32] Bộ Kế hoạch và Đầu tư tham vấn ý kiến một số cơ quan trung ương và địa phương về các giải pháp xây dựng cơ sở dữ liệu và ứng dụng công nghệ thông tin trong giám sát, đánh giá các CTMTQG;...
[33] Gồm: (i) Phấn đấu mức thu nhập bình quân của người DTTS tăng trên 2 lần so với năm 2020; (ii) Phấn đấu 50% số xã, thôn ra khỏi địa bàn ĐBKK.
[34] Gồm: (1) Mục tiêu về tỷ lệ giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số: bình quân đạt 3.70% (đạt so với mức trên 3% mục tiêu kế hoạch giao); (2) Nhóm mục tiêu về công tác giáo dục: cơ bản đạt (đạt 4/5 chỉ tiêu); (3) Nhóm mục tiêu tăng cường công tác y tế để đồng bào DTTS được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại, tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng đồng bào DTTS và MN: cơ bản đạt (đạt 3/5 chỉ tiêu); (4) Mục tiêu lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người dân tộc thiểu số và đặc thù vùng đồng bào DTTS và MN: Đạt trung bình 54,1% (vượt so với mục tiêu kế hoạch 50% giao); (5) Nhóm mục tiêu về Bảo tồn và phát triển các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc: Đạt (cả 2/2 chỉ tiêu đều vượt so với mục tiêu kế hoạch giao); (6) Nhóm mục tiêu về cải thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội ở các xã đặc biệt khó khăn (khu vực III) và thôn ĐBKK vùng đồng bào DTTS và MN: Chưa đạt (trong đó 2/8 chỉ tiêu đã đạt: 6/8 chỉ tiêu dự báo sẽ sớm đạt); (7) Nhóm mục tiêu về công tác định canh, định cư, giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào: Chưa đạt..
[35] Đã có Quyết định của Chủ tịch UBND cấp tỉnh công nhận, tăng 02 xã so với tháng 12/2024), trong đó: có 2.287 xã đạt chuẩn NTM nâng cao (tăng 12 xã so với tháng 12/2024) và 566 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu (tăng 16 xã so với tháng 12/2024); bình quân cả nước đạt 17,5 tiêu chí/xã; 04 huyện (Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên; Quế Phong, tỉnh Nghệ An; Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa; Khánh Sơn, tỉnh Khánh Hòa) đã có xã được công nhận đạt chuẩn NTM và ra khỏi danh sách huyện “trắng xã NTM”.
[36] Huyện Thanh Trì, Gia Lâm, Hoài Đức, Tp. Hà Nội; huyện Đầm Hà và Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh; huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên; huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định; huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình; huyện Thọ Xuân và Yên Định, Triệu Sơn tỉnh Thanh Hóa; Long Điền, Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai; Tiểu Cần, Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh; huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.
[37] Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Ninh Bình, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ, Bạc Liêu, Trà Vinh, Hà Tĩnh, Tiền Giang, Đồng Tháp
[38] Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Cần Thơ, Trà Vinh.
[39] Trong đó: 76,2% sản phẩm 3 sao, 22,9% sản phẩm 4 sao, 79 sản phẩm 5 sao (tăng 28 sản phẩm so với tháng 12/2024), còn lại là tiềm năng 5 sao. Có 8.476 chủ thể OCOP (tăng 390 chủ thể so với tháng 12/2024), trong đó có 32% là HTX, 22,3% là doanh nghiệp nhỏ, 31,7% là cơ sở sản xuất/hộ kinh doanh, còn lại là tổ hợp tác.
[40] Đến hết năm 2022, mới có 20/52 địa phương ban hành được cơ chế lồng ghép nguồn vốn theo quy định tại Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội, có 22/63 địa phương ban hành cơ chế tổ chức các hoạt động hỗ trợ phát triển sản xuất tại địa phương theo quy định tại Nghị định số 27/2022/NĐ-CP (được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 38/2023/NĐ-CP). Đến hết tháng 7 năm 2023, vẫn còn 06 địa phương (Nam Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận, Long An, Tiền Giang) chưa hoàn thành việc ban hành cơ chế lồng ghép nguồn vốn thực hiện các CTMTQG tại địa phương; còn 04 địa phương (Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Điện Biên) chưa hoàn thành đầy đủ việc ban hành các văn bản cụ thể hóa các Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2021-2025 theo phân cấp
[41] Điển hình như: Đồng bằng sông Hồng: 100%, Đông Nam Bộ: 91,4% trong khi đó Miền núi phía Bắc mới đạt 47,7%, Tây Nguyên 58,6%.
[42] Các địa phương: Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Điện Biên.
[43] Bao gồm: Huyện Bảo Lâm, huyện Nguyên Bình (tỉnh Cao Bằng); huyện Mù Căng Chải (tỉnh Yên Bái); huyện Pắc Nặm (tỉnh Bắc Kạn); huyện Tủa Chùa, huyện Tuần Giáo, huyện Điện Biên Đông, huyện Mường Chà (tỉnh Điện Biên); huyện Mường Lát (tỉnh Thanh Hóa); huyện Quế Phong (tỉnh Nghệ An); huyện Nam Giang (tỉnh Quảng Nam); huyện Sơn Tây (tỉnh Quảng Ngãi); huyện Khánh Sơn (tỉnh Khánh Hòa); huyện Bắc Ái (tỉnh Ninh Thuận); huyện Tuy Đức (tỉnh Đắk Nông); huyện Tu Mơ Rông (tỉnh Kon Tum).
[44] Nghị quyết số 792/NQ-UBTVQH14 ngày 22/10/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số nhiệm vụ và giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, sử dụng các quỹ TCNN ngoài ngân sách; Nghị quyết số 23/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 của Quốc hội về kế hoạch tài chính quốc gia vay, trả nợ công 5 năm 2021-2025.
[45] Văn bản số 20/VPCP-KTTH ngày 02/01/2020 của Văn phòng Chính phủ.
[46] Trong năm 2024, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 109/NQ-CP ngày 10/7/2024, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 656/QĐ-TTg ngày 16/7/2024 thành lập Quỹ cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo và hộ cận nghèo; Chính phủ ban hành Nghị định số 78/2021/NĐ-CP ngày 01/8/2021 về thành lập và quản lý Quỹ Phòng, chống thiên tai trung ương.
[47] Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Quyết định số 779/QĐ-TTg ngày 26/5/2021 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Quỹ Vắc xin phòng Covid-19: “Quỹ tự chấm dứt hoạt động và giải thể sau khi cơ quan có thẩm quyền công bố hoàn thành việc tiêm vắc xin phòng dịch Covid-19 cho người dân”,..
[48] Gồm: Quỹ bảo hiểm xã hội, Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Quỹ bảo hiểm y tế, Quỹ tích lũy trả nợ, Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước, Quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, Quỹ phòng, chống tác hại của thuốc lá, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ hỗ trợ phụ nữ nghèo, Quỹ phòng chống tội phạm trung ương, Quỹ hỗ trợ nông dân trung ương, Quỹ đền ơn đáp nghĩa, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam, Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch và Quỹ Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo và hộ cận nghèo.
[49] Gồm: Quỹ bảo hiểm xã hội, Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, Quỹ bảo hiểm y tế, Quỹ tích lũy trả nợ, Quỹ dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, Quỹ phòng, chống tác hại của thuốc lá, Quỹ bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam, Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa.
[50] Gồm: Quỹ bảo hiểm xã hội chiếm khoảng 83,4%; Quỹ bảo hiểm thất nghiệp chiếm 4,3%; Quỹ bảo hiểm y tế chiếm 3/2%.
[51] Như: Quỹ dịch vụ viễn thông công ích (chiếm 0,5%), Quỹ Quốc gia về việc làm (chiếm 0,3%), Quỹ vắc-xin phòng Covid-19 (chiếm 0,23%), Quỹ phòng chống tác hại của thuốc lá (chiếm 0,15%),..
[52] Trong đó, kinh phí NSNN cấp và hỗ trợ cho các quỹ là 52,9 nghìn tỷ đồng, gồm: Quỹ bảo hiểm xã hội (52,2 nghìn tỷ đồng), Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia (300 tỷ đồng), Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa (250 tỷ đồng), Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch (124,3 tỷ đồng).
[53] Theo Báo cáo số 647/BC-CP ngày 15/10/2024 của Chính phủ tình hình thực hiện Kế hoạch tài chính năm 2024 và dự kiến kế hoạch tài chính năm 2025 của các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách do trung ương quản lý.
[54] Gồm: Nghị định số 114/2024/NĐ-CP ngày 15/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 151/2017/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý, sử dụng tài sản công; Nghị định số 02/2024/NĐ-CP ngày 10/01/2024 về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang EVN; Nghị định số 108/2024/NĐ-CP ngày 23/8/2024 quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác nhà, đất là tài sản công không sử dụng vào mục đích để ở giao cho tổ chức có chức năng quản lý, kinh doanh nhà địa phương quản lý, khai thác; Nghị định số 171/2024/NĐ-CP ngày 27/12/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 166/2017/NĐ-CP ngày 31/12/2017 quy định tiêu chuẩn, định mức và chế độ quản lý, sử dụng tài sản công của cơ quan Việt Nam ở nước ngoài: Nghị định số 104/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 quy định về Quỹ phát triển đất; Nghị định số 44/2024/NĐ-CP ngày 24/4/2024 quy định việc quản lý, sử dụng và khai thác tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; Nghị định số 103/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 quy định về tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Quyết định số 213/QĐ-TTg ngày 01/3/2024 phê duyệt Đề án Tổng kiểm kê tài sản công tại cơ quan, tổ chức, đơn vị, tài sản kết cấu hạ tầng do Nhà nước đầu tư, quản lý; Quyết định số 22/2024/QĐ-TTg ngày 29/11/2024 bãi bỏ toàn bộ Quyết định số 41/2017/QĐ-TTg ngày 15/9/2017 quy định trình tự, thủ tục điều chuyển công trình điện được đầu tư bằng vốn nhà nước sang Tập đoàn điện lực Việt Nam quản lý. Thông tư số 69/2024/TT-BTC ngày 01/10/2024 Danh mục hàng hóa, dịch vụ áp dụng mua sắm tập trung cấp quốc gia; Thông tư số 14/2024/TT-BTC ngày 01/03/2024 bãi bỏ Thông tư số 24/2019/TT-BTC ngày 22/4/2019 hướng dẫn một số nội dung của Nghị định số 04/2019/NĐ-CP ngày 11/01/2019 quy định tiêu chuẩn, định mức sử dụng xe ô tô; Thông tư số 74/2024/TT-BTC ngày 31/10/2024 quy định chế độ quản lý, tính hao mòn tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ và hướng dẫn việc kê khai, báo cáo về tài sản kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ.
[55] Gồm: 433,988 km đường cao tốc; 23.368,779 km đường quốc lộ; 140.449,038 km đường tỉnh; 120.963,926 km đường huyện; 145.842,493 km đường xã; 67.915,783 km đường đô thị; 998,681 km đường chuyên dùng; 414.596,991 km đường nông thôn; 97,113 km đường miền núi.
[56] Trong đó: Công trình cấp nước tự chảy: 9.887 công trình với diện tích đất 6.798 nghìn m2, diện tích sàn xây dựng: 3.106 nghìn m2 và tổng giá trị 12.503 tỷ đồng; Công trình cấp nước sử dụng bơm động lực: 5.404 công trình với diện tích đất 5.356 nghìn m2, diện tích sàn xây dựng: 2.795 nghìn m2 với tổng giá trị 24.557 tỷ đồng; Công trình bằng công nghệ hồ treo: 102 công trình với diện tích đất 230 nghìn m2, diện tích sàn xây dựng: 217 nghìn m2 và tổng giá trị 981 tỷ đồng; Công trình cấp nước hỗn hợp: 67 công trình với diện tích đất 125 nghìn m2 diện tích sàn xây dựng: 78 nghìn m2 và tổng giá trị 346 tỷ đồng.
[57] Quyết định số 1603/QĐ-TTg ngày 11/12/2023 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2024. Kế hoạch đầu tư vốn NSNN năm 2024 giao cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương là 682.950,7 tỷ đồng, bao gồm: vốn NSTW 250.647,6 tỷ đồng, vốn NSĐP 432.303,1 tỷ đồng; trong đó vốn NSTW bố trí cho dự án, nhiệm vụ thuộc 03 CTMTQG là 27.220 tỷ đồng.
[58] Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 08/8/2024.
[59] Ước giải ngân từ đầu năm đến ngày 31/01/2025 là 635.579,9 tỷ đồng, đạt 93,06% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2023 đạt 93,12% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao). Trong đó, CTMTQG là 23.321,2 tỷ đồng (đạt 85,68% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao).
[60] Công điện số 271/CĐ-TTg ngày 18/4/2023; Quyết định số 401/QĐ-TTg ngày 18/4/2023.
[61] Các tuyến: Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Đồng Đăng, Móng Cái - Hạ Long - Hải Phòng.
[62] Dự án cải tạo, nâng cấp các công trình thiết yếu đoạn Hà Nội - Vinh; Dự án gia cố các hầm yếu kết hợp mở mới các ga và cải tạo kiến trúc tầng trên đoạn Vinh - Nha Trang.
[63] Cải tạo nâng cấp đường sắt trên tuyến Hà Nội - TP. Hồ Chí Minh (đoạn Hà Nội - Vinh, Vinh - Nha Trang) và cải tạo các ga trên các tuyến đường sắt phía Bắc.
[64] Dự án nâng cấp luồng Cái Mép - Thị Vải, luồng hàng hải vào các bến cảng khu vực Nam Nghi Sơn.
[65] Dự án kênh nối Đáy - Ninh Cơ.
[66] Các Dự án: luồng cho tàu biển tải trọng lớn vào sông Hậu, nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo
[67] Dự án nâng tĩnh không các cầu đường bộ cắt qua tuyến đường thủy nội địa quốc gia - giai đoạn 1 (khu vực phía Nam)…
[68] Số liệu được tổng hợp trên cơ sở báo cáo gửi về Bộ Tài chính của các Bộ, ngành, địa phương và theo dõi tại Bộ Tài chính về số lượng nhà, đất của khối trung ương được Bộ Tài chính phê duyệt trong năm 2024.
[69] (1) Nghị định số 71/2024/NĐ-CP ngày 27/6/2014 quy định về giá đất; (2) Nghị định số 88/2024/NĐ-CP ngày 15/7/2024 quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư; (3) Nghị định số 101/2024/NĐ-CP ngày 29/7/2024 quy định về điều tra cơ bản đất đai; đăng ký, cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất và hệ thống thông tin đất đai; (4) Nghị định 102/2024/NĐ-CP ngày 30/7/2024 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai; (5) Nghị định số 123/NĐ-CP ngày 04/10/2024 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai.
[70] (1) Thông tư số 08/2024/TT-BTNMT ngày 31/7/2024 quy định về thống kê, kiểm kê đất đai và lập bản đồ hiện trạng sử dụng đất; (2) Thông tư số 09/2024/TT-BTNMT ngày 31/7/2024 quy định về nội dung, cấu trúc, kiểu thông tin cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai và yêu cầu kỹ thuật đối với phần mềm ứng dụng của Hệ thống thông tin quốc gia về đất đai; (3) Thông tư số 10/2024/TT-BTNMT ngày 31/7/2024 quy định về hồ sơ địa chính, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất; (4) Thông tư số 11/2024/TT-BTNMT ngày 31/7/2024 quy định kỹ thuật điều tra, đánh giá đất đai; kỹ thuật bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất, (5) Thông tư số 12/2024/TT-BTNMT ngày 31/7/2024 quy định kỹ thuật điều tra, đánh giá đất đai; kỹ thuật bảo vệ, cải tạo, phục hồi đất, (6) Thông tư số 20/2024/TT-BTNMT ngày 16/11/2024 bãi bỏ một số văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai thuộc thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành, liên tịch ban hành, (7) Thông tư số 25/2024/TT-BTNMT ngày 26/11/2024 quy định về quy trình xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai, (8) Thông tư số 29/2024/TT-BTNMT ngày 12/12/2024 quy định kỹ thuật về lập, điều chỉnh quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
[71] Quyết định số 227/QĐ-TTg ngày 12/3/2024 của Thủ tướng Chính phủ.
[72] Kết quả thực hiện các chỉ tiêu sử dụng đất cho thấy quy hoạch sử dụng đất đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng đất cho phát triển công nghiệp (210,93 nghìn ha), xây dựng kết cấu hạ tầng (1.754,61 nghìn ha), phát triển đô thị (2.953,85 nghìn ha), từng bước đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và nhu cầu đô thị hóa. Diện tích đất chưa sử dụng đã được khai thác đưa đưa vào sử dụng đáp ứng các mục tiêu phát triển (61,17 nghìn ha). Đóng góp tích cực và hiệu quả trong việc giữ diện tích đất trồng lúa (3.568,48 nghìn ha) nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia; đã hạn chế được tình trạng suy thoái rừng, khôi phục và bảo vệ rừng phòng hộ (5.229,59 nghìn ha), rừng đầu nguồn, rừng đặc dụng (2.455,54 nghìn ha), khoanh nuôi tái sinh rừng, trồng rừng kinh tế, nâng tỷ lệ che phủ của rừng;
[73] 1) Nghị định số 53/2024/NĐ-CP ngày 16/5/2024 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên nước. (2) Nghị định số 54/2024/NĐ-CP ngày 16/5/2024 của Chính phủ quy định việc hành nghề khoan nước dưới đất, kê khai, đăng ký, cấp phép, dịch vụ tài nguyên nước và tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước.
[74] 03 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch tổng hợp lưu vực sông Mã, Hương, Đồng Nai thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (số 20/QĐ-TTg, số 21/QĐ-TTg và số 22/QĐ-TTg ngày 08/1/2024 của Thủ tướng Chính phủ)
[75] Theo quy định tại khoản 1, khoản 5 và khoản 6 Điều 35 Luật Tài nguyên nước năm 2023 và khoản 2 Điều 43 Nghị định số 53/2024/NĐ-CP.
[76] Kế hoạch số 659/KH-BNV ngày 05/02/2024 và Quyết định số 165/QĐ-BNV ngày 08/3/2024.
[77] Báo cáo số 248/BC-CP ngày 18/5/2024 của Chính phủ
[78] Các Nghị quyết số: 108/NQ-CP ngày 10/7/2024, 188/NQ-CP ngày 11/10/2024.
[79] Các Quyết định số: 206/QĐ-TTg ngày 28/02/2024, 498/QĐ-TTg ngày 11/6/2024.
[80] Chỉ thị số 16/CT-TTg ngày 20/5/2024, Công điện số 131/CĐ-TTg ngày 11/12/2024 và nhiều văn bản chỉ đạo
[81] Năm 2024, đã cắt giảm, đơn giản hóa 420 QĐKD; phân cấp giải quyết 191 TTHC, đơn giản hóa 313 TTHC, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, nâng tổng số QĐKD được cắt giảm từ năm 2021 đến nay là 3.195; phân cấp 350 TTHC; đơn giản hóa 898 TTHC, giấy tờ công dân...
[82] Các Nghị định số: 14/2024/NĐ-CP ngày 07/02/2024, 31/2024/NĐ-CP ngày 15/3/2024, 47/2024/NĐ-CP ngày 09/5/2024, 48/2024/NĐ-CP ngày 09/5/2024, 67/2024/NĐ-CP ngày 25/6/2024, 68/2024/NĐ-CP ngày 25/6/2024, 69/2024/NĐ-CP ngày 25/6/2024, 70/2024/NĐ-CP ngày 25/6/2024, 82/2024/NĐ-CP ngày 10/7/2024, 137/2024/NĐ-CP ngày 23/10/2024.
[83] Các Quyết định số: 36/QĐ-TTg ngày 11/01/2024, 142/QĐ-TTg ngày 02/02/2024, 805/QĐ-TTg ngày 07/8/2024, 1012/QĐ-TTg ngày 20/9/2024, 1087/QĐ-TTg ngày 02/10/20247 1132/QĐ-TTg ngày 09/10/2024, 1236/QĐ-TTg ngày 22/10/2024, 1238/QĐ-TTg ngày 22/10/2024, 256/QĐ-TTg ngày 29/3/2024, 715/QĐ-TTg ngày 26/7/2024, 1069/QĐ-TTg ngày 01/10/2024, 1437/QĐ-TTg ngày 20/11/2024.
[84] Các Chỉ thị số: 32/CT-TTg ngày 04/9/2024, 34/CT-TTg ngày 16/9/2024
[85] Ban hành 02 Quyết định, 01 Chỉ thị, 01 Công điện
[86] - CSDL quốc gia về dân cư đã kết nối, chia sẻ dữ liệu với 18 bộ, ngành, 63 địa phương, 04 DNNN; cấp trên 86 triệu thẻ Căn cước công dân gắn chip; kích hoạt gần 54 triệu tài khoản; tiếp nhận hơn 1,5 tỷ yêu cầu xác thực thông tin; 63/63 địa phương đã triển khai đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử trực tuyến và kết nối liên thông dữ liệu giữa Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp tỉnh với Hệ thống đăng ký, quản lý hộ tịch điện tử của Bộ Tư pháp; đã, đang triển khai xây dựng CSDL đất đai quốc gia (có CSDL của 450/705 huyện); CSDL quốc gia về đăng ký doanh nghiệp lưu trữ dữ liệu gần 1,9 triệu doanh nghiệp (900 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động), gồm DNNN, doanh nghiệp trong nước, FDI, tổ chức tín dụng, công ty chứng khoán
- Trục liên thông văn bản quốc gia: Văn bản điện tử gửi, nhận trên Hệ thống năm 2024 là trên 11 triệu văn bản: lũy kế đến nay là hơn 44,5 triệu văn bản được gửi, nhận trên Hệ thống.
- Cổng Dịch vụ công quốc gia: Có hơn 13 triệu tài khoản đăng ký; hơn 116 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; hơn 30,6 triệu hồ sơ trực tuyến thực hiện từ Cổng; hơn 17 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến với số tiền hơn 10 nghìn tỷ đồng. Đã kết nối, tích hợp với 150 hệ thống thông tin, CSDL của các cơ quan, đơn vị phục vụ xác thực định danh, đăng nhập một lần và giải quyết TTHC, cung cấp DVC, đã công khai, đồng bộ thông tin 6.325 TTHC trên CSDL quốc gia về TTHC với các Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh; tích hợp, cung cấp gần 4,5 nghìn DVCTT, hơn 70%; hơn 382 triệu hồ sơ đồng bộ; 65,2 triệu hồ sơ trực tuyến từ Cổng; hơn 24,4 triệu giao dịch thanh toán trực tuyến thành công với số tiền hơn 19.252 tỷ đồng.
- Hệ thống thông tin phục vụ hợp và xử lý công việc của Chính phủ (E-Cabinet): Đã phục vụ 23 phiên họp, xử lý 650 Phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ, thay thế hơn 250,6 nghìn hồ sơ, tài liệu giấy. Lũy kế đến nay, Hệ thống đã phục vụ 111 hội nghị, phiên họp Chính phủ, thực hiện xử lý 2.651 phiếu lấy ý kiến thành viên Chính phủ, thay thế khoảng 950,5 nghìn hồ sơ, tài liệu giấy.
- Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia, Trung tâm thông tin chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ: Có 69/179 chế độ báo cáo được tích hợp hoặc nhập liệu trực tiếp trên Hệ thống. Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã kết nối, liên thông với các hệ thống thông tin, CSDL quốc gia, chuyên ngành của 15 bộ, cơ quan, tập đoàn, tổng công ty nhà nước và 63 địa phương để cung cấp thông tin, dữ liệu với 38 chỉ tiêu thông tin trực tuyến; hình thành 04 bộ chỉ số điều hành, thống kê, theo dõi, giám sát KTXH địa phương.
- Tiếp tục vận hành Bộ chỉ số chỉ đạo, điều hành và đánh giá chất lượng phục vụ người dân, doanh nghiệp, giúp kiểm soát thực thi, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính và trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước trong giải quyết TTHC.
[87] Trình Chính phủ ban hành Nghị định số 29/2024/NĐ-CP ngày 06/3/2024 quy định tiêu chuẩn chức danh công chức lãnh đạo, quản lý trong cơ quan hành chính nhà nước; Nghị định số 99/2024/NĐ-CP ngày 26/7/2024 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 83/2022/NĐ-CP ngày 18/10/2022 quy định về nghỉ hưu ở tuổi cao hơn đối với cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý; Nghị định số 116/2024/NĐ-CP ngày 17/9/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 138/2020/NĐ-CP ngày 27/11/2020 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; dự thảo Nghị định về chính sách thu hút và trọng dụng người có tài năng vào cơ quan nhà nước và ĐVSNCL; dự thảo Nghị định quy định về chế độ, chính sách đối với chuyên gia cao cấp; Nghị định thay thế Nghị định số 25/2015/NĐ-CP ngày 09/3/2015 quy định chế độ, chính sách đối với cán bộ không đủ điều kiện về tuổi tái cử, tái bổ nhiệm giữ các chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội.
Bộ trưởng Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 04/2024/TT-BNV ngày 27/6/2024 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 13/2022/TT-BNV ngày 31/12/2022 hướng dẫn việc xác định cơ cấu ngạch công chức; Thông tư số 05/2024/TT-BNV ngày 27/6/2024 quy định tiêu chuẩn, điều kiện xét thăng hạng lên hạng II và lên hạng I đối với viên chức hành chính, viên chức văn thư, viên chức lưu trữ; xếp lương đối với người được tuyển dụng, tiếp nhận vào viên chức...
[88] Nghị quyết số 66/NQ-CP ngày 09/5/2024.
[89] Các Nghị định số: 04/2024/NĐ-CP ngày 12/01/2024, 45/2024/NĐ-CP ngày 26/4/2024.
[90] Gồm: EVN, SCIC, VNPT, Tổng Công ty Đường sắt Việt Nam
[91] Như: EVN, ACV, Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, VNA, BIDV, VCB...
[92] Các Nghị định số: 04/2024/NĐ-CP, 21/2024/NĐ-CP ngày 23/02/2024, 89/2024/NĐ-CP, 97/2024/NĐ-CP
[93] Các Chỉ thị số: 07/CT-TTg ngày 22/02/2024, 33/CT-TTg ngày 10/9/2024, Công điện số 103/CĐ-TTg ngày 10/7/2024
[94] Các Quyết định: 345/QĐ-TTg ngày 26/4/2024, 488/QĐ-TTg ngày 10/6/2024, 1019/QĐ-TTg ngày 23/9/2024.
[95] Quyết định số 1250/QĐ-TTg ngày 23/10/2024, 1568/QĐ-TTg ngày 12/12/2024.
[96] Chỉ thị số 08/CT-TTg ngày 23/02/2024, Công điện số 06/CĐ-TTg ngày 15/01/2024
[97] Quyết định số 509/QĐ-TTg ngày 13/6/2024
[98] Diễn đàn Du lịch Mê Công 2024; chương trình giới thiệu du lịch Việt Nam tại Đức, Pháp, Ý, Nga, Úc, Niu-di- lân, Hoa Kỳ; Lễ hội xúc tiến du lịch và hợp tác văn hóa Việt Nam tại Hàn Quốc...
[99] Năm 2024, khách du lịch quốc tế đến Việt Nam ước đạt trên 17,5 triệu lượt, tăng 38,9%; tổng thu từ du lịch ước đạt 840 nghìn tỷ đồng, tăng 23,8% so với cùng kỳ.
- 1Công văn 895/BTC-PC về xây dựng và thực hiện Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2025 do Bộ Tài chính ban hành
- 2Quyết định 130/QĐ-BXD về Chương trình tổng thể thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2025 của Bộ Xây dựng
- 3Quyết định 73/QĐ-BNV về Chương trình thực hành tiết kiệm, chống lãng phí của Bộ Nội vụ năm 2025
Báo cáo 218/BC-CP năm 2025 về Kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong năm 2024 do Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 218/BC-CP
- Loại văn bản: Báo cáo
- Ngày ban hành: 17/04/2025
- Nơi ban hành: Chính phủ
- Người ký: Nguyễn Văn Thắng
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 17/04/2025
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra