Hệ thống pháp luật

CHÍNH PHỦ
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 128/BC-CP

Hà Nội, ngày 19 tháng 4 năm 2021

 

BÁO CÁO

TỔNG KẾT CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011 - 2020 VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã xác định cải cách hành chính là một trong những khâu đột phá trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước giai đoạn 2011 - 2020. Để tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo các chủ trương, nghị quyết của Đảng, trên cơ sở tổng kết những kết quả đạt được, nhận định thẳng thắn tồn tại, hạn chế của Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2010, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 08 tháng 11 năm 2011 về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 (gọi tắt là Chương trình tổng thể).

Quá trình thực hiện cải cách hành chính thời gian qua, gắn với triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước ta. Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ và Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ (Ban Chỉ đạo); các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành tổng kết thực hiện Chương trình tổng thể nhằm đánh giá những kết quả đạt được, đồng thời, chỉ ra những tồn tại, yếu kém, nguyên nhân và bài học kinh nghiệm trong quá trình tổ chức thực hiện công tác cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030. Trên cơ sở tổng hợp báo cáo của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi tắt là các bộ, ngành) và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi tắt là các tỉnh), Chính phủ báo cáo tình hình, kết quả triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 như sau:

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011 - 2020

A. TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI

I. CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH

Sau khi Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 được ban hành, các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới chính quyền địa phương các cấp đã triển khai thực hiện nghiêm túc theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hàng năm, Chính phủ, Ban Chỉ đạo đã đề ra các chương trình, kế hoạch cải cách hành chính mang tính toàn diện, đồng bộ và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng, triển khai kế hoạch cải cách hành chính một cách thiết thực, cụ thể, phù hợp với Chương trình tổng thể và thực tiễn của các bộ, ngành, các tỉnh. Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều văn bản chỉ đạo, quán triệt các bộ, ngành, địa phương xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, là giải pháp quan trọng để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Việc kiện toàn Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ tại Quyết định số 442/QĐ-TTg ngày 28 tháng 3 năm 2014 của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Nội vụ là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo đã tăng cường kết nối, phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong triển khai thực hiện công tác cải cách hành chính. Ban Chỉ đạo đã kịp thời giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc triển khai các nhiệm vụ trọng tâm trong cải cách hành chính; tăng cường công tác kiểm tra, theo dõi, đánh giá, xây dựng, nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong công tác cải cách hành chính.

Bộ Nội vụ, cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo đã tăng cường công tác tham mưu, xây dựng chương trình, kế hoạch cải cách hành chính, ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc các bộ, ngành, địa phương tổ chức thực hiện cải cách hành chính một cách đồng bộ, thống nhất; đồng thời, ban hành và tổ chức thực hiện một số công cụ mới để theo dõi, đánh giá công tác cải cách hành chính của các bộ, ngành và địa phương, như Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) được Bộ Nội vụ triển khai đánh giá từ năm 2012 đến nay, đã có sự lan tỏa trong hệ thống, tạo chuyển biến tích cực trong tổ chức triển khai cải cách hành chính tại các bộ, ngành, địa phương. Đến nay, trên cơ sở Đề án của Bộ Nội vụ, đã có trên 50 tỉnh, thành phố đã ban hành Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá kết quả cải cách hành chính hàng năm của các sở, ngành, địa phương; có 4 bộ đã ban hành Bộ chỉ số theo dõi, đánh giá kết quả cải cách hành chính của các cơ quan, đơn vị trực thuộc; qua đó tạo thành hệ thống đánh giá đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước (Chỉ số SIPAS) đã được Bộ Nội vụ triển khai thực hiện trên phạm vi cả nước từ năm 2017. Trên cơ sở đó, đến nay đã có trên 40 tỉnh, thành phố và một số bộ, ngành đã tiến hành khảo sát sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với các dịch vụ hành chính công, dịch vụ sự nghiệp công thuộc phạm vi quản lý. Bộ Y tế đã ban hành và triển khai Đề án đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế công lập; tổ chức thực hiện đo lường sự hài lòng thường xuyên tại tất cả các bệnh viện công lập trên toàn quốc từ bệnh viện tuyến huyện trở lên; kết quả mức độ hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế đạt mục tiêu của Chính phủ giao với kết quả trung bình trên 85% vào năm 2020. Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành và triển khai Đề án đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục công lập. Từ năm 2015 đến nay, đã có hơn 23.000 dịch vụ đã được khảo sát, đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức tại 57/63 tỉnh, thành phố, với tổng số hơn 1,2 triệu mẫu phiếu khảo sát. Bộ Tư pháp đã ban hành Quyết định số 2177/QĐ-BTP ngày 26 tháng 10 năm 2020 về Đề án đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp.

Ban Chỉ đạo đã thường xuyên chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn các bộ, ngành, địa phương thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính được giao, bảo đảm tiến độ theo quy định của Chính phủ; đã tiếp nhận các phản ánh, kiến nghị và trực tiếp xử lý hoặc kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý nhằm kịp thời tháo gỡ những rào cản, vướng mắc trong triển khai nhiệm vụ cải cách hành chính tại các bộ, ngành, địa phương; đã tổng hợp những mô hình, sáng kiến về cải cách hành chính để nghiên cứu, thẩm định, trình cấp có thẩm quyền, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ của cải cách hành chính tới cộng đồng xã hội.

Các bộ, ngành, địa phương đã ban hành một số lượng lớn các văn bản chỉ đạo, điều hành về cải cách hành chính. Trung bình mỗi năm các bộ, ngành đã ban hành khoảng 1.846 văn bản; các tỉnh, thành phố ban hành khoảng 1.916 văn bản (Biểu đồ 1). Việc xây dựng và ban hành Kế hoạch cải cách hành chính hàng năm của các bộ, ngành và địa phương đã đi vào nề nếp, có chất lượng hơn.

Biểu đồ 1: Số lượng văn bản chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính

Trong quá trình triển khai thực hiện Chương trình tổng thể, nhiều bộ, ngành và địa phương đã có những mô hình, sáng kiến mới được nghiên cứu, áp dụng có hiệu quả. Từ năm 2015 đến nay, các bộ, ngành đã có khoảng 461 mô hình, sáng kiến cải cách hành chính; các tỉnh có khoảng 6.124 mô hình, sáng kiến cải cách hành chính, trung bình mỗi năm, mỗi tỉnh có hơn 16 mô hình, sáng kiến. Một số mô hình tốt, như: Bộ Thông tin và Truyền thông triển khai thực hiện xây dựng và ban hành Chỉ số KPIs lĩnh vực quản lý và Chỉ số KPIs đánh giá hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của cán bộ, công chức thuộc bộ; Bộ Y tế đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong việc kết nối các nhà thuốc tới Bộ Y tế, thông qua đó có thể quản lý chặt chẽ về chất lượng thuốc, giá thuốc và sử dụng thuốc an toàn, hợp lý; Bộ Công Thương xây dựng và đưa vào sử dụng phần mềm trực tuyến quản lý thông tin khoa học công nghệ; Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác chỉ đạo điều hành của lãnh đạo Tổng cục Thống kê; xây dựng quy trình theo dõi việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính tại cơ quan bộ; Bộ Xây dựng nghiên cứu, đưa vào sử dụng phần mềm quản lý năng lực hoạt động xây dựng, áp dụng rộng rãi trên 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tại các tỉnh có một số điển hình, như: Mô hình Văn phòng Phát triển kinh tế tỉnh Ninh Thuận; mô hình chuyển giao dịch vụ hành chính công sang Bưu điện của tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Hà Tĩnh…; giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng, khai thác thông tin trong giao dịch điện tử của Đảng ủy các xã, phường, thị trấn trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất công nghiệp và kinh doanh thương mại trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn; Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả của Ủy ban nhân dân (UBND) Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Trung tâm Giám sát, điều hành đô thị thông minh tỉnh Thừa Thiên Huế; mô hình Tổng đài dịch vụ công qua đầu số 1022 của một số địa phương, như: Đà Nẵng, Đồng Nai, Bình Dương, Đồng Tháp, Thành phố Hồ Chí Minh... Nhiều tỉnh, thành phố cũng đã có các sáng kiến, như: Nhắn tin thông báo cho người dân về kết quả giải quyết thủ tục hành chính, ngày nhận chế độ chính sách, quy định về thủ tục hành chính; xây dựng kênh tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức qua mạng xã hội (Zalo, Facebook, Youtube); giải quyết thủ tục hành chính lưu động ngày Thứ bảy vì dân; mô hình Hẹn giờ hướng dẫn thực hiện các thủ tục hành chính tại nhà người dân; mô hình “cà phê doanh nhân”… Nhìn chung, đa số các mô hình, sáng kiến cải cách hành chính đã được triển khai, nhân rộng trong phạm vi của từng tỉnh, ngoài ra, cũng có nhiều mô hình, sáng kiến đã được các tỉnh tham khảo, áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương mình.

II. KIỂM TRA CÔNG TÁC CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

Chính phủ, Ban Chỉ đạo đã tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện các nội dung, nhiệm vụ cải cách hành chính tại các bộ, ngành, địa phương và các cơ quan có liên quan. Từ năm 2016 đến nay, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ đã kiểm tra cải cách hành chính hoặc kết hợp nội dung cải cách hành chính tại 3 bộ, 18 tỉnh; Bộ trưởng Bộ Nội vụ - Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo đã kiểm tra cải cách hành chính, kiểm tra công vụ tại 11 bộ, 22 tỉnh; Thứ trưởng Bộ Nội vụ - Phó Trưởng ban Chỉ đạo kiểm tra cải cách hành chính tại 7 bộ, 12 tỉnh. Bộ Nội vụ và các thành viên Ban Chỉ đạo tại một số bộ, ngành cũng tổ chức các đoàn kiểm tra cải cách hành chính theo phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình.

Từ năm 2011 đến tháng 3 năm 2020, các bộ, ngành đã kiểm tra khoảng 3.484 cơ quan, đơn vị, trung bình 348 cơ quan, đơn vị một năm. Trong đó, năm 2014, các bộ, ngành đã kiểm tra với số lượng các cơ quan, đơn vị lớn nhất là 466 cơ quan, đơn vị. Tại các địa phương, đã có hơn 19.800 cơ quan, đơn vị được kiểm tra trong cả giai đoạn 2011 - 2020. Giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2019, số lượng các cơ quan, đơn vị được kiểm tra cũng tăng lên qua từng năm, trong đó, năm 2019 có số lượng đơn vị được kiểm tra nhiều nhất với số lượng 2.950 (Biểu đồ 2). Công tác kiểm tra đã có tác động tích cực, tạo sự chuyển biến trong nhận thức, hành động, kỷ luật, kỷ cương của người đứng đầu, đội ngũ công chức, viên chức trong triển khai cải cách hành chính của các bộ, ngành, địa phương và từng cơ quan, đơn vị trong hệ thống hành chính nhà nước. Nhiều vấn đề khó khăn, vướng mắc trong cải cách hành chính đã được xử lý kịp thời sau kiểm tra.

Biểu đồ 2: Số lượng cơ quan, đơn vị được kiểm tra CCHC

III. THÔNG TIN, TUYÊN TRUYỀN

Công tác phổ biến, quán triệt Chương trình tổng thể đã được các bộ, ngành và địa phương triển khai thực hiện với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, như tổ chức học tập Chương trình tổng thể, thi tìm hiểu các nội dung của Chương trình tổng thể, trao đổi trong các buổi sinh hoạt chi bộ, giao ban nghiệp vụ chuyên môn; đưa nội dung Chương trình tổng thể vào đề thi tuyển dụng, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức, góp phần thống nhất, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của đội ngũ công chức, viên chức đối với việc triển khai các nhiệm vụ cải cách hành chính.

Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Thông tấn xã Việt Nam đã tích cực giúp Chính phủ, Ban Chỉ đạo cải cách hành chính của Chính phủ thực hiện công tác thông tin, tuyên truyền về Chương trình tổng thể. Chuyên mục cải cách hành chính của Đài Truyền hình Việt Nam đã nhận được sự quan tâm theo dõi, góp ý của xã hội, người dân và các cơ quan nhà nước.

Công tác thông tin, tuyên truyền cải cách hành chính đã được các bộ, ngành và địa phương quan tâm thực hiện với nhiều nội dung, hình thức phong phú, thiết thực, như: Tổ chức các cuộc thi, diễn đàn, hội nghị tập huấn chuyên đề cải cách hành chính, hội nghị trực tuyến; tuyên truyền thông qua các loại hình báo chí và các hình thức phổ biến khác đã giúp cán bộ, công chức, viên chức, người dân và doanh nghiệp nhận thức được mục đích, ý nghĩa, nội dung của Chương trình tổng thể để cùng tham gia thực hiện, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm, những cách làm hay để phát huy hiệu quả của công tác cải cách hành chính. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến 2015, công tác tuyên truyền cải cách hành chính tại các bộ, ngành đạt trên 2.800 đợt, địa phương đạt 4.100 đợt. Giai đoạn 2015 - 2020, các bộ, ngành đã tổ chức khoảng 391 số lớp tập huấn chuyên đề cải cách hành chính. Các địa phương cũng đã tổ chức khoảng hơn 1.580 lớp tập huấn chuyên đề cải cách hành chính; phát hành hơn 35.800 bản tin chuyên đề cải cách hành chính trên sóng Đài Phát thanh - Truyền hình.

IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CÔNG TÁC TRIỂN KHAI

1. Mặt tích cực đạt được

- Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương đã tập trung chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính, tạo động lực cải cách mạnh mẽ và lan tỏa trong toàn hệ thống, tạo được niềm tin cho xã hội, người dân, doanh nghiệp. Các thể chế, văn bản pháp luật, văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ thể hiện quyết tâm của việc đổi mới mạnh mẽ công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính, bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ, đồng bộ giữa cải cách hành chính với xây dựng Chính phủ điện tử và kiểm soát thủ tục hành chính.

- Từ năm 2012 đến nay, việc đổi mới công tác theo dõi, đánh giá cải cách hành chính dựa trên kết quả và tác động của cải cách hành chính đã được triển khai một cách hiệu quả, nâng cao chất lượng công tác chỉ đạo, điều hành, quản lý cải cách hành chính của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương. Việc công bố Chỉ số cải cách hành chính (PAR INDEX) của các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được tiến hành hàng năm, trở thành một công cụ tốt trong quản lý cải cách hành chính, được nhân rộng trong hệ thống cơ quan hành chính các cấp. Việc khảo sát, đánh giá sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước và công bố Chỉ số hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính hàng năm (SIPAS) đã trở thành thước đo đánh giá khách quan chất lượng phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

2. Tồn tại, hạn chế

- Chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính vẫn chưa được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục ở một số bộ, ngành và một số địa phương. Một số bộ, ngành, địa phương triển khai còn hình thức, không hiệu quả.

- Công tác kiểm tra cải cách hành chính nhiều lúc chưa hiệu quả, còn hình thức. Việc thông tin, tuyên truyền cải cách hành chính ở một số bộ, ngành, một số địa phương chưa thật sự tạo ra sức lan tỏa tới người dân, doanh nghiệp, tổ chức, cộng đồng xã hội nhận thức về cải cách hành chính, kết quả, tác động của cải cách hành chính. Việc nhân rộng những mô hình, sáng kiến, cách làm hay về cải cách hành chính còn hạn chế.

B. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CÁC NỘI DUNG THEO CHƯƠNG TRÌNH TỔNG THỂ

I. CẢI CÁCH THỂ CHẾ

1. Kết quả chủ yếu đã đạt được

a) Đánh giá chung về xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013

Công tác xây dựng và thi hành pháp luật, đặc biệt là những luật, pháp lệnh triển khai thi hành Hiến pháp năm 2013 được các cơ quan nhà nước trong cả hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương quan tâm, chỉ đạo sát sao. Sau hơn 05 năm triển khai thi hành Hiến pháp, trong số 90 luật, pháp lệnh được liệt kê tại Danh mục, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 70 luật, pháp lệnh, trong đó có các đạo luật mang tính nền tảng, rường cột của hệ thống pháp luật([1]); còn 20 dự án luật, pháp lệnh nằm trong Danh mục nhưng chưa được ban hành([2]). Kết quả xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 cùng với kết quả thực hiện những chủ trương của Đảng đối với công tác hoàn thiện pháp luật thời gian qua là nền tảng, một trong những trọng tâm của cải cách thể chế tại Chương trình tổng thể.

b) Về xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách pháp luật thuộc phạm vi quản lý nhà nước của các bộ, ngành và địa phương

Trong giai đoạn vừa qua, việc lập Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh có nhiều đổi mới. Từ việc xây dựng Chương trình nhiệm kỳ 05 năm (theo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2008) đến xây dựng Chương trình hằng năm (theo Luật Ban hành VBQPPL năm 2015), tạo sự linh hoạt, tăng cường tính thích ứng nhanh của chính sách với các vấn đề kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, Luật Ban hành VBQPPL năm 2015 được ban hành đã có nhiều điểm mới cơ bản, bổ sung nhiều quy định nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch trong xây dựng, ban hành VBQPPL, về trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền trong xây dựng, ban hành VBQPPL theo từng nhóm đối tượng... đã có ý nghĩa lớn trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cải cách thể chế([3]).

Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương đã thường xuyên quan tâm, tập trung chỉ đạo xây dựng các thể chế thuộc phạm vi quản lý, đã chú trọng việc xây dựng các dự thảo luật, pháp lệnh trình Quốc hội và ban hành một số lượng lớn nghị định hướng dẫn thi hành luật, pháp lệnh. Tổng số VBQPPL mà các bộ đã ban hành từ năm 2012 đến nay là hơn 8.600 văn bản (Biểu đồ 3). Một loạt các thể chế quan trọng được các bộ, ngành chủ trì nghiên cứu, xây dựng, trình các cơ quan có thẩm quyền thẩm định, thông qua, đã tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thể chế về các lĩnh vực, như: Kinh tế; dân sự; sở hữu; quyền tự do kinh doanh; nông nghiệp, nông thôn; tài nguyên và môi trường; tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức, viên chức([4]) và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đồng thời, mỗi năm các bộ đã trình Chính phủ ban hành hơn 140 nghị định hướng dẫn, trên cơ sở đó, đã tạo lập khuôn khổ thể chế, pháp luật cơ bản cho sự vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ máy tổ chức nhà nước và hội nhập quốc tế. Số lượng VBQPPL của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ở giai đoạn 2016 - 2020 tăng so với giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy trách nhiệm, vai trò của các tư lệnh ngành được đề cao theo sự phân cấp trong quản lý, chỉ đạo, điều hành đối với ngành, lĩnh vực([5]).

Biểu đồ 3: Kết quả đạt được của các bộ, ngành tại một số

nội dung cải cách thể chế

Thể chế về tổ chức bộ máy của hệ thống hành chính tiếp tục được hoàn thiện, đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ quan trong hệ thống hành chính được phân định rõ ràng, loại bỏ phần lớn sự chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ; phân định rõ hoạt động của cơ quan hành chính với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp thực hiện dịch vụ công. Thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước với người dân tiếp tục được quan tâm xây dựng, hoàn thiện và triển khai thực hiện trong thực tế, bảo đảm quyền, nghĩa vụ của người dân trong việc tham gia xây dựng bộ máy nhà nước. Thể chế hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, việc ghi nhận, đề cao các quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân tại các đạo luật trên các lĩnh vực từ dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được tăng cường và củng cố mạnh mẽ nhất từ trước tới nay([6]), cơ bản phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Chính quyền địa phương các cấp đã chú trọng việc ban hành và tổ chức thực hiện các VBQPPL theo thẩm quyền, mỗi năm ban hành hàng ngàn quyết định để cụ thể hóa các văn bản của trung ương cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, cụ thể, từ năm 2011 đến tháng 5 năm 2020, các tỉnh đã ban hành khoảng 385.826 VBQPPL (Biểu đồ 4). Tuy nhiên, so sánh giai đoạn 2016 - 2020 với giai đoạn 2011 - 2015 cho thấy, số lượng văn bản của chính quyền địa phương giảm, đặc biệt là ở cấp huyện và cấp xã khi mà các cấp này tập trung vào việc triển khai tổ chức thi hành pháp luật([7]).

Biểu đồ 4: Kết quả đạt được của các tỉnh, thành phố tại một số nội dung cải cách thể chế

Hằng năm, các bộ, ngành và địa phương đã ban hành và tổ chức triển khai Kế hoạch theo dõi tình hình thi hành pháp luật trong lĩnh vực trọng tâm, liên ngành và lĩnh vực trọng tâm của bộ, ngành và địa phương. Công tác rà soát, kiểm tra VBQPPL theo thẩm quyền cũng được chú trọng thực hiện. Giai đoạn 2011 - 2020, đã có khoảng hơn 12.172 VBQPPL tại các bộ, ngành và 83.758 VBQPPL tại các tỉnh được đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát. Trong khi đó, số lượng VBQPPL đã được xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý sau rà soát tại các bộ là 7.249 văn bản, tại các tỉnh là 54.012 văn bản.

Từ năm 2011 đến ngày 31 tháng 5 năm 2020, đã kiểm tra 61.447 VBQPPL của các bộ, ngành và 819.646 VBQPPL của các tỉnh. Thông qua kiểm tra, đã phát hiện tại các bộ, ngành: Số VBQPPL trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền là 1.669 VBQPPL, chiếm 1,67% so với tổng số văn bản được kiểm tra; số văn bản không phải là VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật là 374 văn bản, chiếm 0,61%. Trong khi đó, đã phát hiện tại các tỉnh: Số VBQPPL trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền là 7.841 VBQPPL, chiếm 0,96%/tổng số văn bản được kiểm tra; số văn bản không phải là VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật là 15.583 văn bản, chiếm 1,90%. Số lượng VBQPPL trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền tại các bộ, ngành đã được xử lý là 4.054 văn bản và tại các tỉnh đã được xử lý là 40.169 văn bản (Biểu đồ 3, Biểu đồ 4).

Công tác phổ biến, giáo dục pháp luật được đổi mới với nhiều hình thức đa dạng đã gắn kết chặt chẽ hơn với công tác xây dựng, thi hành và bảo vệ pháp luật và thực hiện chức năng quản lý nhà nước của bộ, ngành, địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách pháp luật hàng năm được các bộ, ngành, địa phương triển khai theo kế hoạch, với trọng tâm tập trung vào những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý nhà nước, liên quan trực tiếp đến người dân và doanh nghiệp.

Có thể nói, kết quả xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật trên cơ sở Hiến pháp năm 2013 đã góp phần quan trọng vào việc thực hiện 05 mục tiêu của Chương trình tổng thể, trong đó có việc hoàn thiện hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới cơ sở thông suốt, trong sạch, vững mạnh, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, tăng tính dân chủ và pháp quyền trong hoạt động điều hành của Chính phủ và của các cơ quan hành chính nhà nước; bảo đảm thực hiện trên thực tế quyền dân chủ của nhân dân, bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, của đất nước. Kết quả công tác xây dựng thể chế đã có tác động trực tiếp, tích cực và sâu rộng tới mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước, tăng cường quốc phòng, an ninh, hội nhập quốc tế và góp phần bảo vệ, bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Hệ thống thể chế, pháp luật cũng đã đóng góp không nhỏ vào nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, giải phóng nguồn lực xã hội, phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng cho nền kinh tế, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất. Thể chế, pháp luật cũng đã đóng góp quan trọng cho xây dựng và hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong 10 năm vừa qua.

2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- Chất lượng một số đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh, dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh chưa cao; vẫn còn tình trạng các dự án, dự thảo văn bản sau khi đã đưa vào chương trình nhưng phải xin lùi, rút, điều chỉnh. Chất lượng văn bản, thể chế một số lĩnh vực còn hạn chế, ban hành nhưng không triển khai được hoặc khó triển khai, chồng chéo với các văn bản pháp luật khác.

- Trong một số trường hợp, công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về pháp luật còn chưa theo kịp yêu cầu của thực tiễn và nhiệm vụ quản lý nhà nước; một số bất cập của pháp luật được phát hiện, nhưng chậm sửa đổi, bổ sung.

- Việc ban hành văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, như tình trạng nợ ban hành văn bản chưa được khắc phục triệt để([8]).

b) Nguyên nhân

- Sự phối hợp giữa các cơ quan trong quy trình xây dựng pháp luật còn hạn chế, dẫn đến phản ứng chính sách đôi khi chưa linh hoạt.

- Tư duy xây dựng pháp luật, tổ chức thi hành pháp luật chưa được đổi mới, nhận thức còn hạn chế, chưa theo kịp với yêu cầu của thực tiễn. Một số cơ quan chưa coi trọng đúng mức việc lấy ý kiến của nhân dân, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách, văn bản, hoặc chưa có phương pháp thực hiện phù hợp.

- Năng lực, trình độ của bộ phận soạn thảo, cán bộ pháp chế, cán bộ làm công tác xây dựng pháp luật còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Hoạt động của Ban soạn thảo, Tổ biên tập còn chưa thực sự hiệu quả, hình thức, còn phó thác cho cơ quan chủ trì soạn thảo. Bộ, ngành, địa phương chưa có Chiến lược dài hạn về phát triển nguồn nhân lực làm công tác xây dựng pháp luật, đặc biệt là chính sách đãi ngộ và sử dụng hiệu quả cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật sau khi đã được đào tạo, bồi dưỡng. Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật tại các bộ, ngành, địa phương thiếu ổn định, chưa thật sự chuyên nghiệp; thiếu về số lượng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của công tác xây dựng pháp luật trong giai đoạn hiện nay.

II. CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

1. Kết quả đạt được

a) Cải cách quy định thủ tục hành chính

Việc triển khai thực thi phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính (TTHC) theo 25 Nghị quyết chuyên đề của Chính phủ được các bộ, ngành thực hiện đã cơ bản hoàn thành với việc đơn giản hóa 4.527/4.723 TTHC, đạt tỷ lệ 95,8% (tính đến tháng 12/2016). Việc cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh và hoạt động kiểm tra chuyên ngành, cắt giảm, đơn giản hóa dòng hàng đạt được nhiều kết quả tích cực([9]). Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP các năm 2016, 2017, 2018, Nghị quyết số 02/NQ-CP năm 2019, 2020 về thực hiện nhiệm vụ giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thể hiện quyết tâm chỉ đạo bãi bỏ các rào cản, quy định điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý, mở rộng khả năng tham gia thị trường, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Tháng 5 năm 2020, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị quyết số 68/NQ-CP về Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020 - 2025 với mục tiêu cắt giảm, đơn giản hóa ít nhất 20% số quy định và cắt giảm ít nhất 20% chi phí tuân thủ quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh. Việc cải cách theo Chương trình này không chỉ là cắt giảm các quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh trong các văn bản đã ban hành mà còn cả các quy định trong dự thảo VBQPPL; đồng thời cải cách mạnh mẽ việc thực hiện TTHC trên môi trường điện tử.

Những quy định về kiểm soát TTHC cơ bản được hoàn thiện([10]). Song song với đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg ngày 05 tháng 7 năm 2013 về việc tổ chức thực hiện Nghị định số 48/2013/NĐ-CP; Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 10 tháng 6 năm 2015 về việc tăng cường trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong công tác cải cách TTHC. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2019 về việc tăng cường xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong giải quyết công việc. Theo đó, yêu cầu siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát cán bộ, công chức, viên chức trong thực thi công vụ; rà soát TTHC theo hướng tinh giản, loại bỏ ngay các thủ tục không cần thiết, rườm rà, khó thực hiện, gây phiền hà, sách nhiễu đối với người dân, doanh nghiệp.

Các nội dung rà soát, đơn giản hóa TTHC, đánh giá tác động các quy định về TTHC, đã được các bộ, ngành và địa phương nghiêm túc thực hiện. Hầu hết các bộ, ngành, địa phương đều ban hành Kế hoạch triển khai công tác kiểm soát TTHC, Kế hoạch rà soát TTHC trong từng năm, trong đó, đã thể hiện việc tích cực thực hiện các nhiệm vụ kiểm soát TTHC từ khâu dự thảo, ban hành cho đến khâu triển khai thực hiện. Đặc biệt, nhiều bộ, địa phương quan tâm rà soát, cắt giảm, đơn giản hóa các quy định TTHC, nhất là trong các ngành, lĩnh vực liên quan trực tiếp đến người dân, doanh nghiệp; kiểm soát chặt chẽ việc ban hành các quy định TTHC mới, đảm bảo đơn giản, rõ quy trình, dễ hiểu, dễ thực hiện.

Về tình hình, kết quả thực hiện Đề án Tổng thể đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013 - 2020 (Đề án 896): Chính phủ đã ban hành 19 nghị quyết chuyên đề về đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân trên các lĩnh vực quản lý để phê duyệt phương án cắt giảm, đơn giản hóa 1.097 thủ tục, với 992 mẫu đơn và 399 tờ khai được quy định tại 332 VBQPPL, trong đó có nhiều phương án có đối tượng tác động lớn như: Bỏ quản lý sổ hộ khẩu bằng giấy với khoảng hơn 18 triệu hộ gia đình được hưởng lợi từ phương án này. Bộ Công an, cơ quan chủ trì Đề án đã chỉ đạo công an các đơn vị, địa phương rà soát, xây dựng phương án đơn giản hóa TTHC, giấy tờ công dân theo Đề án 896 và phối hợp với các bộ, ngành, địa phương để triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án 896. Về cấp số định danh cá nhân, đã mở rộng phạm vi các địa phương trên toàn quốc chính thức triển khai Hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch của Bộ Tư pháp từ 38 tỉnh lên 63 tỉnh, thành phố (tăng 25 địa phương so với năm 2018). Triển khai hệ thống đăng ký và quản lý hộ tịch tại các địa phương và thực hiện cấp số định danh cá nhân cho hơn 1.391.018 trường hợp đăng ký khai sinh năm 2019 tại 680 Phòng Tư pháp cấp huyện và 10.696 UBND cấp xã tại 60 tỉnh, thành phố. Bộ Công an tiếp tục cấp thẻ Căn cước công dân từ đủ 14 tuổi trở lên tại 16 tỉnh, thành phố, từ năm 2012 đến nay đã cấp được 15 triệu trường hợp. Về kết quả thu thập dữ liệu, Bộ Công an đã tiến hành thu thập và scan. Đến ngày 30 tháng 9 năm 2020, Bộ Công an đã thu thập được 83.387.773/87.306.594 (đạt 95,51%) phiếu thu thập thông tin dân cư DC01 và cập nhật được 7.436.291 phiếu cập nhật, chỉnh sửa thông tin dân cư DC02.

b) Cải cách việc tổ chức thực hiện TTHC

Hầu hết TTHC được các bộ, ngành, địa phương từng bước chuẩn hóa, công bố, niêm yết, công khai tại nơi tiếp nhận, giải quyết TTHC, công khai trên Cổng thông tin điện tử của bộ, ngành, địa phương và trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC theo quy định, tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức truy cập tìm hiểu, thực hiện thuận tiện, chính xác.

Cơ chế một cửa, một cửa liên thông, Trung tâm Phục vụ hành chính công và Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả tập trung cấp tỉnh, cấp huyện đã được triển khai ở các địa phương theo các quy định pháp luật([11]) và đạt được những kết quả tích cực, tạo sự chuyển biến rõ nét trong giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp. Triển khai Nghị định số 61/2018/NĐ-CP của Chính phủ về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết thủ tục hành chính, đến nay 100% các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc kiện toàn Bộ phận Một cửa các cấp để giải quyết TTHC, trong đó, 59/63 địa phương thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công cấp tỉnh. Đặc biệt có địa phương đã thực hiện việc giải quyết TTHC theo phương thức “5 tại chỗ” như Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh Quảng Ninh. Nhiều địa phương đã gắn kết chặt chẽ giữa việc thiết lập một cửa “vật lý” và một cửa điện tử để tạo thuận lợi cho người thực hiện như: Hà Nội, Quảng Ninh, Đồng Nai, Cà Mau, Bình Dương…

Về kết quả giải quyết hồ sơ TTHC: Trong năm 2019, các cơ quan hành chính nhà nước các cấp đã tiếp nhận 261.860.415 hồ sơ, đã giải quyết 257.661.527 hồ sơ, đạt 98,4%; số hồ sơ đang xem xét, giải quyết 3.424.588 hồ sơ, trong đó, hồ sơ quá hạn là 784.078 hồ sơ, chiếm 22,9% số hồ sơ đang giải quyết. Các bộ, các tỉnh cũng đã bước đầu triển khai thực hiện quy định việc đánh giá chất lượng giải quyết TTHC theo quy định tại Nghị định số 61/2018/NĐ-CP.

Các nội dung gắn kết đồng bộ giữa cải cách TTHC và xây dựng Chính phủ điện tử cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân, doanh nghiệp tiếp cận với cơ quan hành chính nhà nước. Việc thực hiện cơ chế một cửa quốc gia và kết nối kỹ thuật một cửa ASEAN đối với một số lĩnh vực đã được các bộ, ngành triển khai, đạt được nhiều kết quả tích cực.

Việc triển khai tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả giải quyết TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích theo Quyết định số 45/2016/QĐ-TTg ngày 19 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ cũng đạt được những kết quả tích cực. Năm 2019, cả nước có 14.505.494 lượt hồ sơ, kết quả giải quyết TTHC thực hiện qua dịch vụ BCCI, trong đó, dịch vụ tiếp nhận hồ sơ là 2.175.824 lượt, dịch vụ trả kết quả là 12.329.670 lượt, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho người dân, tổ chức, tạo tiền đề thúc đẩy triển khai cung cấp dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) mức độ 3 và 4.

Trong năm 2019 - 2020, một số hệ thống thông tin nền tảng của Chính phủ điện tử đã được chính thức vận hành (Trục liên thông văn bản quốc gia khai trương ngày 12 tháng 3 năm 2019; Hệ thống thông tin họp và xử lý công việc của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 24 tháng 6 năm 2019; Cổng Dịch vụ công quốc gia khai trương ngày 09 tháng 12 năm 2019; Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia và Trung tâm thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 19 tháng 8 năm 2020). Các nền tảng, hệ thống thông tin trên được đưa vào vận hành giúp tiết kiệm chi phí xã hội ước tính trên 9.900 tỷ đồng/năm và nhận được phản hồi tích cực của xã hội.

c) Về tình hình, kết quả cung cấp DVCTT mức độ 3, 4

Số lượng, chất lượng DVCTT mức độ 3,4 cung cấp cho người dân, doanh nghiệp tại các bộ, ngành, địa phương được nâng cao, với số lượng hồ sơ TTHC được xử lý trực tuyến mức độ 3, 4 ngày càng tăng. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Danh mục dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 thực hiện tại các bộ, ngành, địa phương các năm 2017, 2018, 2019[12] (kết quả chi tiết tại nội dung Hiện đại hóa hành chính).

d) Tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính

Các bộ, ngành và địa phương đã thực hiện tương đối tốt việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính theo quy định. Bên cạnh đó, Hệ thống tiếp nhận, trả lời kiến nghị của doanh nghiệp và người dân trên Cổng Thông tin điện tử Chính phủ tại các địa chỉ: http://doanhnghiep.chinhphu.vn và http://nguoidan.chinhphu.vn; http://pakn.dichvucong.gov.vn trên Cổng Dịch vụ công Quốc gia đã được vận hành và đưa vào khai thác, qua đó giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nắm bắt được các vấn đề phát sinh từ phía người dân và cộng đồng doanh nghiệp để chỉ đạo, giải quyết kịp thời, nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tăng cường kỷ luật kỷ cương hành chính([13]). Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, chỉ tính từ tháng 6 năm 2015 đến hết năm 2016, có hơn 626 cuộc đối thoại của 16 bộ, ngành và hơn 686 cuộc đối thoại của 31 địa phương đã được tổ chức để tiếp nhận hơn 1.530 kiến nghị của người dân, doanh nghiệp. Đây là một việc làm thiết thực, hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng cải cách hành chính, thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, xây dựng nền hành chính phục vụ nhân dân.

Thủ tướng Chính phủ đã kiện toàn Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ do Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ làm Chủ tịch Hội đồng; thành lập các Ban công tác giúp cải thiện các chỉ số môi trường kinh doanh. Tính chung trong cả giai đoạn từ 2016 - 2020, Hội đồng đã chủ trì 42 phiên họp, hội nghị đối thoại, để lắng nghe, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp theo thẩm quyền hoặc báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng xử lý đối với 500 vấn đề, nhóm vấn đề.

đ) Sáng kiến, giải pháp cải cách TTHC

Trong giai đoạn vừa qua, một số sáng kiến cải cách TTHC nổi bật, như: Đề án thực hiện liên thông các TTHC: Đăng ký khai tử, xóa đăng ký thường trú, hưởng chế độ tử tuất/hỗ trợ chi phí mai táng/hưởng mai táng phí([14]); giải pháp ứng dụng công nghệ thông tin (ƯDCNTT) để đơn giản hóa quy định TTHC trong việc cấp, quản lý, sử dụng thẻ Bảo hiểm y tế và quản lý khám chữa bệnh, thanh toán bảo hiểm y tế([15]); chuẩn hóa quy trình, thủ tục kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa thuộc phạm vi quản lý của các bộ, ngành trong triển khai Cơ chế một cửa quốc gia([16])… Một số sáng kiến điển hình về cải cách TTHC của các tỉnh được ghi nhận, như: Mở rộng việc thực hiện mô hình một cửa trong cung ứng dịch vụ công tại các đơn vị sự nghiệp; mô hình hẹn giờ thực hiện TTHC tại nhà người dân; xây dựng và đưa vào vận hành ứng dụng khai thác cơ sở dữ liệu tài nguyên và môi trường trên mạng internet và di động (nền tảng Android và iOS) để thuận lợi cho người dân, tổ chức tra cứu, tiếp cận thông tin; xây dựng phần mềm tra cứu giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất, Quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất; mô hình “phi địa giới hành chính” trong các lĩnh vực đất đai, tư pháp, giao thông vận tải, y tế…

2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- TTHC trên một số lĩnh vực vẫn còn nhiều và rườm rà, phức tạp; vẫn còn có tình trạng một số luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật không thống nhất, có nhiều điểm bất đồng, quy định về TTHC chưa đầy đủ các bộ phận cấu thành, chưa chặt chẽ, gây khó khăn cho cả cơ quan chức năng và người dân, doanh nghiệp khi thực hiện giải quyết TTHC. Việc đánh giá tác động và lấy ý kiến đơn vị kiểm soát TTHC đối với các dự thảo VBQPPL có quy định về TTHC chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc; việc thẩm định quy định TTHC trong một số VBQPPL còn chưa chặt chẽ dẫn đến TTHC trên nhiều lĩnh vực vẫn còn phức tạp và tiếp tục là rào cản trong hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống nhân dân.

- Việc cắt giảm, đơn giản hóa TTHC, điều kiện kinh doanh, cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành chưa triệt để, còn tình trạng “cài cắm”, “biến tướng”, phát sinh thêm TTHC, điều kiện kinh doanh trong các dự thảo VBQPPL, tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, thậm chí trong một số văn bản hành chính.

- Một số bộ, ngành Trung ương còn chậm công bố các nhóm TTHC thực hiện liên thông hoặc công bố không đầy đủ. Tình trạng các cơ quan hành chính nhà nước các cấp không niêm yết công khai các TTHC, hoặc niêm yết các TTHC đã cũ, hết hiệu lực thuộc phạm vi giải quyết của mình. Danh mục TTHC trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về TTHC còn chưa được các bộ, ngành, địa phương đồng bộ đầy đủ trên Trang/Cổng Thông tin điện tử của bộ, cơ quan, địa phương.

- Tình trạng nhũng nhiễu, gây phiền hà của một bộ phận cơ quan hành chính nhà nước, một số cán bộ, công chức trong giải quyết công việc, TTHC cho người dân, doanh nghiệp còn xảy ra, ví dụ như: còn có hiện tượng yêu cầu thêm nhiều giấy tờ không được quy định trong bộ hồ sơ khi giải quyết các TTHC tại một số cơ quan, đơn vị, gây bức xúc cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp. Tình trạng trễ hẹn trong giải quyết và trả kết quả giải quyết hồ sơ vẫn còn phổ biến ở một số lĩnh vực trọng tâm, như: Đất đai, xây dựng, lao động - thương binh và xã hội…

- Tỷ lệ hồ sơ dịch vụ công trực tuyến, giao dịch thanh toán trực tuyến còn thấp so với số lượng hồ sơ trực tiếp và giao dịch thanh toán bằng tiền mặt; kết nối, chia sẻ dữ liệu trong giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công còn yếu; số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp bộ, cấp tỉnh còn lớn (cấp bộ chiếm tới 58% tổng số TTHC); việc xã hội hóa dịch vụ hành chính công đã triển khai ở một số ngành, lĩnh vực (đăng kiểm; công chứng,…) nhưng vẫn còn chậm, thiếu tổng thể.

- Việc liên thông, kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các phần mềm quản lý chuyên ngành của một số bộ, ngành với phần mềm một cửa điện tử của các địa phương còn bất cập, gây khó khăn cho các địa phương trong giải quyết TTHC cho người dân, doanh nghiệp. Một số địa phương công khai số liệu, kết quả giải quyết TTHC trên phần mềm còn chưa đúng so với kết quả kiểm tra thực tế.

b) Nguyên nhân

- Công tác chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện tại nhiều bộ, ngành, địa phương chưa quyết liệt, sát sao; chưa có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước về cải cách TTHC. Công tác tham mưu phục vụ sự chỉ đạo điều hành của đơn vị chuyên trách còn chậm và chưa sát với yêu cầu nhiệm vụ[17]; một số nơi triển khai còn hình thức, đối phó, chưa quyết liệt.

- Nhận thức, tư duy về quản lý hành chính nhà nước trong một bộ phận cán bộ, công chức chậm được đổi mới, chưa thấy được hết ý nghĩa, tầm quan trọng và đòi hỏi cấp bách của cải cách TTHC; chưa xây dựng được cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả đối với đội ngũ công chức thực thi công vụ trong tiếp nhận và giải quyết TTHC trong các lĩnh vực ở từng cấp, từng ngành.

- Nguồn lực để bảo đảm thực thi nhiệm vụ chưa tương ứng với yêu cầu, nhất là về yếu tố con người (nhiều nơi không bố trí đủ biên chế, chế độ đãi ngộ cho những người làm công tác cải cách TTHC chưa được quan tâm đúng mức; việc tổ chức Bộ phận Một cửa hiện nay vẫn còn phân tán, gắn liền với địa giới hành chính; cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu công việc; việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các phần mềm, cơ sở dữ liệu liên quan đến việc giải quyết thủ tục hành chính còn hạn chế, phổ biến nhất là tình trạng các phần mềm chuyên ngành, ngành dọc không kết nối, chia sẻ dữ liệu với Hệ thống thông tin một cửa điện tử và Cổng dịch vụ công của địa phương).

III. CẢI CÁCH TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

1. Kết quả chủ yếu đã đạt được

a) Việc xây dựng, ban hành các quy định về tổ chức bộ máy

Thời gian qua, một loạt chủ trương của Đảng và chính sách của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được đưa ra nhằm đẩy mạnh hơn nữa cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước, đó là: Rà soát chức năng, nhiệm vụ, kiện toàn tổ chức; phân cấp mạnh, giao quyền chủ động cho chính quyền địa phương; tinh giản biên chế, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; thực hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL). Cũng trong giai đoạn này, Quốc hội đã thực hiện công tác giám sát tối cao, với chủ đề là giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2016.

Việc xây dựng và ban hành các văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức các bộ, ngành trung ương về cơ bản khắc phục được những tồn tại, hạn chế của các giai đoạn trước, bổ khuyết những thiếu sót thể chế về tổ chức và bộ máy, bảo đảm bao quát đầy đủ chức năng quản lý nhà nước của Chính phủ, đồng thời phân định rõ phạm vi chức năng quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực giữa các bộ, cơ quan ngang bộ trên cơ sở thực hiện nguyên tắc một việc chỉ do một cơ quan chủ trì, chịu trách nhiệm chính, các cơ quan liên quan có trách nhiệm phối hợp thực hiện.

b) Rà soát vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy

Các bộ, ngành và địa phương đã chủ động thực hiện việc rà soát chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị trực thuộc. Một số địa phương đã báo cáo cấp có thẩm quyền cho phép điều chỉnh hoặc thí điểm điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của một số cơ quan, đơn vị cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương mình([18]). Việc sắp xếp, kiện toàn, từng đợt tăng hoặc giảm tổ chức kể cả tổ chức hành chính và ĐVSNCL ở các bộ, ngành trung ương và chính quyền địa phương các cấp đã được thực hiện có kết quả.

Biểu đồ 5: So sánh số lượng các tổ chức hành chính thuộc bộ, cơ quan ngang bộ qua các giai đoạn

Biểu đồ 6: Biến động tăng/giảm số lượng các tổ chức hành chính thuộc bộ, cơ quan ngang bộ qua các giai đoạn

Biểu đồ 7: So sánh số lượng các tổ chức hành chính cấp tỉnh qua các giai đoạn

Biểu đồ 8: So sánh các tổ chức hành chính cấp huyện qua các giai đoạn

Biểu đồ 9: So sánh số lượng ĐVSNCL của tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương qua các giai đoạn

Thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25 tháng 10 năm 2017, Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” (gọi tắt là Nghị quyết số 18-NQ/TW) đã đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống các văn bản chỉ đạo, triển khai đã được ban hành tương đối đồng bộ, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết đã đề ra([19]). Việc đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW gắn với tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 4 năm 2015 của Bộ Chính trị khóa XI về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã giảm được nhiều đầu mối và giảm đáng kể biên chế của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và bộ máy hành chính nhà nước. Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, so sánh thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2019 với thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2017, các bộ, cơ quan ngang bộ (không tính Bộ Quốc phòng và Bộ Công an([20])): Giảm 12 vụ và tương đương; giảm 10 ĐVSNCL. Về tổ chức hành chính của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (so sánh thời điểm ngày 30 tháng 6 năm 2019 với thời điểm ngày 30 tháng 6 năm 2017): Giảm 05 tổ chức cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; giảm 973 tổ chức cấp phòng; 127 tổ chức cấp chi cục; 1.179 tổ chức cấp phòng thuộc chi cục; ở cấp huyện: Giảm 294 tổ chức cấp cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.

Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương đã được thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XIV, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính ở trung ương và địa phương. Bộ Nội vụ cũng đã ban hành văn bản về việc đăng ký thí điểm hợp nhất các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện; đã tham mưu cho các cấp có thẩm quyền ban hành các văn bản và ban hành văn bản theo thẩm quyền trong việc tổ chức thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã. Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021. Theo đó, có 45 tỉnh, thành phố xây dựng đề án sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021. Bộ Nội vụ đã tham mưu trình Chính phủ để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định và ban hành các nghị quyết sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của 45 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đến tháng 12 năm 2020, đã cơ bản hoàn thành việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021. Ở cấp huyện, đã tiến hành sắp xếp đối với 21 đơn vị hành chính cấp huyện (trong đó: Có 09 đơn vị thuộc diện phải sắp xếp, 03 đơn vị thuộc diện khuyến khích sắp xếp và 09 đơn vị liền kề có liên quan đến sắp xếp), kết quả số lượng đơn vị hành chính cấp huyện giảm là 08 đơn vị. Trong đó: Tỉnh Cao Bằng giảm 03 huyện; thành phố Hồ Chí Minh giảm 02 quận; tỉnh Quảng Ngãi giảm 01 huyện; tỉnh Quảng Ninh giảm 01 huyện; tỉnh Hòa Bình giảm 01 huyện; các tỉnh Yên Bái, Điện Biên có điều chỉnh địa giới để sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện nhưng không làm giảm số lượng đơn vị hành chính cấp huyện.

Đối với cấp xã, đã tiến hành sắp xếp đối với 1.047 đơn vị hành chính cấp xã (trong đó: Có 541 đơn vị thuộc diện phải sắp xếp, 113 đơn vị thuộc diện khuyến khích sắp xếp và 393 đơn vị liền kề có liên quan đến sắp xếp), kết quả giảm 557 đơn vị. Trong đó có những tỉnh giảm nhiều đơn vị hành chính cấp xã, như: Hòa Bình giảm 59 đơn vị, tỷ lệ giảm 28,09%; Cao Bằng giảm 38 đơn vị, tỷ lệ giảm 19,10%; Phú Thọ giảm 52 đơn vị, tỷ lệ giảm 18,77%; Hà Tĩnh giảm 46 đơn vị, tỷ lệ giảm 17,56%; Thanh Hóa giảm 76 đơn vị, tỷ lệ giảm 11,97%; Quảng Trị giảm 16 đơn vị, tỷ lệ giảm 11,35%; Lạng Sơn giảm 26 đơn vị, tỷ lệ giảm 11,50%; Hải Dương giảm 29 đơn vị, tỷ lệ giảm 10,98%,...

Trong giai đoạn này, UBND các cấp và cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được sắp xếp, kiện toàn, cơ bản theo đúng quy định, bước đầu đã tính đến đặc điểm của đơn vị hành chính ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp huyện về cơ bản được giữ ổn định tương tự nhiệm kỳ 2007 - 2011, thực hiện theo đúng các nghị định của Chính phủ([21]), không nhất thiết trung ương có tổ chức, cơ quan nào thì địa phương có tổ chức, cơ quan đó.

Về biên chế công chức (tính đến ngày 31 tháng 3 năm 2020): Các bộ, ngành trung ương giảm 10.284 người so với số giao năm 2015; các địa phương giảm 13.612 người so với số giao năm 2015.

Quy chế làm việc của Chính phủ qua các nhiệm kỳ thường xuyên được cập nhật, sửa đổi, bổ sung các quy định cần thiết cho phù hợp với thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả chỉ đạo điều hành, hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ([22]). Đồng thời, góp phần đổi mới phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương tới chính quyền địa phương các cấp.

c) Đánh giá mô hình tổ chức và chất lượng hoạt động của chính quyền địa phương

Nhìn chung, mô hình tổ chức cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện được thực hiện đúng theo các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Bộ máy cơ bản đảm bảo tinh gọn; hiệu lực, hiệu quả hoạt động được nâng cao gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Hoạt động của UBND luôn được thực hiện nghiêm túc theo quy chế làm việc được xây dựng từ đầu nhiệm kỳ. Chất lượng, hiệu quả trong điều hành, quản lý hành chính nhà nước được nâng lên. Mối quan hệ công tác giữa các sở, ban, ngành tỉnh với UBND cấp huyện và cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện; và với UBND cấp xã được củng cố, gắn kết chặt chẽ, đảm bảo tính linh hoạt trong thực thi nhiệm vụ, tạo sự chuyển biến tích cực trong giải quyết các công việc phối hợp liên ngành, góp phần thực hiện tốt các chủ trương, chính sách, chương trình, kế hoạch trên địa bàn địa phương.

Nhằm tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện thể chế về tổ chức chính quyền địa phương theo hướng phân định rõ hơn tổ chức bộ máy chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt theo quy định tại Nghị quyết số 18-NQ/TW, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 97/2019/QH14 ngày 27 tháng 11 năm 2019 về thí điểm mô hình tổ chức chính quyền đô thị tại thành phố Hà Nội, thực hiện từ ngày 01 tháng 7 năm 2021 cho đến khi Quốc hội quyết định chấm dứt việc thí điểm. Theo Nghị quyết, chính quyền địa phương ở thành phố Hà Nội, huyện, quận, thị xã, xã, thị trấn là cấp chính quyền địa phương gồm có Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND; chính quyền địa phương ở 177 phường thuộc quận, thị xã tại thành phố Hà Nội là UBND phường. Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Nghị quyết số 119/2020/QH14 ngày 19 tháng 6 năm 2020 về thí điểm tổ chức mô hình chính quyền đô thị và một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Đà Nẵng. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIV, Chính phủ đã trình Quốc hội xem xét Nghị quyết của Quốc hội về sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc Thành phố Hồ Chí Minh và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 09 tháng 12 năm 2020, tại Phiên họp thứ 51, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã và thành lập thành phố Thủ Đức thuộc Thành phố Hồ Chí Minh.

d) Về phân cấp quản lý

Giai đoạn vừa qua, bên cạnh việc rà soát để khắc phục chồng chéo, trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, các bộ, ngành đã có những đề xuất cụ thể với Chính phủ đẩy mạnh việc phân cấp. Một số công việc trước đây do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giải quyết, nay đã được chuyển cho các bộ, ngành trung ương và phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện([23]). Cùng với việc đẩy mạnh phân cấp, Chính phủ tăng cường giải quyết các vấn đề có tính chiến lược, tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các nhiệm vụ đã phân cấp cho địa phương. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy chế theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ giao kèm theo Quyết định số 42/2014/QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2014. Để đôn đốc việc thực hiện Quyết định nêu trên, ngày 19 tháng 8 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Tổ công tác của Thủ tướng Chính phủ kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ, kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Quyết định số 1642/QĐ-TTg). Các bộ, ngành và địa phương cũng thường xuyên thành lập đoàn tiến hành kiểm tra phân cấp hoặc lồng ghép với các nội dung kiểm tra chung về công tác tổ chức bộ máy.

đ) Về kiểm tra, đánh giá tình hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc bộ, ngành và địa phương

Các bộ, ngành và địa phương thường xuyên ban hành kế hoạch kiểm tra và tổ chức thực hiện việc kiểm tra, đánh giá tình hình tổ chức và hoạt động của các cơ quan, đơn vị thuộc và trực thuộc. Nhiều bộ, ngành, địa phương đã chỉ đạo lồng ghép kiểm tra về tổ chức bộ máy, về công tác tổ chức, quản lý, sử dụng công chức, viên chức, công tác cải cách hành chính và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.

e) Cải cách và triển khai trên diện rộng cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều nghị định, quyết định về cơ chế tự chủ của ĐVSNCL, nhất là các văn bản gần đây trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, kinh tế và sự nghiệp khác. Theo đó, hệ thống các ĐVSNCL thuộc bộ, ngành, địa phương từng bước được sắp xếp, đổi mới và bước đầu triển khai thực hiện cơ chế tự chủ trên một số lĩnh vực. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch mạng lưới ĐVSNCL thuộc một số ngành, lĩnh vực và một số danh mục dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh vực quản lý. Trên cơ sở đó, các bộ, ngành, địa phương đã tiến hành rà soát, xây dựng đề án thành lập, tổ chức lại và giải thể các ĐVSNCL để nâng cao hiệu quả hoạt động, qua đó, số ĐVSNCL thuộc UBND và cơ quan chuyên môn cấp tỉnh cũng có xu hướng giảm.

Số lượng các ĐVSNCL được giao quyền tự chủ về tài chính bước đầu đã có sự chuyển biến tích cực. Giai đoạn 2011 - 2015, cả nước có 30.219 đơn vị sự nghiệp được giao tự chủ tài chính, tăng 7.609 đơn vị so với năm 2006; trong đó, 1.114 đơn vị tự bảo đảm chi phí hoạt động, tăng 322 đơn vị so với năm 2006. Đến năm 2016, triển khai Nghị định số 16/2015/NĐ-CP, Nghị định số 54/2016/NĐ-CP, Nghị định số 141/2016/NĐ-CP, có 109 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư; 1.878 đơn vị tự bảo đảm chi thường xuyên; 12.841 đơn vị tự bảo đảm một phần chi thường xuyên.

Thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 25/10/2017 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về “Tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL” đã đạt được những kết quả tích cực. So sánh thời điểm ngày 29 tháng 02 năm 2020 với năm 2017 và năm 2015 cho thấy: Số lượng ĐVSNCL thuộc các bộ, ngành là 1.045 đơn vị, giảm 44 đơn vị so với năm 2017 và giảm 53 đơn vị so với năm 2015. Trong khi đó, số lượng ĐVSNCL thuộc các địa phương là 49.445 đơn vị, giảm 4.670 đơn vị so với năm 2017 và giảm 6.189 đơn vị so với năm 2015. Trong tổng số ĐVSNCL của cả nước, có 12.267 ĐVSNCL tự bảo đảm một phần chi thường xuyên; 2.494 ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và 253 ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư.

Như vậy, tính đến ngày 29 tháng 02 năm 2020 kết quả sắp xếp tổ chức lại các ĐVSNCL của các bộ ngành, địa phương trong cả nước đã giảm 11% so với năm 2015, đạt được mục tiêu của Nghị quyết đến năm 2021 tối thiểu bình quân cả nước giảm 10% đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, mới chỉ có các địa phương đạt mục tiêu của Nghị quyết (giảm được 11,12% ĐVSNCL so với năm 2015), còn các bộ, ngành mới giảm 5,19% ĐVSNCL so với năm 2015.

g) Việc chuyển giao những nhiệm vụ từ cơ quan hành chính nhà nước sang doanh nghiệp, các tổ chức ngoài nhà nước đảm nhận

Thực hiện chủ trương của Đảng và Chương trình tổng thể, nhiều bộ, ngành và địa phương đã chủ động nghiên cứu, tổ chức thực hiện có hiệu quả đề án thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ, dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện sang cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm. Theo thống kê, đến tháng 3 năm 2020 đã có 38 địa phương([24]) triển khai thí điểm việc tiếp nhận và trả kết quả giải quyết hồ sơ TTHC qua dịch vụ bưu chính công ích ở các mức độ khác nhau([25]), từng bước góp phần cải tiến phương thức làm việc của cơ quan hành chính, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng giải quyết hồ sơ TTHC cho người dân, tổ chức.

2. Những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- Tổ chức bộ từ 2007 đến nay vẫn giữ nguyên số lượng, mặc dù có khả năng tinh gọn hơn. Bộ máy bên trong bộ, cơ quan ngang bộ còn cồng kềnh, nhiều đầu mối, số đơn vị trực thuộc tăng lên với nhiều đơn vị có tư cách pháp nhân, làm cho tình trạng “Bộ trong Bộ” vốn là hạn chế chưa khắc phục được của việc sáp nhập các bộ, cơ quan từ giai đoạn trước càng nặng nề thêm. Mô hình tổ chức tổng cục, cục, vụ không thống nhất.

- Nhiều vấn đề tổ chức bộ máy hành chính nhà nước chưa được quy định, hướng dẫn đầy đủ, cụ thể trong các văn bản pháp luật. Một số VBQPPL về công tác tổ chức bộ máy có nội dung không thống nhất, một số văn bản pháp luật có nội dung mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện tại địa phương. Việc ban hành không kịp thời các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thực hiện các quy định về tổ chức bộ máy đã dẫn đến tình trạng bị động, làm giảm tính đồng bộ khi triển khai kiện toàn tổ chức bộ máy ở các cơ quan, các địa phương.

- Tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn chậm được điều chỉnh theo hướng tinh gọn, nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả hoạt động; chưa khắc phục được một cách triệt để những chồng chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ; nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính chưa được phát huy mạnh mẽ nên vẫn phải phối hợp, họp nhiều, quy trình xử lý công việc chậm.

- Chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức của chính quyền địa phương được xác định và kiện toàn theo Hiến pháp và luật, bước đầu thực hiện cơ chế phân quyền, phân cấp, ủy quyền nhưng chưa đồng bộ và triệt để. Cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, cấp huyện chưa được hoàn thiện theo hướng phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và phù hợp với đặc thù của địa phương, mà cơ bản được tổ chức đồng nhất như nhau, chưa thật phù hợp với tinh thần Kết luận số 64-KL/TW.

- Việc thực hiện chủ trương xã hội hóa và đổi mới, sắp xếp lại khu vực các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm, hiệu quả thấp. Cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp công lập chưa được đẩy mạnh; số lượng người làm việc trong các ĐVSNCL vẫn tăng về số lượng, nhất là ở các địa phương.

b) Nguyên nhân

- Mô hình tổng thể về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị chưa được hoàn thiện, một số bộ phận, lĩnh vực chưa phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa đầy đủ, toàn diện về yêu cầu đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị.

- Công tác chỉ đạo cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước vẫn chưa thực sự quyết liệt, thiếu đồng bộ, chưa phát huy được tính chủ động, sáng tạo của nhiều cấp, nhiều ngành, địa phương trong việc tìm tòi, đề xuất mô hình, phương pháp mới để nâng cao hiệu quả; còn tâm lý bảo vệ lợi ích cục bộ, nể nang, né tránh, ngại va chạm. Chưa có cơ chế bảo đảm gắn quyền hạn với trách nhiệm để người đứng đầu có thể thực hiện mạnh mẽ việc đổi mới tổ chức bộ máy và tinh giản biên chế.

- Một số chủ trương, chính sách về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước được triển khai không đồng bộ, chưa được đặt trong tổng thể cải cách hành chính nên hiệu quả thấp. Việc ban hành văn bản thể chế hóa chủ trương, chính sách của Đảng, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và các luật về tổ chức bộ máy Chính phủ, chính quyền địa phương còn chậm và chưa đầy đủ. Đồng thời, còn chậm ban hành nghị định quy định về chức năng nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, cơ quan ngang bộ (trong nhiệm kỳ 2016 - 2021, đến tháng 7 năm 2017 mới ban hành được 13/30 nghị định); chậm sửa đổi, bổ sung những quy định chưa phù hợp liên quan đến thực hiện tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và đối với người hoạt động không chuyên trách cấp xã cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Bên cạnh đó, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành 30 văn bản([26]) có làm phát sinh tổ chức bộ máy hoặc biên chế, trong đó có những văn bản làm tăng bộ máy và biên chế.

- Việc chia, tách các đơn vị hành chính ở cấp huyện, cấp xã tuy đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và nguyện vọng của địa phương nhưng cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tăng bộ máy, tăng số cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện, tăng đơn vị sự nghiệp, biên chế công chức, viên chức và những người hoạt động không chuyên trách.

- Nhiều địa phương chưa thực hiện đúng quy định của trung ương về rà soát, tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, nâng cao chất lượng quản lý nhà nước; một số cơ quan còn bổ nhiệm số lượng cấp phó vượt quy định, tỷ lệ lãnh đạo nhiều hơn chuyên viên; chưa chủ động đề xuất, kiến nghị với trung ương sửa đổi, bổ sung các văn bản không phù hợp với thực tế địa phương.

IV. XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC

1. Kết quả chủ yếu đã đạt được

a) Xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách pháp luật về quản lý cán bộ, công chức, viên chức

Trong giai đoạn 2011 - 2020, các quy định về cán bộ, công chức, viên chức được tiếp tục hoàn thiện đồng bộ trên tất cả các khâu từ tuyển dụng, sử dụng, bố trí, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, nâng ngạch, thăng hạng. Triển khai Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức nhằm xây dựng một nền công vụ “chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, minh bạch, hiệu quả” theo Quyết định số 1557/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2012 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ, công chức”, một loạt cơ chế, chính sách pháp luật về quản lý cán bộ, công chức, viên chức đã được Chính phủ ban hành. Đến ngày 31 tháng 12 năm 2017, Bộ Nội vụ đã trình Chính phủ ban hành 59 Nghị định và ban hành theo thẩm quyền 92 Thông tư và Thông tư liên tịch trong lĩnh vực quản lý cán bộ, công chức, viên chức([27]). Bộ Nội vụ cũng đã kịp thời phối hợp với cơ quan có liên quan sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định về quản lý cán bộ, công chức, viên chức.

Ngày 19 tháng 5 năm 2018, Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Bộ Chính trị đã ban hành Kế hoạch số 10-KH/TW ngày 06 tháng 6 năm 2018 thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW; Chính phủ ban hành Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 24 tháng 10 năm 2018 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW. Trên cơ sở đó, Bộ Nội vụ đã ban hành và trình cấp có thẩm quyền ban hành nhiều văn bản pháp luật quan trọng về quản lý đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức([28]). Thông qua đó, các quy định pháp luật về tuyển dụng, sử dụng, về vị trí, việc làm, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá cán bộ, công chức, viên chức đã được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn quản lý.

b) Kết quả triển khai và thực hiện các nội dung về cải cách chế độ công vụ, công chức

Các bộ, ngành, địa phương đã tích cực triển khai thực hiện, bố trí công chức đảm bảo theo vị trí việc làm và tiêu chuẩn ngạch công chức, viên chức tương ứng với bản mô tả công việc, khung năng lực của từng vị trí. Việc thi tuyển cạnh tranh để bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý cũng đã bước đầu được thực hiện. Bộ Chính trị đã có Thông báo Kết luận số 202-TB/TW ngày 26 tháng 5 năm 2015 về Đề án “Thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp Vụ, cấp Sở, cấp phòng”. Tiếp theo đó, theo chỉ đạo của Ban Bí thư tại Công văn số 3135-CV/VPTW ngày 16 tháng 01 năm 2017 của Văn phòng Trung ương Đảng về việc triển khai thực hiện Đề án, Bộ Nội vụ đã có Văn bản số 2424/BNV-CCVC ngày 09 tháng 5 năm 2017 hướng dẫn thực hiện Đề án thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng. Theo Đề án đã được phê duyệt, cả nước có 14 cơ quan trung ương và 22 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được chọn thực hiện thí điểm đổi mới phương thức tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng. Trong tháng 4 năm 2020, Bộ Nội vụ đã tổ chức Hội nghị trực tuyến sơ kết 3 năm thực hiện Đề án “Thí điểm đổi mới cách tuyển chọn lãnh đạo, quản lý cấp vụ, cấp sở, cấp phòng”, sau gần 3 năm thực hiện đã có 12/14 cơ quan trung ương tổ chức thi tuyển đối với 29 chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ và cấp phòng, có 42 ứng viên trúng tuyển (cấp vụ có 32 ứng viên; cấp phòng có 10 ứng viên). Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đã có 17/22 địa phương tổ chức thi tuyển 86 chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp sở và cấp phòng, có 368 ứng viên trúng tuyển (cấp sở có 33 ứng viên; cấp phòng có 335 ứng viên). Bên cạnh đó, theo báo cáo của các bộ, ngành và địa phương, giai đoạn từ năm 2016 đến tháng 3 năm 2020, đã có 71 công chức tại bộ, ngành và 24.313 công chức tại các tỉnh đã được bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển cạnh tranh (Biểu đồ 10, Biểu đồ 11).

Việc tuyển dụng công chức thường xuyên được đổi mới về phương pháp, cách thức, nội dung, theo đó, các bộ, ngành và địa phương đã ƯDCNTT để tổ chức thi trắc nghiệm trên máy tính; bố trí, lắp đặt máy ghi hình hỗ trợ giám sát công tác coi thi. Để thu hút những người có tài năng (kể cả khu vực ngoài nhà nước) vào làm việc trong các cơ quan nhà nước, Chính phủ đã có quy định về việc xét tuyển đặc cách đối với những người tốt nghiệp thủ khoa, tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc ở nước ngoài hoặc có kinh nghiệm công tác từ 05 năm trở lên, đáp ứng được ngay yêu cầu của vị trí việc làm cần tuyển dụng. Đồng thời, để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao vào làm việc, Bộ Nội vụ đã xây dựng Đề án về chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ khoa học trẻ. Giai đoạn 2011 - 2020, công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm được thực hiện theo các quy định của Đảng và Nhà nước và cũng có những sự đổi mới nhất định, từ thể chế đến tổ chức thực hiện([29]).

Biểu đồ 10: Số lượng tuyển dụng và bổ nhiệm theo hình thức thi cạnh tranh tại các bộ, ngành

Biểu đồ 11: Số lượng tuyển dụng và bổ nhiệm theo hình thức thi cạnh tranh tại các tỉnh, thành phố

Giai đoạn 2011 - 2015, tổng số cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng là gần 2.900.000 lượt người, trong đó bồi dưỡng về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ là 1.870.000 lượt người, đạt tỷ lệ gần 65% tổng số lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng. Thực hiện Quyết định số 163/QĐ-TTg ngày 25 tháng 01 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2016 - 2025, công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đổi mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn. Hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng đã được tiến hành sắp xếp, tổ chức lại, theo hướng tinh gọn, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Việc tổ chức biên soạn lại các chương trình, tài liệu đã được quan tâm thực hiện. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 - 2030”([30]) nhằm nâng cao năng lực ngoại ngữ cho công chức, viên chức, đáp ứng yêu cầu thực thi công vụ và làm việc trong môi trường quốc tế.

Giai đoạn 2016 - 2020 (tính đến tháng 3 năm 2020), cả nước đã tiến hành đào tạo, bồi dưỡng cho hơn 5,4 triệu lượt cán bộ, công chức, viên chức([31]). Theo báo cáo của các bộ, ngành địa phương, tính đến tháng 3 năm 2020, tổng số lượt công chức được đào tạo, bồi dưỡng trong cả giai đoạn 2016 - 2020 tại các bộ, ngành là 594.654 lượt người, trong khi đó, tại các tỉnh, thành phố, số lượng là hơn 1.151.654 triệu lượt công chức (Biểu đồ 12, Biểu đồ 13). Tổng số viên chức tại các bộ, ngành trung ương và các tỉnh, thành phố được đào tạo, bồi dưỡng cũng tăng đều qua các năm. Năm 2019 có số lượng viên chức được đào tạo, bồi dưỡng tăng gấp 2,7 lần so với năm 2016, từ hơn 419 nghìn lên hơn 1,1 triệu lượt viên chức.

Việc áp dụng công nghệ thông tin, xây dựng phần mềm quản lý cán bộ, công chức được thực hiện tại nhiều bộ, ngành và địa phương và bước đầu hình thành cơ sở dữ liệu cán bộ, công chức, phục vụ tốt cho công tác chỉ đạo, điều hành, thực hiện chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành nhiều quy định góp phần nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động công vụ([32]). Ngày 02 tháng 4 năm 2018, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 364/QĐ-TTg thành lập Tổ công tác về kiểm tra công vụ, do Bộ trưởng Bộ Nội vụ làm Tổ trưởng. Thời gian qua, Tổ công tác đã tổ chức các đoàn kiểm tra hoạt động công vụ tại nhiều bộ, ngành và địa phương, qua đó, đã kịp thời chấn chỉnh và chỉ đạo xử lý một số tồn tại, hạn chế trong công tác tuyển dụng, luân chuyển, bổ nhiệm công chức, viên chức tại các cơ quan, đơn vị.

Biểu đồ 12: Số lượng công chức được đào tạo, bồi dưỡng cả nước

Biểu đồ 13: Số lượng viên chức được đào tạo, bồi dưỡng cả nước

c) Về công chức cấp xã

Năm 2015, tổng số cán bộ, công chức cấp xã có 234.061 người, bình quân 21 người/xã (trong đó: Cán bộ cấp xã có 116.043 người, công chức cấp xã có 118.018 người). Đến tháng 4 năm 2020, tổng số cán bộ, công chức cấp xã có 234.617 người, bình quân 21 người/xã (trong đó: Cán bộ cấp xã có 113.672 người, công chức cấp xã có 120.945 người). Nhìn chung, trình độ, năng lực, trách nhiệm, phong cách, thái độ của công chức cấp xã đã có những cải thiện nhất định trong thời gian vừa qua. Chất lượng thực thi công vụ của đội ngũ công chức cấp xã cơ bản đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đến năm 2018, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ công chức cấp xã là: Sau đại học 3,23%; đại học 58,23%; trung cấp, cao đẳng 37,86%; sơ cấp và chưa qua đào tạo 0,89 %. Về trình độ chính trị: Cử nhân 1,02%; cao cấp lý luận 3,11 %; trung cấp lý luận 48,9%; sơ cấp và chưa qua đào tạo, bồi dưỡng 28,07%.

d) Cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội và ưu đãi người có công

- Cải cách chính sách tiền lương đã được quan tâm và đạt được những kết quả tích cực. Từ năm 2011 đến nay, Chính phủ đã ban hành 07 nghị định quy định về các cơ chế, chính sách tiền lương, Bộ Nội vụ đã tham mưu, trình Ban Cán sự đảng Chính phủ việc xây dựng Đề án cải cách chính sách tiền lương theo từng giai đoạn phát triển của đất nước tại các Hội nghị Trung ương 5 Khóa XI; Hội nghị Trung ương 7 Khóa XI. Đặc biệt, Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21 tháng 5 năm 2018 về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16 tháng 8 năm 2018 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW. Từ năm 2011 đến nay, Chính phủ đã từng bước điều chỉnh mức lương cơ sở đối với khu vực hưởng lương ngân sách phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và khả năng ngân sách nhà nước từ 730.000 đồng/tháng (năm 2011) lên 1.490.000 đồng/tháng (năm 2019).

- Từ năm 2007, quan điểm của Đảng về chính sách bảo hiểm xã hội chính thức được luật hóa bằng Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Tiếp theo đó, thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 22 tháng 11 năm 2012 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012 - 2020, Luật Bảo hiểm xã hội được sửa đổi toàn diện vào năm 2014 với nhiều nội dung cải cách, đổi mới.

- Kết quả thực hiện chính sách người có công: Đến nay cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công với cách mạng; trong đó, số người có công đang hưởng chế độ ưu đãi hàng tháng gần 1,4 triệu người và khoảng 300.000 thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hàng tháng với tổng kinh phí khoảng 30.000 tỷ đồng/năm.

2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, kể cả đội ngũ lãnh đạo, quản lý ở một số ngành, lĩnh vực, cơ quan, đơn vị, địa phương còn hạn chế, chưa thực sự đảm bảo so với yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu cán bộ, công chức, viên chức chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.

- Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, một số nội dung thực hiện còn hình thức, chưa tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật. Việc tuyển dụng, sử dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, công chức, viên chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý trong cơ quan, tổ chức có dấu hiệu vi phạm quy định của Đảng và pháp luật nhà nước. Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, nhũng nhiễu nhân dân vẫn xảy ra trong một bộ phận cán bộ, công chức. Kỷ luật, kỷ cương hành chính chưa nghiêm; công tác kiểm tra, thanh tra công vụ chưa thường xuyên; việc phát hiện các vụ việc tiêu cực chưa kịp thời, còn hạn chế, công tác xử lý cán bộ, công chức vi phạm pháp luật chưa triệt để.

- Công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức mặc dù đã có những đổi mới nhất định, tuy nhiên, kết quả đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức hàng năm của các bộ, ngành, địa phương chưa phản ánh được thực tế kết quả thực nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

b) Nguyên nhân

- Tư duy, phương pháp quản lý cán bộ, công chức ở nhiều bộ, ngành trung ương và địa phương chưa có sự đổi mới. Việc đổi mới quản lý cán bộ, công chức, viên chức theo luật chậm được thực hiện, một số quy định về quản lý cán bộ, công chức, viên chức được ban hành quá lâu không còn phù hợp với thực tế nhưng chưa được thay đổi.

- Công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật chưa thường xuyên, tính răn đe, làm gương trong xử lý kỷ luật cán bộ, công chức hiệu quả thấp.

- Chưa thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút, sử dụng nguồn công chức trẻ theo ngành nghề đào tạo mà các bộ, ngành, địa phương đang cần.

- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chưa hiệu quả.

V. CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG

1. Kết quả chủ yếu đạt được

a) Hoàn thiện chính sách và hệ thống thuế, các chính sách về thu nhập, tiền lương, tiền công, chính sách an sinh xã hội

Trong giai đoạn vừa qua, nhiều chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước được ban hành, đã từng bước góp phần hoàn thiện chính sách về thuế, thu nhập, tiền lương và chính sách an sinh xã hội, trở thành động lực phát huy nhân tố con người trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế([33]).

Các chính sách thuế được ban hành đã góp phần đảm bảo nguồn thu ngân sách nhà nước để phát triển kinh tế - xã hội, góp phần đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, ổn định kinh tế vĩ mô, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo cơ chế thị trường.

b) Tình hình triển khai các chính sách cải cách về thuế, thu nhập, tiền lương, tiền công và các chính sách an sinh xã hội

Thực hiện các chủ trương, định hướng của Đảng về cải cách chính sách tiền lương, chính sách xã hội giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đã thực hiện chế độ phụ cấp công vụ đối với cán bộ, công chức, người hưởng lương hoặc phụ cấp quân hàm từ ngân sách nhà nước([34]); điều chỉnh mức lương cơ sở áp dụng cho cán bộ, công chức, viên chức, người hưởng lương, phụ cấp và người lao động hưởng lương từ ngân sách tùy theo điều kiện ngân sách hàng năm([35]); đồng thời điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng và trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công; nâng mức trợ giúp xã hội đối với các đối tượng bảo trợ xã hội([36]). Tính đến ngày 01 tháng 7 năm 2020, mức lương cơ sở của người lao động trong khu vực công đạt 1.490.000 đồng/tháng, bằng 104% so với mức lương cơ sở năm 2011 (730.000 đồng/tháng). Giai đoạn 2011 - 2020, thu nhập của người lao động khu vực hành chính, sự nghiệp công đã có sự cải thiện rõ rệt, góp phần nâng cao đời sống của cán bộ, công chức, viên chức, rút ngắn khoảng cách với mức lương bình quân trên thị trường lao động.

c) Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước; quản lý việc vay và trả nợ nước ngoài, nợ Chính phủ, nợ quốc gia, nợ công.

Các cơ chế, chính sách về quản lý tài chính doanh nghiệp và sắp xếp, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước đã được ban hành đầy đủ, đồng bộ và được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với thực tiễn hoạt động của doanh nghiệp và tình hình thị trường, thúc đẩy tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm ngăn chặn thất thoát vốn, tài sản nhà nước, tạo minh bạch trong công tác quản lý tài chính doanh nghiệp nhà nước. Các thể chế, chính sách pháp luật trong lĩnh vực quản lý nợ công cũng đã được hoàn thiện và đổi mới, từng bước tiếp cận các thông lệ quốc tế.

d) Đổi mới cơ chế sử dụng kinh phí nhà nước và cơ chế xây dựng, triển khai các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; phát triển các doanh nghiệp khoa học và công nghệ (DNKHCN); xây dựng đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài khoa học và công nghệ

Bảng 1: Số lượng DNKHCN tại một số tỉnh/thành phố điển hình

Tỉnh/Thành phố

Số lượng DNKHCN

năm 2019

Số lượng DNKHCN

năm 2018

Thành phố Hồ Chí Minh

78([37])

58

Hà Nội

60([38])

44

Thanh Hóa

24

23

Long An

15

11

Sơn La

12

9

Quảng Ninh([39])

11

11

Cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển DNKHCN tiếp tục được hoàn thiện. Ngày 01 tháng 02 năm 2019, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 13/2019/NĐ-CP về DNKHCN, quy định những điểm đổi mới căn bản, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho sự phát triển của DNKHCN. Ngày 01 tháng 3 năm 2020, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2020/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số nội dung về việc thu hút, sử dụng, trọng dụng cá nhân, chuyên gia hoạt động khoa học và công nghệ quy định tại Nghị định số 40/2014/NĐ-CP và Nghị định số 87/2014/NĐ-CP. Tính đến tháng 8 năm 2019, cả nước có 468 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận DNKHCN, tăng 82 doanh nghiệp so với thời điểm tháng 8 năm 2018. DNKHCN được cấp giấy chứng nhận có kết quả khoa học và công nghệ thuộc hầu hết các lĩnh vực công nghệ được khuyến khích phát triển, trong đó chủ yếu: Công nghệ sinh học (38,5%), công nghệ tự động hóa (20,6%), công nghệ vật liệu mới (9,8%), công nghệ thông tin (9,3%).

đ) Đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan hành chính nhà nước

Công tác quản lý tài chính, ngân sách có nhiều chuyển biến rõ nét. Bước đầu đã hình thành cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành và địa phương trong thực hiện các nội dung cải cách tài chính công; việc giám sát chi tiêu bằng quy chế chi tiêu nội bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực, làm tăng tính hiệu quả của chi tiêu công, hạn chế tham nhũng, lãng phí trong sử dụng ngân sách nhà nước, góp phần tăng cường kỷ luật tài chính, từng bước tăng tính minh bạch trong thực hiện ngân sách.

e) Tăng cường đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo, y tế, dân số - kế hoạch hóa gia đình, thể dục, thể thao

Việc triển khai chính sách xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch; giáo dục và đào tạo; y tế... đã từng bước khai thác, phát huy có hiệu quả, nguồn lực xã hội hóa đã đóng góp tích cực vào sự nghiệp phát triển ngành, từng bước nâng cao chất lượng hoạt động, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần của nhân dân, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ giáo dục, y tế cho người dân.

g) Đẩy mạnh xã hội hóa, hoàn thiện thể chế và tăng cường các biện pháp khuyến khích đầu tư theo hình thức công - tư (PPP) đối với việc cung cấp dịch vụ công trong y tế, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thể thao, các công trình dự án cơ sở hạ tầng

Các chính sách xã hội hóa đã tạo điều kiện huy động sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân tham gia thực hiện kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và dạy nghề; y tế; văn hóa, thể thao tại các địa phương, mang lại nhiều chuyển biến tích cực với chất lượng ngày càng được cải thiện, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập ngày càng tăng; mở rộng mạng lưới các cơ sở khám chữa bệnh, cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh với số lượng và chất lượng cao hơn, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của các tầng lớp nhân dân.

h) Thực hiện đổi mới cơ chế tài chính đối với cơ quan hành chính và đơn vị sự nghiệp công lập

Hầu hết các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương đã thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước và Nghị định số 117/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP. Giai đoạn 2014 - 2018, tỷ lệ kinh phí giao tự chủ/tổng kinh phí được giao chi quản lý hành chính của các bộ, cơ quan trung ương trung bình khoảng 68% và có xu hướng tăng (năm 2014 đạt 69,7%, năm 2018 tăng lên 73,2%)([40]). Tại các địa phương, kinh phí giao tự chủ/tổng kinh phí được giao chi quản lý hành chính trong cùng giai đoạn trung bình khoảng 56% và có xu hướng giảm (năm 2014 là 58,9% thì đến năm 2018 chỉ còn 52,3%)([41]).

Hệ thống các văn bản pháp luật quy định về tự chủ của ĐVSNCL, trong đó có tự chủ về tài chính, đã từng bước được hoàn thiện theo hướng đẩy mạnh giao quyền tự chủ tài chính cho các ĐVSNCL([42]). Đồng thời, các bộ, ngành đã có nhiều nỗ lực trong việc triển khai rà soát, sắp xếp, tổ chức lại các ĐVSNCL theo quy định tại Nghị quyết số 19-NQ/TW và các văn bản hướng dẫn thi hành. Theo báo cáo chưa đầy đủ của các bộ, ngành (trừ Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Thông tấn xã Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam), từ năm 2011 đến tháng 3 năm 2020, số lượng các ĐVSNCL tự chủ ngày càng tăng, từ 449 đơn vị ở năm 2011 lên 761 đơn vị ở năm 2015, 816 đơn vị ở năm 2017 và 848 đơn vị ở tháng 3 năm 2020. So sánh tăng, giảm số lượng ĐVSNCL tự chủ của các bộ, ngành năm 2020 với năm 2015 cho thấy, ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên tăng hơn 66 đơn vị, trong khi đó, ĐVSNCL tự bảo đảm một phần chi thường xuyên tăng hơn 33 đơn vị ở năm 2020 so với năm 2015. Số lượng ĐVSNCL do nhà nước bảo đảm chi thường xuyên giảm 33 đơn vị ở năm 2020 so với năm 2015 (Biểu đồ 14, Biểu đồ 15).

Biểu đồ 14: Số lượng ĐVSNCL tự chủ của các bộ, ngành trung ương

Biểu đồ 15: Số lượng tăng/giảm ĐVSNCL tự chủ của các bộ, ngành năm 2020 so sánh với năm 2015

Biểu đồ 16: Số lượng ĐVSNCL tự chủ của các tỉnh

Biểu đồ 17: Số lượng tăng/giảm ĐVSNCL tự chủ của các tỉnh năm 2020 so sánh với năm 2015

Ở địa phương, theo số liệu tại báo cáo tổng kết của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cho thấy, năm 2011 số lượng ĐVSNCL tự chủ là 30.736 đơn vị; đến năm 2015 là 31.138 đơn vị; năm 2017 là 33.324 đơn vị và đến tháng 3 năm 2020 là 32.066([43]) đơn vị. Số lượng và tỷ lệ tự chủ theo các mức độ của các ĐVSNCL cũng có sự thay đổi qua các năm. Theo báo cáo của các tỉnh, thành phố, cơ cấu tự chủ của các ĐVSNCL thuộc UBND cấp tỉnh; cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và UBND cấp huyện cũng có sự thay đổi, theo đó, tỷ lệ tự chủ của các ĐVSNCL bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư ngày càng tăng và ĐVSNCL nhà nước bảo đảm chi thường xuyên cũng có xu hướng giảm (Biểu đồ 16, Biểu đồ 17).

Thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của tổ chức khoa học và công nghệ công lập theo Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05 tháng 9 năm 2005 và một số văn bản khác của Chính phủ đạt được nhiều kết quả tích cực. Nhiều tổ chức khoa học và công nghệ đã phát huy hiệu quả trong hoạt động, thu hút nguồn lực của xã hội cho hoạt động khoa học và công nghệ và đầu tư có trọng điểm.

2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- Chính sách tiền lương trong khu vực Nhà nước hiện nay chưa trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy và khuyến khích cán bộ, công chức Nhà nước làm việc, tăng năng suất lao động.

- Hệ thống khuôn khổ pháp lý về chính sách xã hội chưa đồng bộ; các chính sách, chương trình được ban hành dựa trên vấn đề và nhóm đối tượng mới phát sinh mà không theo một chiến lược và tầm nhìn tổng thể, dài hạn.

- Việc thực hiện tự chủ tài chính nhìn chung còn chậm, mức độ tự chủ chưa cao, đặc biệt ở các địa phương; nguồn thu sự nghiệp còn thấp, chủ yếu vẫn là ngân sách nhà nước cấp phát; chưa có bước chuyển biến mang tính đột phá; chưa thực sự đồng bộ về tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế với tự chủ về tài chính. Hầu hết các lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công chưa tính đủ chi phí vào giá, dẫn đến khó khăn cho các ĐVSNCL khi thực hiện cơ chế tự chủ tài chính.

b) Nguyên nhân

- Thể chế kinh tế nói chung, thể chế tài chính nói riêng trong một số nội dung còn chưa bắt kịp đòi hỏi của thực tiễn và liên tục phải sửa đổi, bổ sung.

- Hệ thống tổ chức, bộ máy nhà nước cồng kềnh, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy, mối quan hệ của một số cơ quan, tổ chức chưa thật rõ, còn chồng chéo, trùng lắp,...; phân công, phân cấp, phân quyền chưa coi trọng hiệu quả kinh tế, trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu cơ quan, đơn vị chưa rõ ràng; cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa cao; việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình còn hạn chế.

- Tư duy bao cấp vẫn còn tồn tại trong các cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp ở một số lĩnh vực. Chưa thực sự coi trọng một cách đầy đủ vai trò của thị trường trong huy động và phân bổ các nguồn lực trong xã hội.

VI. HIỆN ĐẠI HÓA HÀNH CHÍNH

1. Kết quả chủ yếu đạt được

a) Việc ban hành và tổ chức thực hiện cơ chế, chính sách phát triển ƯDCNTT, xây dựng Kiến trúc Chính phủ điện tử; đô thị thông minh; Cổng dịch vụ công quốc gia

Thực hiện Chương trình tổng thể, Chính phủ đã từng bước hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển ƯDCNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, những thể chế, chính sách này bao trùm nhiều lĩnh vực ƯDCNTT, từ các chương trình, định hướng của quốc gia([44]), cho tới cung cấp thông tin, dịch vụ công([45]); chuyển đổi số và đô thị thông minh([46])... Để đổi mới công tác chỉ đạo điều hành về xây dựng Chính phủ điện tử, Thủ tướng Chính phủ đã thành lập Ủy ban Quốc gia về Chính phủ điện tử và ban hành Quy chế hoạt động của Ủy ban. Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030([47]), nhằm thực hiện “mục tiêu kép” là vừa phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số, vừa hình thành các doanh nghiệp công nghệ số Việt Nam có năng lực đi ra toàn cầu.

Về xây dựng Kiến trúc Chính phủ điện tử: Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng, ban hành Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam phiên bản 1.0; tiếp theo đó, ngày 31 tháng 12 năm 2019, Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 2323/QĐ-BTTTT ban hành Khung Kiến trúc Chính phủ điện tử Việt Nam, phiên bản 2.0. Hiện nay, đã có 19/22 bộ, cơ quan ngang bộ; 61/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xây dựng, ban hành Kiến trúc và đang tổ chức triển khai, thực hiện.

Về xây dựng đô thị thông minh: Bộ Thông tin và Truyền thông đã ban hành Quyết định số 829/QĐ-BTTTT ngày 31 tháng 5 năm 2019 ban hành Khung tham chiếu ICT phát triển đô thị thông minh (Phiên bản 1.0). Đến nay, đã có 03 địa phương đã ban hành Kiến trúc ICT phát triển đô thị thông minh bao gồm: Quảng Ninh, Đà Nẵng, Thái Nguyên. Một số địa phương khác đang xây dựng: Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Bình, Đắk Lắk, Lào Cai, Yên Bái…

b) Kết quả đạt được trong ƯDCNTT tại bộ, ngành và địa phương

Về hạ tầng kỹ thuật ƯDCNTT của các bộ, ngành, địa phương đã đạt được nhiều kết quả tích cực (Bảng 2).

Tính đến tháng 12 năm 2019 đã cung cấp trên 220.000 chứng thư số cho 95 đầu mối (bao gồm Văn phòng Trung ương Đảng, 31 bộ, ngành trung ương và 63 địa phương) và 351 chứng thư số cho lãnh đạo cấp bộ, cấp tỉnh. Trong đó, có 89/95 bộ, ngành, địa phương đã tích hợp chữ ký số, 06/95 đơn vị chưa tích hợp([48]) chữ ký số chuyên dùng Chính phủ vào hệ thống quản lý văn bản và điều hành để sử dụng trong xử lý công việc. Riêng số liệu theo Báo cáo của Bộ Thông tin và Truyền thông([49]) tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2018, Ban Cơ yếu Chính phủ đã cấp 140.297 chứng thư số cho 30 bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố. Trong đó, chứng thư số đã cấp cho các bộ, ngành là 60.592, các tỉnh là 79.705. Số chứng thư đang hoạt động ở các bộ, ngành là 56.247, các tỉnh là 75.800.

Bảng 2: Hạ tầng kỹ thuật ƯDCNTT của các bộ, ngành, địa phương

(Tính đến thời điểm 15/7/2020)

TT

Tiêu chí

Bộ, cơ quan ngang bộ

Cơ quan thuộc Chính phủ

Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

1

Tỷ lệ cơ quan nhà nước đã kết nối với mạng diện rộng (WAN)

97%

96%

91%

2

Tỷ lệ bộ/tỉnh:

 

 

 

- Có trung tâm dữ liệu

86,36% (19/22)

66,66% (4/6)

93,65% (59/63)

- Có trung tâm dữ liệu dự phòng

59,09% (13/22)

50% (3/6)

50,79% (32/63)

- Có phòng máy chủ

13,64% (3/22)

33,33% (2/6)

6,35% (4/63)

3

Tỷ lệ bộ/tỉnh đã triển khai mô hình điện toán đám mây

72,73% (16/22)

83,33% (5/6)

63,49% (40/63)

Các bộ, ngành đã tích cực xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần hình thành nên cơ sở dữ liệu phục vụ cho công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giải quyết TTHC cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Điển hình là các cơ sở dữ liệu, như: Dữ liệu quốc gia về dân cư; dữ liệu quốc gia về đất đai; dữ liệu quốc gia về đăng ký doanh nghiệp; dữ liệu quốc gia về tài chính; dữ liệu quốc gia về bảo hiểm (thu thập thông tin cá nhân của khoảng 93 triệu người); dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc; dữ liệu giáo dục; dữ liệu danh mục dùng chung của Bộ Y tế,… Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu quốc gia đã được xây dựng, từng bước kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các bộ, ngành, địa phương. Hết tháng 6 năm 2020, khoảng 65,21% bộ, ngành, địa phương đã xây dựng Nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu cấp bộ/tỉnh.

- Về ƯDCNTT trong hoạt động của bộ, ngành, địa phương:

Các bộ, ngành, địa phương đã tập trung đẩy mạnh đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật, triển khai xây dựng nhiều phần mềm, cơ sở dữ liệu nền tảng phục vụ xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Triển khai việc gửi, nhận văn bản điện tử giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quyết định số 28/2018/QĐ-TTg, ngày 12 tháng 7 năm 2018, Văn phòng Chính phủ đã chính thức khai trương đưa vào sử dụng Trục liên thông văn bản quốc gia, kết nối liên thông để phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử giữa 95/95 cơ quan nhà nước bộ, ngành, địa phương, kết nối với Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, Ban Kinh tế Trung ương, một số tỉnh ủy, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, các tổ chức chính trị - xã hội và các tập đoàn, tổng công ty. Từ khi khai trương, có hơn 3,8 triệu văn bản điện tử được gửi, nhận điện tử trên Trục liên thông văn bản quốc gia. Số lượng văn bản điện tử gửi, nhận trong năm 2020 tăng 2,5 lần so với năm 2019. Việc gửi nhận văn bản điện tử giúp tiết kiệm chi phí xã hội vào khoảng trên 1.200 tỷ đồng/năm.

Từ năm 2016 đến tháng 3 năm 2020, theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, số cơ quan, đơn vị thực hiện việc sử dụng phần mềm quản lý văn bản hoặc kết nối giữa các hệ thống quản lý văn bản và điều hành của bộ, tỉnh với Trục liên thông văn bản quốc gia, ở các bộ, ngành là 1.668 cơ quan, đơn vị; số cơ quan triển khai ứng dụng phần mềm quản lý văn bản ở các bộ, ngành là 5.551 cơ quan, đơn vị. Đối với các tỉnh: Tổng số là 44.233 cơ quan, đơn vị thực hiện việc sử dụng phần mềm quản lý văn bản hoặc kết nối giữa các hệ thống quản lý văn bản và điều hành của tỉnh với Trục liên thông văn bản quốc gia.

Thủ tướng Chính phủ đã trực tiếp ký điện tử ban hành Quyết định số 274/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Cổng dịch vụ công quốc gia([50]). Đồng thời, Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc của Chính phủ (Hệ thống e-cabinet) cũng đã chính thức được đưa vào sử dụng, góp phần đổi mới phương thức làm việc của Chính phủ trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, hướng tới Chính phủ không giấy tờ, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các thành viên Chính phủ([51]). Văn phòng Chính phủ đã khai trương Hệ thống Thông tin báo cáo quốc gia; Trung tâm Thông tin, chỉ đạo điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ([52]). Một số bộ, ngành, địa phương đã xây dựng Trung tâm điều hành tích hợp, chia sẻ các cơ sở dữ liệu, như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài nguyên và Môi trường, các tỉnh: Phú Thọ, Kon Tum, Trà Vinh,...

Một số văn bản về lưu trữ điện tử cũng đã được ban hành([53]). Các bộ, ngành và địa phương đã tích cực thực hiện việc gửi, nhận văn bản điện tử có ký số trên Trục liên thông văn bản quốc gia, tiến tới ký số tất cả các văn bản điện tử gửi, nhận văn bản (trừ văn bản Mật). Một số bộ, ngành, địa phương cũng đã xây dựng các phần mềm hoặc kết nối phần mềm chuyên ngành của bộ, ngành phục vụ các hoạt động quản lý, điều hành([54]). Từ năm 2011 đến nay, theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, tỷ lệ trung bình công chức được cấp tài khoản hộp thư điện tử công vụ tại các bộ, ngành là 99%, trong khi đó, tại các tỉnh, tỷ lệ này là khoảng 79,69%. Từ năm 2011 đến tháng 3 năm 2020, trung bình tỷ lệ văn bản hành chính được trao đổi dưới dạng điện tử tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là 86,1%. Tuy nhiên, trong các năm 2018 và năm 2019 tỷ lệ này đạt 100%.

Biểu đồ 18: Tỷ lệ văn bản hành chính được trao đổi dưới dạng điện tử tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương qua các năm

- Cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến (DVCTT) cho người dân và doanh nghiệp; triển khai các hệ thống một cửa điện tử:

Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, số lượng DVCTT tăng đều qua các năm. Cho tới quý II năm 2020, số DVCTT mức 3 cả nước là 38.833; DVCTT mức 4 cả nước là 17.959 dịch vụ. Từ năm 2015 đến tháng 3 năm 2020, trung bình số lượng cơ quan, đơn vị xây dựng hoặc sử dụng phần mềm một cửa điện tử ở các bộ, ngành là 92 cơ quan đơn vị; trung bình trong 06 năm ở 63 tỉnh, thành phố là gần 5.800 cơ quan, đơn vị. Tỷ lệ trung bình hồ sơ giải quyết qua hệ thống một cửa điện tử tại các tỉnh từ năm 2015 đến tháng 3 năm 2020 là 84,44%. Trong khi đó, tỷ lệ trung bình từ 2015 đến tháng 3 năm 2020 của các bộ là 35,85%, tuy nhiên, ở năm 2019, tỷ lệ này là 52,6%.

Bảng 3: So sánh số lượng DVCTT mức độ 3 và 4 năm 2019 và một số quý của năm 2020

Tiêu chí

Mức độ

Năm 2019

Quý I/2020

Quý II/2020

Số lượng DVCTT

Mức 3 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

37.206

762

36.444

37.679

838

36.841

38.833

795

38.038

Mức 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

13.559

859

12.700

15.203

929

14.274

17.959

1325

16.634

DVCTT mức 3, 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

50.765

1.621

49.144

52.882

1.767

51.115

56.792

2.120

54.672

Số lượng DVCTT có phát sinh hồ sơ

Mức 3 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

4.862

282

4.580

8.980

322

8.658

10.813

348

10.465

 

Mức 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

2.592

634

1.958

4.033

746

3.287

5.115

803

4.312

DVCTT có phát sinh hồ sơ 3, 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

7.454

 

916

6.538

13.013

 

1.068

11.945

15.928

 

1.151

14.777

Bảng 4: Hiệu quả cung cấp DVCTT

Tiêu chí

DVCTT

Năm 2019

Quý I/2020

Quý II/2020

Tỷ lệ DVCTT mức 3, 4

DVCTT mức 3 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

29,64%

15,88%

30,08%

30,24%

17,36%

30,76%

31,63%

16,83%

32,22%

DVCTT mức 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

10,76%

17,90%

10,48%

12,20%

19,25%

11,92%

14,63%

28,05%

14,09%

DVCTT mức 3, 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

40,40%

33,78%

40,56%

42,44%

36,61%

42,68%

46,26%

44,88%

46,31%

Tỷ lệ DVCTT có phát sinh hồ sơ

DVCTT mức 3 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

13,15%

37,05%

12,57%

23,83%

38,42%

23,35%

27,84%

43,77%

27,51%

 

DVCTT mức 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

19,10%

73,89%

15,42%

26,53%

80,03%

23,40%

29,42%

82,67%

26,32%

DVCTT mức 3, 4 cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

14,63%

55,18%

13,19%

24,61%

60,44%

23,38%

28,34%

64,12%

27,15%

Tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến

Cả nước

- Bộ, ngành

- Địa phương

-

 

17,93%

22,18%

13,68%

19,30%

24,05%

14,56%

 

Biểu đồ 19: Tỷ lệ hồ sơ giải quyết qua hệ thống một cửa điện tử

c) Tình hình triển khai hệ thống quản lý chất lượng phù hợp Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 và TCVN ISO 9001: 2015 tại bộ, ngành

Ngày 05 tháng 3 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước (sau đây gọi tắt là Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg). Một trong những nội dung thay đổi chính của Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg là cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước tự công bố hệ thống quản lý chất lượng phù hợp Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001. Kết quả triển khai cho thấy, đã có 22/22 bộ, ngành phê duyệt Kế hoạch triển khai và giao đơn vị chủ trì, giúp việc triển khai thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg. Công tác kiểm tra với số lượng các bộ thực hiện tăng lên hằng năm. Năm 2015 có 09 bộ thực hiện việc kiểm tra, năm 2019 con số này là 18 bộ, ngành. Các Bộ: Công an, Quốc phòng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã công bố Mô hình khung hệ thống quản lý chất lượng theo TCVN ISO 9001:2015 cho các cơ quan, tổ chức theo hệ thống ngành dọc trực thuộc. Trong khi đó, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam tiếp tục duy trì mô hình khung theo TCVN ISO 9001:2008.

Tại địa phương: Đã có 63/63 địa phương phê duyệt kế hoạch triển khai thực hiện Quyết định số 19/2014/QĐ-TTg. Công tác kiểm tra, báo cáo việc thực hiện ISO cũng được các địa phương triển khai thực hiện có kết quả. Năm 2015, có 31 địa phương; năm 2016 có 40 địa phương; năm 2017 có 25 địa phương; năm 2018 có 37 địa phương và năm 2019 có 59 địa phương đã thực hiện kiểm tra. Một số tỉnh, thành phố đã triển khai tốt, duy trì đầy đủ hoạt động kiểm tra, hoạt động báo cáo trong các năm vừa qua như: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Định, Cà Mau, Thành phố Hồ Chí Minh, Lạng Sơn, Lào Cai, Phú Thọ, Tây Ninh, Thanh Hóa, Tiền Giang, Tuyên Quang, Yên Bái,...

2. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a) Tồn tại, hạn chế

- Tình trạng cát cứ dữ liệu vẫn còn phổ biến ở các bộ, ngành, địa phương, một số cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng, như dân cư, đất đai, tài chính,... còn chậm triển khai. Việc xử lý, trao đổi, gửi nhận văn bản điện tử trong nội bộ và giữa các cơ quan nhà nước còn chưa phát huy được hiệu quả; hệ thống quản lý văn bản và điều hành của một số bộ, ngành, địa phương khác nhau. Mô hình, giải pháp triển khai chưa đồng bộ, mức độ quan tâm chỉ đạo triển khai còn có khoảng cách nhất định giữa các bộ, ngành, các địa phương.

- DVCTT được thiết kế riêng lẻ, rời rạc, chưa thân thiện, chưa lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Mặc dù số lượng DVCTT mức 3, mức 4 triển khai tại các bộ, ngành, địa phương ngày càng tăng, tuy nhiên số lượng hồ sơ trực tuyến theo từng dịch vụ rất thấp, thậm chí nhiều dịch vụ không phát sinh hồ sơ trực tuyến. Quy trình giải quyết TTHC chưa bảo đảm tính khoa học, gây gánh nặng cho cán bộ, công chức.

- Tỷ lệ người dân sử dụng DVCTT còn hạn chế, hoạt động của các cơ quan nhà nước vẫn chủ yếu dựa trên giấy tờ, DVCTT mức độ 4 cung cấp chưa nhiều, việc số hóa để ra quyết định dựa trên dữ liệu còn rất hạn chế; an toàn, an ninh mạng chưa được quan tâm đúng mức.

- Ngân sách đầu tư cho ƯDCNTT, xây dựng hệ thống thông tin gắn với cải cách hành chính vẫn còn hạn chế, cơ chế đầu tư tài chính chậm sửa đổi nên chưa đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa nền hành chính, chưa đủ để tạo ra đòn bẩy nâng cao hiệu quả điều hành của Chính phủ, cũng như tăng chất lượng dịch vụ công.

b) Nguyên nhân

- Một số thể chế quan trọng tạo hành lang pháp lý cho triển khai Chính phủ điện tử chưa được ban hành, ví dụ như: Bảo vệ dữ liệu cá nhân; quy định về định danh, xác thực điện tử,...

- Cơ sở dữ liệu quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử chưa được triển khai, hoặc mức độ hoàn thành còn chậm; giải pháp thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu chậm triển khai, chưa được các bộ, ngành chú trọng, quan tâm.

- Lãnh đạo một số cơ quan nhà nước chưa quan tâm, làm gương, chỉ đạo sát sao; nhiều cán bộ, công chức chậm thay đổi lề lối làm việc để ƯDCNTT. Nguồn lực tài chính cho triển khai Chính phủ điện tử còn hạn chế. Công tác truyền thông về phát triển Chính phủ điện tử chưa được chú trọng.

C. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG GIAI ĐOẠN 2011 - 2020

I. NHỮNG KẾT QUẢ TÍCH CỰC ĐÃ ĐẠT ĐƯỢC

Quá trình thực hiện cải cách hành chính thời gian qua, gắn với triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước ta. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2011 tăng 5,89%, đến năm 2015 tăng 6,68% và GDP năm 2019 đạt kết quả ấn tượng, với tốc độ tăng 7,02%. Đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm đều tăng cả về số dự án và số vốn thực hiện: Năm 2019 số dự án tăng hơn 2.842 dự án và tăng gấp hơn 3,3 lần so với năm 2011, số vốn thực hiện tăng hơn 9,3 tỷ đô la Mỹ, gấp hơn 1,8 lần so với năm 2011. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới năm 2019 tăng hơn 60.600 doanh nghiệp so với năm 2011 và tăng hơn 1.216.500 nghìn tỷ so với năm 2011. Bên cạnh đó, một loạt chỉ số của Việt Nam được các cơ quan, tổ chức quốc tế đánh giá có sự cải thiện cả về điểm số và vị trí xếp hạng ở năm 2019 so với năm 2011. Về Chỉ số Chính phủ điện tử, năm 2020 Việt Nam xếp ở vị trí thứ 86/193 quốc gia, tăng 2 bậc so với năm 2018 và đã duy trì tăng hạng liên tục từ năm 2014 đến nay. Về chỉ số năng lực cạnh tranh toàn cầu, năm 2019, Việt Nam xếp vị trí 67/141 quốc gia và nền kinh tế, tăng 10 bậc so với năm 2018, mức tăng cao nhất trên thế giới trong năm qua.

Những kết quả này cho thấy sự đóng góp quan trọng của cải cách hành chính. Khái quát những mặt tích cực, nổi bật đã đạt được của cải cách hành chính trong giai đoạn vừa qua như sau:

1. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thường xuyên, liên tục, tạo sức lan tỏa, có tác động mạnh mẽ, sâu rộng đến nhận thức và hành động của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước các cấp trong triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính.

2. Công tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ được thể hiện thông qua việc ban hành các văn bản chỉ đạo, đôn đốc triển khai công tác cải cách hành chính; việc tổ chức triển khai theo dõi, đánh giá, xếp loại công tác cải cách hành chính, công bố kết quả Chỉ số cải cách hành chính; khảo sát, đo lường, xác định Chỉ số hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước,... là những nét nổi bật trong chỉ đạo, điều hành cải cách hành chính trong thực hiện Chương trình tổng thể.

3. Thể chế của nền hành chính, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể chế về mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân được hoàn thiện, củng cố và được triển khai có hiệu quả trên thực tế. Thông qua đó, nền hành chính đã có chuyển biến tích cực theo hướng nền hành chính dân chủ, phục vụ, chuyên nghiệp, hiện đại, năng động, trách nhiệm, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của người dân, xã hội và sự phát triển của đất nước.

4. Công tác cải cách TTHC, cắt giảm điều kiện kinh doanh, cải cách hoạt động kiểm tra chuyên ngành; đẩy mạnh ứng dụng côn nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, xây dựng, phát triển Chính phủ điện tử đã đạt được kết quả quan trọng, có những chuyển biến mạnh mẽ, trở thành điểm sáng của nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV, đặc biệt là trong những năm 2018, 2019 và năm 2020.

5. Cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước đã tiếp tục được triển khai thực hiện với nhiều nhiệm vụ quan trọng, đạt được một số kết quả được ghi nhận. Bộ máy hành chính từ trung ương đến địa phương đã được phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ bản khắc phục tình trạng chồng chéo, bỏ trống chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý. Phân cấp quản lý giữa trung ương và địa phương được tăng cường; hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước của hệ thống hành chính từng bước được nâng cao.

6. Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều đổi mới; đã từng bước đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cũng được đổi mới, phân công, phân cấp rõ ràng hơn; cải cách tiền lương đã được quan tâm và đạt được những kết quả tích cực.

7. Cơ chế quản lý tài chính đối với cơ quan hành chính, ĐVSNCL, tổ chức khoa học và công nghệ công lập được đổi mới, giúp cho các cơ quan, đơn vị chủ động trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, sử dụng ngân sách và đề ra các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Các dịch vụ sự nghiệp công được đổi mới, cải cách, từng bước nâng cao chất lượng, đem lại lợi ích thiết thực cho người dân, xã hội.

II. NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ, NGUYÊN NHÂN

1. Cải cách thể chế vẫn còn những bất cập, hạn chế. Tính ổn định và khả năng dự báo trong một số lĩnh vực chưa cao; một số quy định chưa đồng bộ, thống nhất, khả thi, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, thậm chí còn có nội dung chồng chéo, mâu thuẫn. Vẫn còn VBQPPL có dấu hiệu trái luật. Tình trạng nợ đọng văn bản quy định chi tiết luật, pháp lệnh chưa được khắc phục triệt để. Chất lượng báo cáo đánh giá tác động (nhất là tác động giới) theo quy định của Luật Ban hành VBQPPL còn hạn chế; chậm ban hành văn bản hướng dẫn thi hành luật.

2. Cải cách TTHC vẫn chưa thực sự là động lực góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. TTHC, điều kiện kinh doanh trên một số lĩnh vực vẫn còn chồng chéo, rườm rà, phức tạp, mâu thuẫn nhưng chậm được đổi mới, cắt giảm hoặc chỉ cắt giảm TTHC ở những lĩnh vực mà người dân, doanh nghiệp ít cần được giải quyết. Việc thực hiện TTHC vẫn còn tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực, chậm trễ, gây phiền hà; người thực hiện phải đi lại nhiều lần, nhiều cơ quan; việc xã hội hóa dịch vụ hành chính công vẫn còn chậm, thiếu tổng thể. Tính liên thông trong cải cách TTHC chưa cao. Chưa triển khai đầy đủ, thống nhất việc đánh giá mức độ hài lòng của người dân, doanh nghiệp về chất lượng giải quyết TTHC.

3. Tổ chức bộ máy hành chính còn cồng kềnh, nhiều tầng nấc. Chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ máy hành chính trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được xác định thật rõ và phù hợp; sự phân công, phân cấp giữa các ngành và các cấp chưa thật rành mạch. Việc sắp xếp tổ chức chưa gắn kết với việc rà soát, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ nên hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao. Công tác phối hợp giữa các bộ, cơ quan, địa phương trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước còn hạn chế; phương thức hoạt động, cách thức giải quyết công việc trong nội bộ cơ quan hành chính chưa có sự đổi mới.

4. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có nơi chưa đồng đều, thậm chí còn yếu; một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức khi giải quyết công việc liên quan đến tổ chức và người dân chưa làm hết trách nhiệm, còn có hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực. Việc tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức thời gian qua còn hạn chế, nhất là cơ cấu chức danh ngạch, chức danh nghề nghiệp. Công tác đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức vẫn là khâu yếu. Công tác quản lý cán bộ ở một số cơ quan, đơn vị còn chưa nghiêm, chưa tuân thủ đầy đủ các quy định pháp luật, còn có sai phạm.

5. Cải cách tài chính công còn nhiều hạn chế. Việc sử dụng ngân sách và vốn đầu tư công còn lãng phí, thất thoát, kém hiệu quả. Việc đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập còn chậm; chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập trên một số lĩnh vực chưa cao.

6. Việc xây dựng Chính phủ điện tử, hướng tới Chính phủ số, xã hội số còn chưa đồng bộ giữa các bộ, ngành, địa phương. Việc hình thành các hệ thống dữ liệu dùng chung chưa đầy đủ; việc kết nối, liên thông giữa các phần mềm quản lý chuyên ngành, dữ liệu dùng chung của các cơ quan, đơn vị còn khó khăn, gây cản trở cho công tác quản lý và giải quyết công việc cho người dân, tổ chức. Hiệu quả cung cấp dịch vụ công mức độ 3, 4 cho người dân, tổ chức còn thấp.

III. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG TRIỂN KHAI CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH

1. Cải cách hành chính tiếp tục phải đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của các cấp ủy Đảng, sự quản lý điều hành của chính quyền và sự tham gia tuyên truyền, vận động và giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể quần chúng. Cần nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về mục tiêu, ý nghĩa, tầm quan trọng của cải cách hành chính đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Từ đó, coi trọng công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách hành chính đối với các cấp chính quyền và toàn thể nhân dân để tạo ra sự đồng thuận chung trong toàn xã hội về thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính; xác định những lợi ích thiết thực, hiệu quả mà công cuộc cải cách hành chính đem lại cho người dân, tổ chức, doanh nghiệp.

2. Phải xác định cải cách hành chính là nhiệm vụ trọng tâm thường xuyên, lâu dài gắn với công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Bảo đảm sự nhất quán, kiên trì, liên tục, có đổi mới, sáng tạo, theo định hướng trong triển khai cải cách hành chính của Chính phủ, các bộ, ngành trung ương và các địa phương. Duy trì và tăng cường công tác chỉ đạo triển khai thực hiện cải cách hành chính thống nhất, đồng bộ từ Chính phủ tới chính quyền địa phương các cấp. Thực hiện cải cách hành chính phải đồng bộ với từng bước đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách kinh tế, cải cách lập pháp và cải cách tư pháp.

3. Tăng cường hơn nữa vai trò, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp, của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong từng cơ quan, đơn vị, phải xác định mọi việc vì lợi ích thiết thực, đặt lợi ích của người dân lên hàng đầu là điều kiện quan trọng đảm bảo sự thành công của cải cách hành chính. Người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp phải thực hiện nghiêm túc việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý những phản ánh, kiến nghị của nhân dân.

4. Cần xác định rõ phạm vi, nội dung cải cách hành chính, phân biệt cải cách hành chính với các cuộc cải cách đang diễn ra như cải cách, đổi mới kinh tế, cải cách tư pháp,... Việc đặt cải cách thể chế trong thời gian vừa qua là tương đối rộng, vượt khỏi phạm vi của cải cách hành chính, trong đó, các nội dung của cải cách thể chế gần như là cải cách kinh tế, có liên quan đến Quốc hội và các cơ quan khác. Bên cạnh đó, cải cách tài chính công cũng rộng, nhiều nội dung thuộc cải cách tài chính trong cải cách kinh tế.

5. Xác định các mục tiêu cải cách hành chính mang tính định lượng với mức độ phù hợp, thiết thực để bảo đảm tính khả thi. Tổ chức thực hiện chương trình cải cách hành chính phải gắn với tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính của các bộ, ngành, địa phương. Phân công rõ trách nhiệm và có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, địa phương trong tổ chức thực hiện chương trình cải cách hành chính.

6. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá quá trình triển khai thực hiện công tác cải cách hành chính. Coi trọng thí điểm, tổng kết, nhân rộng những mô hình, sáng kiến trong cải cách hành chính. Chú trọng việc đánh giá, biểu dương những cơ quan, đơn vị, cá nhân thực hiện tốt và xử lý nghiêm các cá nhân, đơn vị vi phạm.

7. Củng cố, kiện toàn và nâng cao vai trò của cơ quan chủ trì tham mưu cho Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong công tác điều phối chung, tổng hợp, đôn đốc và theo dõi việc thực hiện các nhiệm vụ cải cách hành chính có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn tới. Bên cạnh đó, cần thiết phải nâng cao năng lực của đội ngũ công chức làm công tác cải cách hành chính; bố trí đủ nguồn lực tài chính cho cải cách hành chính.

Phần thứ hai

ĐỊNH HƯỚNG CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2021 - 2030

I. MỤC TIÊU

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch, nâng cao trách nhiệm giải trình; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ; hệ thống cơ quan hành chính nhà nước các cấp tinh gọn, thông suốt và hoạt động hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân dân.

II. ĐỊNH HƯỚNG

1. Tiếp tục quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2021 - 2030 một cách toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, đi vào chiều sâu, thiết thực, hiệu quả nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, chuyên nghiệp, nâng cao trách nhiệm giải trình, từng bước hiện đại phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, lấy người dân làm trung tâm, lấy sự hài lòng của người dân, doanh nghiệp làm thước đo đánh giá chất lượng hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước.

2. Nâng cao vai trò chỉ đạo, lãnh đạo của các cấp ủy đảng, trách nhiệm của các tổ chức chính trị, xã hội, người dân, doanh nghiệp đối với công tác cải cách hành chính. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến, quán triệt về mục tiêu, nhiệm vụ cải cách hành chính tới toàn thể đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người dân và toàn xã hội để tạo động lực và sự đồng thuận trong xã hội về thực hiện công cuộc cải cách hành chính gắn với thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước giai đoạn 2021 - 2030.

3. Về cải cách thể chế

- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống thể chế của bộ máy hành chính nhà nước đầy đủ, đồng bộ, hiện đại. Xây dựng, hoàn thiện đồng bộ và vận hành có hiệu quả hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các chuẩn mực phổ biến của nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực để thúc đẩy phát triển đất nước.

- Nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành VBQPPL, kịp thời kiểm tra, rà soát, phát hiện và xử lý quy định trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo, bất cập, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp. Triển khai các biện pháp cụ thể để tổ chức thi hành pháp luật nghiêm minh, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của cá nhân, tổ chức.

4. Về cải cách TTHC

- Tiếp tục hoàn thiện thể chế kiểm soát TTHC theo hướng gắn kết chặt chẽ với xây dựng Chính phủ điện tử và thực hiện TTHC trên môi trường điện tử.

- Tiếp tục rà soát toàn bộ, đề xuất phương án cắt giảm, đơn giản hóa toàn bộ các quy định liên quan đến sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp để tháo gỡ mọi rào cản, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh phát triển.

- Tăng cường giải quyết, gắn với kiểm soát, đánh giá, giám sát việc giải quyết TTHC trên môi trường điện tử; nâng cao tỷ lệ hồ sơ trực tuyến, giao dịch thanh toán trực tuyến; đảm bảo kết nối, chia sẻ dữ liệu phục vụ giải quyết TTHC, cung cấp DVCTT.

- Nâng cao chất lượng phục vụ, gắn với việc đổi mới cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC theo hướng không phụ thuộc vào địa giới hành chính, gắn với số hóa và sử dụng kết quả số hóa hồ sơ, giấy tờ, kết quả giải quyết TTHC nhằm nâng cao chất lượng phục vụ, tăng năng suất lao động, góp phần hình thành công dân số, doanh nghiệp số trong xây dựng Chính phủ số, nền kinh tế số, xã hội số.

- Tập trung rà soát, cải cách TTHC nội bộ, gắn với việc đẩy mạnh xây dựng nền hành chính phi giấy tờ.

- Tăng cường tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp về cơ chế, chính sách, TTHC trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, tạo điều kiện tháo gỡ vướng mắc, khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.

- Tăng cường và phát huy vai trò của Hội đồng tư vấn cải cách TTHC, trong đó tổ chức có hiệu quả các hội nghị đối thoại giữa cơ quan nhà nước với cộng đồng doanh nghiệp; tiếp tục nghiên cứu, đề xuất sáng kiến cải cách để góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác cải cách TTHC, cải thiện môi trường kinh doanh.

5. Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước

- Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chính sách, pháp luật về tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, thí điểm một số mô hình mới về thu gọn tổ chức bộ máy gắn với thực hiện chính sách tinh giản biên chế. Tăng cường thí điểm chuyển giao một số nhiệm vụ và dịch vụ hành chính công mà Nhà nước không nhất thiết phải thực hiện cho doanh nghiệp, các tổ chức xã hội đảm nhiệm; kịp thời sơ kết, tổng kết và mở rộng dần những mô hình phù hợp, hiệu quả.

- Đổi mới hệ thống tổ chức, quản lý và nâng cao hiệu quả hoạt động để tinh gọn đầu mối, khắc phục chồng chéo, dàn trải và trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị sự nghiệp công lập; rà soát, chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp công lập có đủ điều kiện sang công ty cổ phần.

- Tăng cường phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý giữa trung ương và địa phương, giữa cấp trên và cấp dưới, gắn với quyền hạn và trách nhiệm; khuyến khích sự năng động, sáng tạo và phát huy tính tích cực, chủ động của các cấp, các ngành trong thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước.

- Nghiên cứu, triển khai các biện pháp đổi mới phương thức làm việc, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước các cấp trên cơ sở ứng dụng mạnh mẽ các tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là CNTT.

6. Về cải cách chế độ công vụ

- Đổi mới cơ chế, nâng cao chất lượng tuyển dụng, sử dụng công chức, viên chức. Nghiên cứu triển khai thí điểm chế độ hợp đồng hành chính.

- Hoàn thiện quy định về xác định vị trí việc làm của công chức, viên chức làm cơ sở cho việc tuyển dụng, sử dụng và bổ nhiệm công chức, viên chức.

- Nghiên cứu, đổi mới phương pháp, quy trình đánh giá phân loại CBCCVC theo hướng dân chủ, công khai, minh bạch, lượng hóa các tiêu chí đánh giá và đề cao trách nhiệm người đứng đầu.

- Hoàn thiện các quy định về quản lý, sử dụng và thực hiện chế độ chính sách đối với viên chức tại các đơn vị sự nghiệp công lập hoạt động theo cơ chế tự chủ.

7. Cải cách tài chính công

Tiếp tục đổi mới cơ chế phân bổ ngân sách cho cơ quan, đơn vị gắn với nhiệm vụ được giao và sản phẩm đầu ra. Sửa đổi, bổ sung quy định về thực hiện cơ chế khoán kinh phí quản lý hành chính, đáp ứng yêu cầu thực tiễn và cụ thể hóa các chủ trương của Đảng. Tăng cường các giải pháp để cung ứng dịch vụ sự nghiệp công lập theo cơ chế thị trường, thúc đẩy xã hội hóa.

8. Xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số

- Hoàn thiện thể chế tạo cơ sở pháp lý và xây dựng cơ sở dữ liệu nền tảng phục vụ cho việc triển khai phát triển Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Thực hiện chiến lược chuyển đổi số quốc gia theo lộ trình. Tăng cường đầu tư tái cấu trúc hạ tầng công nghệ thông tin các bộ, ngành, địa phương; chuyển đổi hạ tầng công nghệ thông tin thành hạ tầng số ứng dụng điện toán đám mây.

- Đẩy mạnh việc ƯDCNTT vào đổi mới phương thức làm việc, chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu, tăng cường xử lý văn bản và hồ sơ công việc trên môi trường điện tử, nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước; giảm chi phí và thời gian xử lý công việc. Phát triển, nâng cao hiệu quả giải quyết TTHC trực tuyến mức độ 3 và 4 trên Cổng dịch vụ công, Hệ thống một cửa điện tử các cấp.

- Nghiên cứu, xây dựng và phát triển mô hình đô thị thông minh.

 

 

TM. CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG




Trương Hòa Bình

 

PHỤ LỤC I

THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU CHỈ ĐẠO, ĐIỀU HÀNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ

STT

Số lượng

Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020([55])

1

Số lượng văn bản chỉ đạo, điều hành

1.774

1.866

1.942

2.006

2.049

481

1.1

Nghị quyết, Quyết định, Chỉ thị, Thông báo của Ban Cán sự đảng bộ/Đảng ủy bộ

1.515

1.536

1.626

1.628

1.688

340

1.2

Quyết định, Chỉ thị, Thông báo của Bộ trưởng

259

330

316

378

361

141

2

Số lượng các cơ quan, đơn vị được kiểm tra cải cách hành chính

428

348

371

396

383

54

3

Tuyên truyền cải cách hành chính

 

 

 

 

 

 

3.1

Số lượng các bộ, ngành tổ chức cuộc thi tìm hiểu cải cách hành chính

7

5

4

6

6

2

3.2

Số lớp tập huấn chuyên đề cải cách hành chính

72

75

86

75

75

8

3.3

Số lượng các bộ, ngành xây dựng chuyên mục cải cách hành chính trên Cổng Thông tin điện tử của bộ, ngành

19

18

18

18

18

18

3.4

Hình thức tuyên truyền cải cách hành chính khác

4([56])

4

Số lượng mô hình, sáng kiến cải cách hành chính được triển khai áp dụng

67

75

79

87

127

26

5

Xây dựng, áp dụng Bộ tiêu chí đánh giá cải cách hành chính các cơ quan, đơn vị

4([57])

7([58])

6

Đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức

 

 

 

 

 

 

6.1

Số lượng dịch vụ đã khảo sát

52

19

362

554

734

308

6.2

Số lượng mẫu đã khảo sát

1.907

3.818

1.737

2.220

22.626

22.004

6.3

Mức độ hài lòng chung (Tỷ lệ %)

78,33

85,67

86,00

84,55

86,74

 -

II. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020([59])

1

Số lượng văn bản chỉ đạo, điều hành

1.844

2.232

2.505

2.485

2.687

1.034

1.1

Văn bản của Tỉnh ủy, Thành ủy

311

555

576

610

683

320

1.2

Văn bản của Ủy ban nhân dân tỉnh, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh

1.533

1.677

1.929

1.875

2.004

714

2

Số lượng các cơ quan, đơn vị được kiểm tra cải cách hành chính

2.204

2.355

2.715

2.868

2.950

400

3

Tuyên truyền cải cách hành chính

 

 

 

 

 

 

3.1

Số lượng các tỉnh tổ chức cuộc thi tìm hiểu cải cách hành chính

39

34

31

37

45

15

3.2

Số lượng bản tin chuyên đề cải cách hành chính trên Đài Phát thanh - Truyền hình cấp tỉnh

5.952

5.892

6.364

7.172

7.744

2.732

3.3

Số lớp tập huấn chuyên đề cải cách hành chính

242

257

299

305

402

84

3.4

Số lượng các tỉnh xây dựng chuyên mục cải cách hành chính trên Cổng Thông tin điện tử cấp tỉnh

53

54

56

59

59

59

3.5

Hình thức tuyên truyền cải cách hành chính khác

42

46

46

49

49

40

4

Số lượng mô hình, sáng kiến cải cách hành chính được triển khai áp dụng

467

502

640

922

950

233

5

Xây dựng, áp dụng Bộ tiêu chí đánh giá cải cách hành chính các cơ quan, đơn vị

 

 

 

 

 

 

5.1

Bộ tiêu chí đánh giá sở, ngành

49

52

56

55

55

45

5.2

Bộ tiêu chí đánh giá Ủy ban nhân dân cấp huyện

49

53

57

56

56

47

5.3

Bộ tiêu chí đánh giá Ủy ban nhân dân cấp xã

44

45

52

56

58

39

5.4

Bộ tiêu chí đánh giá cơ quan ngành dọc tại địa phương

12

12

14

16

15

11

6

Đo lường sự hài lòng của người dân, tổ chức

 

 

 

 

 

 

6.1

Số lượng dịch vụ đã khảo sát

3.833

1.680

5.015

4.018

5.459

3.005

6.2

Số lượng mẫu đã khảo sát

119.024

179.537

250.313

305.650

338.123

37.233

6.3

Mức độ hài lòng chung (Tỷ lệ %)

76,9

83,4

80,8

79,0

81,3

94,6

 

PHỤ LỤC II

THỐNG KÊ CÁC NHIỆM VỤ TẠI LĨNH VỰC CẢI CÁCH THỂ CHẾ
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(1)

1

Tổng số VBQPPL chủ trì soạn thảo đã được ban hành

1.292

1.357

1.090

1.044

871

345

Chia theo tên loại VBQPPL

Luật, Nghị quyết của Quốc hội

20

11

18

16

18

13

Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

2

8

0

1

4

2

Lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước

0

0

1

0

0

0

Nghị định của Chính phủ

137

175

168

169

100

67

Nghị quyết Liên tịch giữa Chính phủ với Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

-

0

0

0

0

0

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ

66

59

50

51

38

17

Thông tư

957

1.055

874

809

709

260

Thông tư Liên tịch

123

36

1

7

2

1

2

Số VBQPPL được đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát

1.610

1.108

1.246

2.611

1.894

1.395

3

Số VBQPPL đã được xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý sau rà soát

777

818

915

1.489

1.802

1.177

4

Số VBQPPL đã kiểm tra theo thẩm quyền

5.969

6.389

10.772

8.632

7.632

7.846

5

Số VBQPPL trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền

124

196

274

125

203

84

6

Số VBQPPL trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền đã được xử lý

48

264

1.730

695

118

127

7

Văn bản không phải là VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật

14

7

-

-

10

8

II. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(2)

1

Tổng số VBQPPL chủ trì soạn thảo đã được ban hành

56.887

50.661

25.988

14.094

9.168

2.369

Chia theo tên loại VBQPPL

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

3.756

4.998

4.699

3.948

4.092

153

Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

933

 

 

Nghị quyết của Hội đồng nhân cấp huyện

6.857

6.120

3.710

1.833

1.336

82

Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp huyện

211

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp xã

46.274

39.543

17.579

8.313

3.740

880

Quyết định của Ủy ban nhân dân cấp xã

110

2

Số VBQPPL được đề nghị sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ hoặc ban hành mới sau rà soát

9.376

8.840

6.946

3.749

4.516

2.746

3

Số VBQPPL đã được xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý sau rà soát

9.451

6.997

6.230

3.131

3.260

2.068

4

Số VBQPPL đã kiểm tra theo thẩm quyền

33.509

32.870

17.084

9.603

5.759

4.595

5

Số VBQPPL trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền

1.204

661

962

305

206

155

6

Số VBQPPL trái pháp luật về nội dung, thẩm quyền đã được xử lý

5.199

4.385

3.022

1.388

125

132

7

Văn bản không phải là VBQPPL nhưng có chứa quy phạm pháp luật

1.697

783

-

-

56

68

 

PHỤ LỤC III

THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(1)

1

Tổng số TTHC thuộc ngành, lĩnh vực do bộ ban hành hoặc tham mưu ban hành 

 

 

 

 

 

 

1.1

Số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ

2.807

4.046

3.851

3.971

4.054

3.715

1.2

Số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp tỉnh

1.773

1.963

1.987

1.988

1.943

2.146

1.3

Số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp huyện

625

631

565

581

559

554

1.4

Số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp xã

156

167

129

132

138

138

2

Số lượng điều kiện kinh doanh thuộc ngành, lĩnh vực do bộ tham mưu ban hành

3.032

3.030

2.452

2.549

2.165

2.126

3

Số lượng danh mục hàng hóa xuất/nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành thuộc ngành, lĩnh vực do bộ quản lý

1.062

1.170

8.975

2.625

2.541

2.510

4

Số lượng TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ đã thực hiện việc tiếp nhận/trả kết quả tại Bộ phận Một cửa

1.532

1.529

1.469

2.105

3.164

2.929

5

Số TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ có thực hiện liên thông với các bộ, ngành khác ở trung ương

10

10

10

5

7

11

6

Số TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của bộ có thực hiện liên thông đến các cấp chính quyền địa phương

4

5

5

6

6

16

7

Tỷ lệ % hồ sơ TTHC được giải quyết đúng hẹn (đã trả kết quả đúng hẹn/đã tiếp nhận)

92,96

94,02

94,23

90,99

92,81

93,75

8

Tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị về TTHC

 

 

 

 

 

 

8.1

Số lượng phản ánh, kiến nghị đã tiếp nhận trong năm

258

555

1.270

1.716

1.830

383

8.2

Số lượng phản ánh, kiến nghị đã giải quyết trong năm

255

551

1.264

1.693

1.810

335

8.3

Số lượng phản ánh, kiến nghị được xử lý và đã công khai kết quả trả lời trên Cổng Thông tin điện tử của bộ

181

258

1.133

1.565

1.541

329

II. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG(2)

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(3)

1

Số liệu về TTHC của tỉnh

 

 

 

 

 

 

1.1

Trung bình số lượng TTHC cấp tỉnh

1.129

1.272

1.337

1.446

1.433

1.423

1.2

Trung bình số lượng TTHC cấp huyện

219

280

282

328

294

281

1.3

Trung bình số lượng TTHC cấp xã

129

139

138

142

140

138

1.4

Trung bình số lượng TTHC do tỉnh ban hành (được giao trong Luật)

8

14

13

15

15

15

2

Số TTHC được đơn giản hóa sau rà soát (theo thẩm quyền của tỉnh, như: giảm thời gian giải quyết…)

10.091

9.443

15.224

14.622

15.311

11.920

3

Trung bình số lượng thủ tục hành chính được công khai đầy đủ, đúng quy định trên Cổng/Trang Thông tin điện tử tại 63 tỉnh, thành phố

1.437

1.616

1.681

1.780

1.790

1.751

4

Thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông

 

 

 

 

 

 

4.1

Trung bình số lượng TTHC thực hiện được giải quyết tại Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh hoặc Bộ phận Tiếp nhận và trả kế quả cấp sở, ngành của 63 tỉnh, thành phố

996

1.152

1.244

1.415

1.423

1.445

4.2

Số lượng TTHC thực hiện việc tiếp nhận, trả kết quả tại Bộ phận Một cửa cấp huyện

203

241

249

269

270

269

4.3

Trung bình số lượng TTHC thực hiện việc tiếp nhận, trả kết quả tại Bộ phận Một cửa cấp xã của 63 tỉnh, thành phố

125

124

120

127

128

131

4.4

Trung bình số lượng TTHC được giải quyết theo cơ chế một cửa liên thông cùng cấp tại 63 tỉnh, thành phố

64

71

82

137

146

149

4.5

Trung bình số lượng TTHC hoặc nhóm TTHC được giải quyết theo hình thức liên thông giữa các cấp chính quyền của 63 tỉnh, thành phố

50

55

65

80

84

96

4.6

Trung bình số lượng TTHC đã thực hiện 4 tại chỗ của 63 tỉnh, thành phố

43

55

61

87

156

164

5

Kết quả giải quyết hồ sơ TTHC

 

 

 

 

 

 

5.1

Tỷ lệ % hồ sơ TTHC cấp tỉnh giải quyết đúng hẹn (đã tiếp nhận/đã trả đúng hẹn)

93,72

93,20

95,08

95,40

94,93

87,84

5.2

Tỷ lệ % hồ sơ TTHC cấp huyện giải quyết đúng hẹn (đã tiếp nhận/đã trả đúng hẹn)

90,84

91,22

91,82

93,86

93,41

85,99

5.3

Tỷ lệ % hồ sơ TTHC cấp xã giải quyết đúng hẹn (đã tiếp nhận/đã trả đúng hẹn)

93,1

92,6

271,0

96,0

94,6

90,0

6

Tiếp nhận và xử lý phản ánh, kiến nghị về TTHC

 

 

 

 

 

 

6.1

Số lượng phản ánh, kiến nghị đã tiếp nhận trong năm

708

2.261

1.129

1.335

23.814

7.805

6.2

Số lượng phản ánh, kiến nghị đã giải quyết trong năm

590

2.231

1.119

1.302

23.803

7.761

6.3

Số lượng phản ánh, kiến nghị được xử lý và đã công khai kết quả trả lời trên Cổng Thông tin điện tử

430

1.037

608

891

23.025

7.707

 

PHỤ LỤC IV

TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP Ở TRUNG ƯƠNG VÀ ĐỊA PHƯƠNG
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. THỐNG KÊ VÀ SO SÁNH SỐ LƯỢNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP THUỘC CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 VÀ 2011 - 2020

 (Đơn vị tính: Đơn vị)

STT

 Số lượng

 Tổ chức

Giai đoạn
2001 - 2010(1)

Giai đoạn
2011 - 2020(2)

Biến động(3)

1

Tổng cục và tương đương

27

31

4

1.1

Số Vụ thuộc Tổng cục (ở trung ương)

187

227

40

1.2

Số Cục thuộc Tổng cục

330

419

89

1.3

Số Chi cục thuộc Tổng cục

3.457

3.110

- 347

2

Cục và tương đương thuộc bộ

101

129

28

 

Số Phòng thuộc Cục

712

714

2

3

Vụ và tương đương thuộc bộ

242

236

- 6

 

Số Phòng thuộc Vụ và tương đương

597

495

- 102

4

Tổ chức tham mưu, giúp việc cho Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ

42

22

- 20

5

Số đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc bộ

499

557

58

6

Số tổ chức khoa học và công nghệ trực thuộc bộ

59

61

2

II. THỐNG KÊ VÀ SO SÁNH SỐ LƯỢNG TỔ CHỨC HÀNH CHÍNH, SỰ NGHIỆP THUỘC ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 VÀ 2011 - 2020

 (Đơn vị tính: Đơn vị)

STT

 Số lượng

 Tổ chức

Giai đoạn
2001 - 2010(4)

Giai đoạn
2011 - 2020(5)

Biến động([60])

1

Số lượng, cơ cấu tổ chức thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

 

 

 

1.1

Số cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

1.245

1.221

- 24

1.2

Số Chi cục thuộc Sở

1.039

929

- 110

1.3

Số Phòng, Văn phòng, Thanh tra thuộc Sở

8.524

7.568

- 956

1.4

Số đơn vị sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

6.015

5.080

- 935

2

Số lượng, cơ cấu tổ chức thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

 

 

 

2.1

Số Ủy ban nhân dân cấp huyện

679

713

34

2.2

Số Phòng chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

7.236

7.129

- 107

2.3

Số Văn phòng, Thanh tra thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

1.297

1.264

- 33

2.4

Số đơn vị sự nghiệp thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

40.927

39.828

- 1.099

3

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập theo các lĩnh vực

 

 

 

3.1

Sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo

 

 

 

3.1.1

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

125

129

4

3.1.2

Thuộc cơ quan chuyên môn cấp tỉnh

3.068

2.702

- 366

3.1.3

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

36.515

36.149

- 366

3.2

Sự nghiệp Y tế

 

 

 

3.2.1

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

5

4

- 1

3.2.2

Thuộc cơ quan chuyên môn cấp tỉnh

3.978

3.057

- 921

3.2.3

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

549

102

- 447

3.3

Sự nghiệp Văn hóa, Thể thao và Du lịch

 

 

 

3.3.1

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

52

38

- 14

3.3.2

Thuộc cơ quan chuyên môn cấp tỉnh

619

492

- 127

3.3.3

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

1.196

788

- 408

3.4

Sự nghiệp khác

 

 

 

3.4.1

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

217

323

106

3.4.2

Thuộc cơ quan chuyên môn cấp tỉnh

3.227

2.534

- 693

3.4.3

Thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện

2.664

2.608

- 56

 

PHỤ LỤC V

THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC XÂY DỰNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ

STT

Số lượng

Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(1)

1

Số tiêu chuẩn chức danh công chức được ban hành

194

314

289

303

310

292

2

Số lượng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức được ban hành

94

61

63

84

106

99

3

Tổng số biên chế cán bộ, công chức

 

 

 

 

 

 

3.1

Tổng số biên chế được giao

114.712

114.506

113.270

111.666

114.544

111.842

3.2

Tổng số biên chế có mặt

108.297

112.427

111.875

109.441

112.191

108.340

4

Tổng số biên chế viên chức

 

 

 

 

 

 

4.1

Tổng số biên chế được giao

94.179

89.871

84.339

81.194

73.828

73.378

4.2

Tổng số biên chế có mặt

93.681

89.369

81.790

79.128

65.054

45.805

5

Số công chức được tuyển dụng theo hình thức thi cạnh tranh

218

107

470

345

430

493

6

Số công chức được bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển cạnh tranh

8

8

18

23

16

6

7

Số lượng công chức được tinh giản biên chế

166

1.575

2.582

3.719

5.284

6.552

8

Số lượng công chức được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm

38.776

51.252

63.220

35.806

36.591

4.553

9

Số lượng viên chức được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm

42.700

42.040

46.214

42.984

50.709

1.831

10

Số lượng các lớp đào tạo, bồi dưỡng

1.022

1.096

1.171

931

1.033

138

II. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(2)

1

Tổng số biên chế cán bộ, công chức

 

 

 

 

 

 

1.1

Tổng số biên chế được giao

158.467

157.330

154.067

150.487

141.485

138.932

1.2

Tổng số biên chế có mặt

149.762

148.329

144.182

136.211

125.553

125.711

2

Tổng số biên chế viên chức

 

 

 

 

 

 

2.1

Tổng số biên chế được giao

1.704.447

1.717.913

1.748.635

1.684.522

1.651.464

1.598.257

2.2

Tổng số biên chế có mặt

1.611.480

1.556.706

1.596.103

1.552.243

1.533.201

1.548.969

3

Số công chức được tuyển dụng theo hình thức thi cạnh tranh

3.934

2.442

2.331

1.512

2.693

206

4

Số công chức được bổ nhiệm vào các chức danh lãnh đạo, quản lý thông qua thi tuyển cạnh tranh

2.315

4.128

4.909

5.025

6.767

3.484

5

Số lượng cán bộ, công chức được tinh giản biên chế

3.654

7.050

8.334

7.808

10.245

5.202

6

Số lượng công chức được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm

287.265

405.381

371.391

453.172

415.853

28.662

7

Số lượng viên chức được bồi dưỡng, tập huấn hàng năm

337.586

447.807

580.523

592.226

822.093

45.490

8

Số lượng các lớp đào tạo, bồi dưỡng

24.712

22.388

15.659

20.265

32.151

6.662

 

PHỤ LỤC VI

THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC CẢI CÁCH TÀI CHÍNH CÔNG
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(1)

1

Số cơ quan hành chính trực thuộc bộ thực hiện cơ chế tự chủ

951

958

969

968

966

958

2

Số đơn vị sự nghiệp công lập thuộc bộ thực hiện cơ chế tự chủ

761

773

816

858

855

848

2.1

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư

23

23

29

34

38

44

2.2

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

189

199

217

253

261

255

2.3

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên

448

455

478

495

488

481

2.4

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên

101

96

92

76

68

68

3

Số tổ chức khoa học và công nghệ công lập thuộc bộ thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ

50

54

54

121

118

117

II. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(2)

1

Số cơ quan hành chính thực hiện cơ chế tự chủ

14.162

14.482

14.731

14.956

14.476

14.319

2

Số đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện cơ chế tự chủ

3.850

3.780

3.778

3.776

3.660

3.649

2.1

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư

0

0

7

27

32

33

2.2

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

160

168

235

271

273

282

2.3

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên

1.093

1.097

1.036

1.018

984

967

2.4

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên

2.597

2.515

2.500

2.460

2.371

2.367

3

Số đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện cơ chế tự chủ

5.876

6.143

6.186

5.902

5.664

5.607

3.1

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư

11

19

63

108

124

129

3.2

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

565

624

739

937

1.028

1.051

3.3

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên

4.093

4.218

4.123

3.819

3.546

3.472

3.4

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên

1.207

1.282

1.261

1.038

966

955

4

Số đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Ủy ban nhân dân cấp huyện thực hiện cơ chế tự chủ

21.412

22.336

23.360

22.903

22.933

22.810

4.1

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên và chi đầu tư

33

37

47

73

78

82

4.2

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm chi thường xuyên

1.053

1.005

892

984

1.058

1.024

4.3

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập tự bảo đảm một phần chi thường xuyên

8.976

9.342

10.406

10.208

10.388

10.395

4.4

Số lượng đơn vị sự nghiệp công lập do Nhà nước bảo đảm chi thường xuyên

11.350

11.952

12.015

11.638

11.409

11.309

5

Số tổ chức khoa học và công nghệ công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm theo Nghị định số 54/2016/NĐ-CP của Chính phủ

115

132

155

151

138

136

 

PHỤ LỤC VII

THỐNG KÊ CÁC CHỈ TIÊU TẠI LĨNH VỰC HIỆN ĐẠI HÓA HÀNH CHÍNH
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(1)

1

Số đơn vị thuộc bộ kết nối Trục liên thông văn bản quốc gia

87

144

207

311

483

523

2

Số lượng văn bản nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia

-

8.257

12.578

30.154

253.897

92.761

3

Số lượng văn bản gửi trên Trục liên thông văn bản quốc gia

-

176

228

1.570

104.125

29.055

4

Số lượng Chữ ký số

2.174

2.203

3.487

6.789

12.625

8.223

5

Tỷ lệ % công chức có hộp thư điện tử công vụ

100

94,43

94,71

94,91

95,23

95,23

6

Số cơ quan hành chính thuộc bộ, ngành triển khai ứng dụng Phần mềm Quản lý văn bản

442

577

601

1.456

1.509

1.443

7

Số cơ quan hành chính thuộc bộ, ngành sử dụng mạng nội bộ (mạng LAN) để trao đổi công việc

608

607

605

638

675

675

8

Số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4

439

847

1.218

1.616

1.723

1.895

9

Tỷ lệ % dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 có phát sinh hồ sơ

42,97

55,16

57,06

56,50

63,84

59,93

10

Số đơn vị xây dựng, sử dụng Phần mềm Một cửa điện tử

16

24

36

127

173

190

11

Tỷ lệ % hồ sơ giải quyết qua Hệ thống Một cửa điện tử

64,15

65,70

75,30

69,06

77,08

72,05

12

Số cơ quan hành chính thuộc bộ, ngành (Cục, Tổng cục và tương đương) có bản Công bố ISO

250

212

212

214

215

216

II. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

STT

 Số lượng

 Chỉ tiêu

Năm 2015

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Năm 2020(2)

1

Tỷ lệ % văn bản hành chính được trao đổi dưới dạng điện tử

90,00

88,00

93,00

100

100

100

2

Số đơn vị kết nối Trục liên thông văn bản quốc gia

-

1.333

1.915

5.961

17.173

17.851

3

Số lượng văn bản nhận trên Trục liên thông văn bản quốc gia

-

8.790

153.723

519.575

5.346.559

1.862.481

4

Số lượng văn bản gửi trên Trục liên thông văn bản quốc gia

-

16.386

65.759

386.158

2.21.5937

737.625

5

Số lượng Chữ ký số

15.265

23.910

38.020

54.328

88.819

100.933

6

Tỷ lệ % công chức có hộp thư điện tử công vụ

78,57

82,84

88,08

93,23

96,91

97,25

7

Số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện triển khai ứng dụng Phần mềm Quản lý văn bản

1.737

1.864

1.928

1.951

2.027

2.028

8

Số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện sử dụng mạng nội bộ (mạng LAN) để trao đổi công việc

2.023

2.079

2.086

2.086

2.088

2.086

9

Số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện có Cổng/Trang Thông tin điện tử

1.890

1.930

1.943

1.954

2.069

2.067

10

Số dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4

6.025

10.408

24.330

34.499

47.027

45.174

11

Tỷ lệ % dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, mức độ 4 có phát sinh hồ sơ

7,91

12,04

17,31

23,78

30,49

38,64

12

Số đơn vị xây dựng, sử dụng Phần mềm Một cửa điện tử

2.357

3.389

5.709

8.153

8.590

7.634

13

Tỷ lệ % hồ sơ giải quyết qua Hệ thống Một cửa điện tử

37,55

42,60

61,54

74,59

85,95

85,73

14

Số cơ quan chuyên môn cấp tỉnh, đơn vị hành chính cấp huyện có bản Công bố ISO

2.344

2.477

2.711

2.963

3.317

3.327

 

PHỤ LỤC VIII

ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ THỰC HIỆN CÁC MỤC TIÊU CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ, CƠ QUAN THUỘC CHÍNH PHỦ

TT

 Mức độ hoàn thành

Các mục tiêu cải cách

Tỷ lệ %

1

Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật được đổi mới cơ bản

100

2

Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa

95

3

Thể chế về sở hữu, đất đai, doanh nghiệp nhà nước được xây dựng và ban hành ngày càng phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa

90

4

Đến năm 2020, hoàn thành cơ bản nhiệm vụ xây dựng hệ thống pháp luật Việt Nam đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, với chi phí tuân thủ thấp, dựa trên hệ thống chính sách đã được hoạch định trong từng lĩnh vực phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội

90

5

Thực hiện bước chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ việc đặt trọng tâm vào xây dựng và hoàn thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật thiết giữa công tác xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật

90

6

Thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn giản; mỗi năm đều có tỷ lệ giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước

100

7

Thủ tục hành chính được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về thủ tục hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020

100

8

Sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan, đơn vị để không còn sự chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

90,91

9

Chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận

89,47

10

Sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020

95

11

Sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020 (Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo)

100

12

Đội ngũ công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ Nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; 100% các cơ quan, đơn vị có cơ cấu công chức theo vị trí việc làm

95,45

13

Chính sách tiền lương của cán bộ, công chức, viên chức được cải cách cơ bản

81,82

14

Đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử công vụ trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau

90,48

15

Các Trang tin, Cổng Thông tin điện tử của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ hoàn thành việc kết nối với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, hình thành đầy đủ Mạng thông tin điện tử hành chính của Chính phủ trên Internet

100

16

20% số lượng người dân và doanh nghiệp tham gia Hệ thống thông tin Chính phủ điện tử được xác thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cơ quan

78,95

17

Tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của từng bộ, ngành đạt từ 20% trở lên; tích hợp 30% các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công quốc gia; 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện thông qua Hệ thống thông tin Một cửa điện tử cấp bộ

75

18

Tối thiểu 30% dịch vụ công trực tuyến thực hiện ở mức độ 4; 50% Cổng Dịch vụ công cấp bộ cung cấp giao diện cho các thiết bị di động; 100% dịch vụ công được hỗ trợ giải đáp thắc mắc cho người dân, doanh nghiệp; 50% cơ quan nhà nước công khai mức độ hài lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến; 100% Cổng Thông tin điện tử các bộ, ngành công khai thông tin đầy đủ theo quy định tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011 của Chính phủ; 20% dịch vụ công trực tuyến sử dụng chữ ký số trên nền tảng di động để thực hiện thủ tục hành chính; 50% dịch vụ công trực tuyến xử lý bằng hồ sơ điện tử; 20% thông tin của người dân được tự động nhập vào biểu mẫu trực tuyến; 50% dịch vụ công trực tuyến sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp

60

19

100% phần mềm quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành được kết nối, liên thông qua Trục liên thông văn bản Quốc gia phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử; 90% văn bản trao đổi giữa các cơ quan nhà nước (trừ văn bản mật theo quy định của pháp luật) dưới dạng điện tử; tối thiểu 80% hồ sơ công việc tại cấp bộ, cấp tỉnh, 60% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 30% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội dung mật)

95,24

20

Tối thiểu 30% báo cáo định kỳ (không bao gồm nội dung mật) được gửi, nhận qua Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia

73,68

21

Rút ngắn từ 30% - 50% thời gian họp, giảm tối đa việc sử dụng tài liệu giấy thông qua Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc, văn phòng điện tử

100

22

100% cơ quan kết nối vào Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước

84,21

II. ỦY BAN NHÂN DÂN CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

STT

 Mức độ hoàn thành

 Các mục tiêu cải cách

Tỷ lệ %

1

Thủ tục hành chính liên quan đến cá nhân, tổ chức được cải cách cơ bản theo hướng gọn nhẹ, đơn giản; mỗi năm đều có tỷ lệ giảm chi phí mà cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết thủ tục hành chính tại cơ quan hành chính nhà nước

98,39

2

Thủ tục hành chính được cải cách cơ bản, mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp về thủ tục hành chính đạt mức trên 80% vào năm 2020

96,67

3

Sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan, đơn vị để không còn sự chồng chéo, bỏ trống hoặc trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn

98,39

4

Chuyển giao những công việc mà cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm hiệu quả thấp cho xã hội, các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận

84,75

5

Sự hài lòng của cá nhân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước đạt mức trên 80% vào năm 2020

96,77

6

Sự hài lòng của cá nhân đối với dịch vụ do đơn vị sự nghiệp công cung cấp trong các lĩnh vực giáo dục, y tế đạt mức trên 80% vào năm 2020

98,36

7

Đội ngũ công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ Nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước; 100% các cơ quan, đơn vị có cơ cấu công chức theo vị trí việc làm;

 

7.1

Đội ngũ công chức, viên chức có số lượng, cơ cấu hợp lý, đủ trình độ và năng lực thi hành công vụ, phục vụ Nhân dân và phục vụ sự nghiệp phát triển của đất nước

93,55

7.2

100% các cơ quan, đơn vị có cơ cấu công chức theo vị trí việc làm

91,80

8

Đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan; hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau

 

8.1

Đến năm 2020: 90% các văn bản, tài liệu chính thức trao đổi giữa các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện dưới dạng điện tử; cán bộ, công chức, viên chức thường xuyên sử dụng hệ thống thư điện tử trong công việc; bảo đảm dữ liệu điện tử phục vụ hầu hết các hoạt động trong các cơ quan

96,77

8.2

Hầu hết các giao dịch của các cơ quan hành chính nhà nước được thực hiện trên môi trường điện tử mọi lúc, mọi nơi, dựa trên các ứng dụng truyền thông đa phương tiện; hầu hết các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên Mạng thông tin điện tử hành chính ở mức độ 3 và 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ người dân và doanh nghiệp mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau

93,55

9

Các Trang tin, Cổng Thông tin điện tử hoàn thành việc kết nối với Cổng Thông tin điện tử Chính phủ, hình thành đầy đủ Mạng thông tin điện tử hành chính trên Internet

86,67

10

20% số lượng người dân và doanh nghiệp tham gia Hệ thống thông tin Chính quyền điện tử được xác thực định danh điện tử thông suốt và hợp nhất trên tất cả các hệ thống thông tin của các cơ quan

40,98

11

Tỷ lệ hồ sơ giải quyết trực tuyến trên tổng số hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính của từng bộ, ngành đạt từ 20% trở lên; tích hợp 30% các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của các bộ, ngành, địa phương với Cổng Dịch vụ công quốc gia; 100% hồ sơ giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện thông qua Hệ thống thông tin một cửa điện tử

45,90

12

Tối thiểu 30% dịch vụ công trực tuyến thực hiện ở mức độ 4; 50% Cổng Dịch vụ công cấp tỉnh cung cấp giao diện cho các thiết bị di động; 100% dịch vụ công được hỗ trợ giải đáp thắc mắc cho người dân, doanh nghiệp; 50% cơ quan nhà nước công khai mức độ hài lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến; 100% Cổng Thông tin điện tử công khai thông tin đầy đủ theo quy định tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13 tháng 6 năm 2011 của Chính phủ; 20% dịch vụ công trực tuyến sử dụng chữ ký số trên nền tảng di động để thực hiện thủ tục hành chính; 50% dịch vụ công trực tuyến xử lý bằng hồ sơ điện tử; 20% thông tin của người dân được tự động nhập vào biểu mẫu trực tuyến; 50% dịch vụ công trực tuyến sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp

 

12.1

Tối thiểu 30% dịch vụ công trực tuyến thực hiện ở mức độ 4

49,18

12.2

50% Cổng Dịch vụ công cấp tỉnh cung cấp giao diện cho các thiết bị di động

59,32

12.3

100% dịch vụ công được hỗ trợ giải đáp thắc mắc cho người dân, doanh nghiệp

65,00

12.4

50% cơ quan nhà nước công khai mức độ hài lòng của người dân khi sử dụng dịch vụ công trực tuyến

59,02

12.5

100% Cổng Thông tin điện tử công khai thông tin đầy đủ theo quy định tại Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ

63,93

12.6

20% dịch vụ công trực tuyến sử dụng chữ ký số trên nền tảng di động để thực hiện thủ tục hành chính

49,18

12.7

50% dịch vụ công trực tuyến xử lý bằng hồ sơ điện tử

60,66

12.8

20% thông tin của người dân được tự động nhập vào biểu mẫu trực tuyến

54,10

12.9

50% dịch vụ công trực tuyến sử dụng dữ liệu từ Cơ sở dữ liệu quốc gia về Đăng ký doanh nghiệp

45,76

13

100% phần mềm quản lý văn bản và điều hành của các bộ, ngành được kết nối, liên thông qua Trục liên thông văn bản Quốc gia phục vụ gửi, nhận văn bản điện tử; 90% văn bản trao đổi giữa các cơ quan nhà nước (trừ văn bản mật theo quy định của pháp luật) dưới dạng điện tử; tối thiểu 80% hồ sơ công việc tại cấp bộ, cấp tỉnh, 60% hồ sơ công việc tại cấp huyện và 30% hồ sơ công việc tại cấp xã được xử lý trên môi trường mạng (không bao gồm hồ sơ xử lý công việc có nội dung mật)

95,08

14

Tối thiểu 30% báo cáo định kỳ (không bao gồm nội dung mật) được gửi, nhận qua Hệ thống thông tin báo cáo quốc gia

55,36

15

Rút ngắn từ 30% - 50% thời gian họp, giảm tối đa việc sử dụng tài liệu giấy thông qua Hệ thống thông tin phục vụ họp và xử lý công việc, văn phòng điện tử

81,97

16

100% cơ quan kết nối vào Mạng truyền số liệu chuyên dùng của các cơ quan Đảng, Nhà nước

83,33

 

PHỤ LỤC IX

CHỈ SỐ CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH - PARINDEX QUA 08 NĂM (2012 - 2019) GIAI ĐOẠN 2011 - 2020
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

I. CÁC BỘ, CƠ QUAN NGANG BỘ

ơn vị tính: Par Index: %)

STT

Các bộ, cơ quan ngang bộ

Năm 2019

Năm 2018

Năm 2017

Năm 2016

Năm 2015

Năm 2014

Năm 2013

Năm 2012

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

1

Bộ Công Thương

84,36

10

84,38

5

83,59

5

79,17

12

82,19

18

76,15

12

79,36

6

81,18

2

2

Bộ GD&ĐT

84,24

11

82,18

11

80,01

11

78,39

15

82,27

16

71,19

18

77,32

10

76,48

10

3

Bộ GTVT

80,53

17

75,13

18

77,88

14

84,48

4

88,77

3

81,83

1

81,06

1

80,58

4

4

Bộ KH&CN

84,96

6

82,90

7

80,60

8

86,54

3

82,21

17

71,00

19

77,27

11

76,20

11

5

Bộ KH&ĐT

82,96

13

80,72

14

72,61

17

80,59

9

86,81

5

78,78

7

74,74

17

78,00

7

6

Bộ LĐ-TB&XH

84,42

9

82,20

10

80,00

12

71,91

19

83,56

14

73,72

15

75,48

16

67,06

18

7

Bộ Ngoại giao

87,64

5

83,77

6

82,92

6

80,85

8

85,34

10

80,07

4

80,31

3

79,64

5

8

Bộ NN và PTNN

88,23

4

85,34

4

82,40

7

79,12

13

83,73

13

75,42

13

78,34

7

80,71

3

9

Bộ Nội vụ

84,61

8

82,73

8

80,54

9

79,94

10

86,99

4

80,06

5

77,79

8

74,39

12

10

Bộ Tài chính

94,77

2

90,19

2

84,42

3

87,27

2

89,21

2

81,54

2

79,89

4

77,03

8

11

Bộ TN&MT

84,78

7

82,52

9

80,02

10

77,47

16

84,29

11

78,69

8

77,09

14

69,75

16

12

Bộ TT&TT

81,58

15

79,21

16

86,13

2

84,02

5

82,04

19

73,88

14

76,28

15

73,63

14

13

Bộ Tư pháp

90,12

3

86,53

3

83,93

4

82,90

6

86,47

9

78,27

9

79,53

5

82,47

1

14

Bộ VHTT&DL

82,46

14

81,24

12

78,74

13

81,57

7

86,78

6

78,97

6

77,57

9

77,01

9

15

Bộ Xây dựng

83,98

12

79,60

15

72,65

16

79,11

14

86,74

7

78,03

10

77,25

12

73,85

13

16

Bộ Y tế

80,68

16

77,87

17

72,40

18

79,69

11

86,58

8

73,55

17

74,19

18

64,78

19

17

NHNN Việt Nam

95,40

1

90,57

1

92,36

1

92,68

1

89,42

1

80,48

3

80,38

2

72,91

15

18

Thanh tra Chính phủ

86,50

-

81,10

13

75,18

15

76,03

18

84,07

12

77,66

11

77,20

13

79,38

6

19

Ủy ban Dân tộc

76,37

-

74,87

-

72,13

19

76,20

17

83,27

15

73,57

16

66,71

19

67,19

17

GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH

85,63

 

82,68

 

79,92

 

80,94

 

85,30

 

76,99

 

77,35

 

75,38

 

II. UBND CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG

(Đơn vị tính: PARINDEX: %)

STT

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

Năm 2019

Năm 2018

Năm 2017

Năm 2016

Năm 2015

Năm 2014

Năm 2013

Năm 2012

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

Par Index

Thứ hạng

1

An Giang

83,32

11

80,77

8

83,54

8

72,89

36

85,56

31

84,84

15

82,41

15

83,25

5

2

Bà Rịa - Vũng Tàu

83,45

9

79,27

12

81,58

16

75,12

29

85,26

35

85,69

8

82,70

14

86,14

2

3

Bắc Giang

81,84

25

78,14

25

82,74

13

80,31

13

88,51

10

85,40

11

83,22

12

82,75

8

4

Bắc Kạn

79,02

55

74,62

49

73,92

49

65,12

60

78,59

59

64,21

63

68,82

58

67,62

58

5

Bạc Liêu

81,20

30

76,85

31

76,89

36

71,12

45

88,23

12

84,14

20

81,91

16

80,56

14

6

Bắc Ninh

82,20

18

78,44

23

79,44

26

81,31

9

83,95

45

82,87

27

77,63

35

78,29

28

7

Bến Tre

73,87

63

73,49

55

67,35

62

70,47

47

84,96

36

83,45

23

81,40

18

79,80

21

8

Bình Định

79,86

46

73,80

53

70,29

59

72,17

41

81,77

53

80,79

39

74,87

45

75,65

37

9

Bình Dương

82,30

17

79,00

15

83,71

7

84,34

5

89,78

7

85,22

12

86,86

3

81,26

11

10

Bình Phước

80,79

37

75,61

39

77,49

33

67,54

57

80,62

55

78,34

49

71,06

55

69,69

53

11

Bình Thuận

79,74

47

75,54

42

78,94

28

78,72

18

85,30

34

84,65

17

84,75

7

77,24

32

12

Cà Mau

79,64

49

73,85

52

73,07

53

69,75

50

84,30

41

80,99

38

76,37

42

75,36

38

13

Cần Thơ

81,25

29

81,10

6

83,53

9

79,23

16

90,52

5

87,81

5

84,49

8

80,87

12

14

Cao Bằng

78,53

58

71,22

59

74,55

45

62,97

62

75,83

62

67,18

62

68,25

59

64,04

62

15

Đà Nẵng

83,68

6

83,70

4

84,40

4

90,32

1

93,31

1

92,54

1

87,02

1

87,12

1

16

Đắk Lắk

79,53

50

75,43

43

75,37

43

75,30

26

81,15

54

81,51

34

77,69

34

75,86

36

17

Đắk Nông

78,92

56

71,03

60

72,81

56

68,14

55

82,41

52

76,25

55

77,48

36

73,25

45

18

Điện Biên

81,42

27

77,00

28

79,53

24

71,98

42

74,99

63

68,68

61

65,13

61

62,58

63

19

Đồng Nai

81,99

21

78,62

20

84,52

3

85,12

4

92,53

3

88,56

4

81,73

17

74,07

43

20

Đồng Tháp

84,43

3

83,71

3

81,91

14

81,39(1)

7

89,08

8

85,49

10

83,08

13

83,41

4

21

Gia Lai

80,58

41

74,56

50

73,68

50

76,04

25

88,08

13

77,76

51

66,24

60

70,19

51

22

Hà Giang

79,23

53

76,84(2)

33

79,52

25

75,20

28

79,16

57

73,37

59

69,43

57

65,08

60

23

Hà Nam

79,91

45

75,66

38

76,70

38

76,82

23

82,79

51

69,44

60

73,97

48

73,53

44

24

Hà Nội

84,64

2

83,98

2

85,46

2

85,23

3

88,79

9

91,21

3

85,43

5

82,77

7

25

Hà Tĩnh

83,25

12

79,11

13

81,55

17

78,95

17

87,88

15

84,83

16

83,37

10

78,86

27

26

Hải Dương

80,94

33

75,55

41

76,60

39

69,74

51

84,18

43

79,26

45

74,18

47

74,87

40

27

Hải Phòng

84,35

4

83,68

5

84,35

5

87,24

2

92,59

2

91,81

2

86,93

2

83,05

6

28

Hậu Giang

81,05

31

76,42

35

76,32

41

62,55

63

86,05

28

78,85

47

76,98

39

80,52

15

29

Hòa Bình

79,44

52

74,94

46

72,91

55

72,88

37

84,03

44

81,24

36

78,41

30

67,81

56

30

Hưng Yên

81,98

22

77,04

27

78,76

29

73,80

31

79,49

56

80,18

41

75,53

43

69,40

54

31

Khánh Hòa

80,90

34

79,54

11

83,97

6

80,84

12

87,23

17

83,62

22

78,15

32

76,84

34

32

Kiên Giang

79,13

54

75,02

45

74,30

47

71,06

46

82,98

50

82,91

26

77,75

33

71,17

48

33

Kon Tum

78,49

59

69,57

62

71,48

58

66,24

58

75,92

61

74,89

58

70,82

56

67,68

57

34

Lai Châu

79,51

51

72,23

58

71,94

57

69,14

53

79,12

58

76,75

52

63,17

62

66,46

59

35

Lâm Đồng

80,66

40

74,90

47

73,99

48

70,17

48

86,22

26

81,94

30

78,69

28

70,22

50

36

Lạng Sơn

80,33

42

77,25

26

79,10

27

69,61

52

86,53

24

83,09

25

79,21

26

70,64

49

37

Lào Cai

82,85

15

78,47

21

79,94

21

75,28

27

84,42

39

85,52

9

83,32

11

80,36

17

38

Long An

84,33

5

81,02

7

82,82

12

74,76

30

86,63

23

78,54

48

73,36

50

79,96

20

39

Nam Định

80,70

39

75,60

40

76,50

40

72,27

40

83,29

47

79,20

46

73,80

49

75,29

39

40

Nghệ An

81,93(3)

24

76,97

29

78,27

31

72,75

38

86,80

21

80,00

44

74,33

46

77,31

31

41

Ninh Bình

83,47

8

80,32

9

81,64

15

81,21

11

88,07

14

80,43

40

79,15

27

80,73

13

42

Ninh Thuận

80,95

32

76,84(4)

32

76,99

35

78,07

19

86,32

25

82,28

28

77,30

37

77,63

30

43

Phú Thọ

82,01

20

78,45

22

82,93

11

77,33

21

88,37

11

86,45

7

85,79

4

79,56

23

44

Phú Yên

77,36

60

69,53

63

72,96

54

77,41

20

85,58

30

80,01

43

79,50

25

74,57

42

45

Quảng Bình

80,80

36

75,67

37

76,86

37

71,37

43

85,41

33

81,81

32

75,36

44

70,16

52

46

Quảng Nam

80,84

35

75,22

44

73,27

52

73,66

32

84,43

38

81,29

35

73,11

52

78,16

29

47

Quảng Ngãi

76,86

61

73,39

56

59,69

63

66,19

59

77,22

60

76,31

54

79,53

24

72,90

46

48

Quảng Ninh

90,09

1

89,06

1

89,45

1

82,73

6

90,22

6

84,89

14

79,59

23

80,21

19

49

Quảng Trị

81,32

28

76,90

30

81,50

18

80,03

14

84,41

40

81,19

37

72,79

53

71,60

47

50

Sóc Trăng

82,03

19

78,35

24

74,51

46

69,95

49

86,15

27

81,72

33

78,41

29

77,05

33

51

Sơn La

81,93(4)

23

78,83

17

81,25

19

73,62

33

84,18

42

75,43

56

58,91

63

64,08

61

52

Tây Ninh

80,05

44

74,84

48

77,76

32

71,30

44

85,98

29

84,63

18

78,17

31

80,29

18

53

Thái Bình

80,76

38

76,20

36

77,00

34

76,41

24

87,31

16

81,95

29

80,99

20

81,95

9

54

Thái Nguyên

83,01

14

78,78

18

78,55

30

69,03

54

86,71

22

80,05

42

77,01

38

79,03

26

55

Thanh Hóa

80,15

43

73,19

57

69,94

61

73,07

35

86,88

20

83,97

21

80,90

21

80,41

16

56

Thừa Thiên Huế

83,06

13

78,90

16

79,87

23

81,24

10

91,14

4

84,31

19

76,72

41

74,85

41

57

Tiền Giang

79,68

48

73,69

54

73,64

51

72,42

39

85,49

32

81,83

31

80,84

22

79,38

24

58

TP. Hồ Chí Minh

83,56

7

79,63

10

83,50

10

79,93

15

87,22

18

87,12

6

83,52

9

83,83

3

59

Trà Vinh

78,89

57

69,85

61

70,25

60

63,95

61

83,39

46

83,11

24

81,21

19

79,57

22

60

Tuyên Quang

82,82

16

78,71

19

79,89

22

77,28

22

83,24

49

76,45

53

72,69

54

68,90

55

61

Vĩnh Long

76,61

62

74,39

51

74,77

44

73,23

34

87,20

19

75,10

57

76,76

40

81,67

10

62

Vĩnh Phúc

83,37

10

79,05

14

80,29

20

81,39(5)

8

84,89

37

84,97

13

84,90

6

79,16

25

63

Yên Bái

81,66

26

76,61

34

76,26

42

67,78

56

83,26

48

78,17

50

73,18

51

76,55

35

GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH

81,15

 

76,92

 

77,72

 

74,64

 

85,11

 

81,21

 

77,56

 

76,08

 

 

PHỤ LỤC X

CHỈ SỐ HÀI LÒNG CỦA NGƯỜI DÂN, TỔ CHỨC ĐỐI VỚI SỰ PHỤC VỤ CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC - SIPAS QUA 03 NĂM (2017 - 2019)
(Kèm theo Báo cáo số 128/BC-CP ngày 19 tháng 4 năm 2021 của Chính phủ)

 (Đơn vị tính: SIPAS: %)

STT

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương

SIPAS 2019

SIPAS 2018

SIPAS 2017

1

An Giang

89,81

89,62

87,57

2

Bà Rịa - Vũng Tàu

83,70

83,04

72,18

3

Bắc Giang

89,18

82,45

93,14

4

Bắc Kạn

85,16

79,87

76,14

5

Bạc Liêu

81,08

88,89

89,66

6

Bắc Ninh

87,05

81,92

80,79

7

Bến Tre

86,58

86,56

88,49

8

Bình Phước

84,87

80,25

75,33

9

Bình Định

81,81

71,81

81,43

10

Bình Dương

88,02

85,03

79,58

11

Bình Thuận

73,81

73,33

70,23

12

Cà Mau

91,57

91,14

81,84

13

Cần Thơ

80,39

79,67

76,47

14

Cao Bằng

75,91

70,46

70,17

15

Đà Nẵng

85,49

87,43

86,19

16

Đắk Lắk

75,07

80,33

73,09

17

Đắk Nông

77,69

77,51

78,15

18

Điện Biên

85,00

86,01

79,31

19

Đồng Nai

86,89

87,48

88,70

20

Đồng Tháp

87,62

89,37

82,50

21

Gia Lai

84,45

74,21

74,29

22

Hà Giang

84,80

69,98

79,50

23

Hà Nam

88,33

87,99

83,08

24

Hà Nội

80,09

83,00

76,53

25

Hà Tĩnh

86,05

92,17

84,68

26

Hải Dương

90,74

91,83

92,18

27

Hải Phòng

92,22

90,86

88,92

28

Hậu Giang

87,84

86,38

82,87

29

Hòa Bình

85,33

79,72

78,58

30

Hưng Yên

91,03

95,24

76,18

31

Khánh Hòa

77,64

79,79

69,42

32

Kiên Giang

78,73

80,35

80,13

33

Kom Tum

86,94

81,81

67,70

34

Lai Châu

82,33

74,95

75,39

35

Lâm Đồng

86,78

80,04

72,83

36

Lạng Sơn

81,17

75,70

87,57

37

Lào Cai

83,05

79,45

79,16

38

Long An

85,59

76,68

86,35

39

Nam Định

75,95

87,90

69,80

40

Nghệ An

80,04

81,87

78,99

41

Ninh Bình

84,63

96,60

82,44

42

Ninh Thuận

81,04

77,40

95,10

43

Phú Thọ

85,89

75,87

86,65

44

Phú Yên

84,54

82,04

77,01

45

Quảng Bình

83,43

84,78

78,71

46

Quảng Nam

81,41

83,31

83,16

47

Quảng Ngãi

79,40

81,07

74,84

48

Quảng Ninh

95,26

91,15

92,88

49

Quảng Trị

85,26

73,31

83,13

50

Sóc Trăng

88,78

84,40

80,43

51

Sơn La

90,61

97,88

79,38

52

Tây Ninh

83,45

81,24

79,76

53

Thái Bình

85,17

91,62

75,66

54

Thái Nguyên

86,26

86,02

94,04

55

Thanh Hóa

86,33

86,75

80,58

56

Thừa Thiên Huế

78,37

82,25

81,35

57

Tiền Giang

83,39

76,42

79,18

58

TP. Hồ Chí Minh

80,80

71,91

71,19

59

Trà Vinh

89,95

83,91

86,08

60

Tuyên Quang

85,81

76,31

74,64

61

Vĩnh Long

79,77

73,93

82,30

62

Vĩnh Phúc

88,37

88,20

95,75

63

Yên Bái

86,84

79,37

77,71

GIÁ TRỊ TRUNG BÌNH

84,45

82,99

80,90

 

 

 



[1] Như Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Tố tụng hình sự…

[2] Trong số này, dự án Luật Thỏa thuận quốc tế đã được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020. Có 03 dự án luật, pháp lệnh đã đưa vào Chương trình, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến nhưng cần tiếp tục chuẩn bị nên chưa được ban hành (Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, Luật về Hội, Pháp lệnh Đào tạo một số chức danh tư pháp).

[3] Ngày 18/6/2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 63/2020/QH14 với nhiều nội dung đáng chú ý.

[4] Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương; Luật sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức…

[5] Giai đoạn 2011 - 2015, các bộ, cơ quan ban hành 3.017 thông tư, thông tư liên tịch; giai đoạn 2016 - 2020 (tính đến 31/5/2020) là 3.707 thông tư, thông tư liên tịch.

[6] Tính từ năm 2014 đến hết tháng 6 năm 2019, Quốc hội đã bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới hơn 100 văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Trong số đó có những đạo luật cơ bản, quan trọng như Bộ luật Hình sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Luật Trưng cầu ý dân năm 2015, Luật An toàn thông tin mạng năm 2015, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, Luật Trẻ em năm 2016, Luật Báo chí năm 2016, Luật Tiếp cận thông tin năm 2016, Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017, Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017, Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Đặc xá năm 2018, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, Luật Thi hành án hình sự năm 2019…

[7] Giai đoạn 2011 - 2015: Tổng số VBQPPL của địa phương là 283.546; giai đoạn 2016 - 2020 là 102.280 VBQPPL.

[8] Năm 2019, cuối năm nợ ban hành là 10 văn bản; đến thời điểm hiện tại, số văn bản nợ là 41 văn bản quy định chi tiết 13 luật đã có hiệu lực. Đến ngày 28/10/2020, số văn bản nợ ban hành là 21 văn bản quy định chi tiết 09 luật đã có hiệu lực.

[9] Tính từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ khóa XIV đến nay, đã cắt giảm 3.893/6.191 điều kiện kinh doanh; 6.776/9.926 danh mục hàng hóa phải kiểm tra chuyên ngành; tổng chi phí xã hội tiết kiệm được khoảng hơn 18 triệu ngày công/năm, tương đương hơn 6.300 tỷ đồng/năm. Các bộ, ngành đã có phương án xử lý 1.501 mặt hàng có chồng chéo về thẩm quyền.

[10] Nghị định số 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010; Nghị định số 48/2013/NĐ-CP ngày 14/5/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến kiểm soát TTHC; Nghị định số 92/2017/NĐ-CP ngày 07/8/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định liên quan đến kiểm soát TTHC; Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC; Nghị định số 09/2019/NĐ-CP về chế độ báo cáo trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước; Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 22/5/2020 về thực hiện TTHC trên môi trường điện tử. Luật Ban hành VBQPPL 2015, các văn bản quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật đã điều chỉnh 02 nội dung về thẩm quyền quy định TTHC và yêu cầu đánh giá tác động TTHC ngay từ giai đoạn lập đề nghị xây dựng cho đến giai đoạn soạn thảo VBQPPL.

[11] Ngày 25/3/2015 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg về Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương thay thế Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007. Tiếp theo đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2018/NĐ-CP ngày 23/4/2018 về cơ chế một cửa, một cửa liên thông trong giải quyết TTHC (sau đây gọi tắt là Nghị định số 61/2018/NĐ-CP), thay thế Quyết định số 09/2015/QĐ-TTg.

[12] Quyết định số 846/QĐ-TTg ngày 09/6/2017, Quyết định số 877/QĐ-TTg ngày 18/7/2018.

[13] Theo kết quả thống kê từ năm 2011 đến tháng 12/2016, các bộ, ngành, địa phương đã tiếp nhận trên 8.000 phản ánh, kiến nghị về quy định hành chính, trong đó đã xử lý trên 7.000 phản ánh, kiến nghị thuộc thẩm quyền, đạt trên 85%. Kể từ khi thành lập (ngày 03/4/2017 đến hết năm 2020), Hệ thống tiếp nhận phản ánh, kiến nghị của người dân đã tiếp nhận 4.855 phản ánh, kiến nghị, trong đó, 1.914 phản ánh, kiến nghị thuộc phạm vi xem xét, xử lý; đã tiến hành phân loại và chuyển 1.364 phản ánh, kiến nghị đến các bộ, ngành, địa phương để xem xét, xử lý theo thẩm quyền; số còn lại đang đề nghị người dân bổ sung thông tin làm cơ sở xem xét, chuyển xử lý; các bộ, ngành, địa phương đã trả lời 1.153/1.364 phản ánh, kiến nghị (đạt 84,53%).

[14] Quyết định số 1380/QĐ-TTg ngày 18/10/2018 của Thủ tướng Chính phủ.

[15] Công văn số 4173/VPCP-KSTT ngày 08/5/2018 của Văn phòng Chính phủ thông báo ý kiến chỉ đạo của TTCP.

[16] Văn bản số 4798/BC-VPCP ngày 23/5/2018 của Văn phòng Chính phủ; Văn bản số 4979/VPCP-KSTT ngày 28/5/2018 của Văn phòng Chính phủ.

[17] Việc chậm sửa đổi, bổ sung quy trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật và quy chế phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị có liên quan trong việc tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về quy định hành chính và việc công bố, công khai TTHC đã ảnh hưởng đến kết quả triển khai công tác kiểm soát TTHC của bộ, ngành, địa phương nói riêng cũng như kết quả cải cách thủ tục hành chính nói chung trên phạm vi cả nước.

[18] Thành phố Hồ Chí Minh đã điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của Sở Xây dựng, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Giao thông vận tải khác với Nghị định số 24/2014/NĐ-CP; điều chỉnh về chức năng, nhiệm vụ của các phòng Tài chính - Kế hoạch, Văn hóa - Thông tin, Kinh tế khác với Nghị định số 37/2014/NĐ-CP; 13 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép thành lập Sở Du lịch. Việc nhập các trung tâm thuộc các lĩnh vực y tế, nông nghiệp và phát triển nông thôn ở huyện được thực hiện ở nhiều địa phương.

[19] Kế hoạch số 07-KH/TW ngày 27/11/2017 về thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW; Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 24/12/2018 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã; Kết luận số 17-KL/TW ngày 11/9/2018 về tình hình thực hiện biên chế, tinh giản biên chế của các tổ chức trong hệ thống chính trị năm 2015 - 2016, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp giai đoạn 2017 - 2021; Kết luận số 34-KL/TW ngày 07/8/2018 của Bộ Chính trị về thực hiện một số mô hình thí điểm theo Nghị quyết số 18-NQ/TW; Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 của Quốc hội về tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; Nghị quyết số 653/2019/UBTVQH14 ngày 12/3/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 03/02/2018 của Chính phủ về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW, Kế hoạch số 07-KH/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội; Nghị quyết số 32/NQ-CP ngày 14/5/2019 về ban hành kế hoạch thực hiện sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021; Văn bản số 2115/BNV-CQĐP ngày 16/5/2019 của Bộ Nội vụ hướng dẫn mẫu hồ sơ đề án sắp xếp các ĐVHC cấp huyện, cấp xã trong giai đoạn 2019 - 2021....

[20] Trong giai đoạn 2011 - 2020, tổ chức bộ máy lực lượng Công an đã giảm 06 tổng cục, 01 đơn vị tương đương tổng cục, 55 đơn vị cấp cục, 20 Cảnh sát phòng cháy và chữa cháy cấp tỉnh, 07 trường Công an nhân dân.

[21] Gồm có: Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014; Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014; Nghị định số 107/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/4/2014 của Chính phủ; Nghị định số 108/2020/NĐ-CP ngày 14/9/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05/5/2014 của Chính phủ.

[22] Nghị định số 179/2007/NĐ-CP ngày 03/12/2007; Nghị định số 08/2012/NĐ-CP ngày 16/02/2012; Nghị định số 138/2016/NĐ-CP ngày 01/10/2016.

[23] Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 21/3/2016 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước giữa Chính phủ và UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

[24] Đồng Tháp, Kiên Giang, Vĩnh Long, An Giang, Hậu Giang, Tiền Giang, Bến Tre, Cà Mau, Đồng Nai, Bình Dương, Bình Phước, Phú Yên, Bình Định, Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum, Đắk Lắk, Quảng Trị, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Đà Nẵng, Lào Cai, Hà Tĩnh, Hưng Yên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thanh Hóa, Tuyên Quang, Hải Dương, Tây Ninh, Trà Vinh, Cần Thơ, Sơn La, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế.

[25] Cụ thể với các nội dung: (1) Kết hợp đặt trụ sở Bộ phận Một cửa các cấp tại trụ sở của Bưu điện (đã triển khai tại 14 Trung tâm Hành chính công, 28 Bộ phận Một cửa cấp huyện, 48 Bộ phận Một cửa cấp xã); (2) Bố trí nhân viên bưu điện hỗ trợ công chức, viên chức tại Bộ phận Một cửa các cấp trong việc tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả (tại 16 Trung tâm Hành chính công, 36 Bộ phận Một cửa cấp huyện, 38 Bộ phận Một cửa cấp xã); (3) Hỗ trợ, hướng dẫn người dân, doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ công trực tuyến.

[26] Báo cáo số 392/BC-CP ngày 22/9/2017 của Chính phủ, Phụ lục XVIII.

[27] Như: Nghị định số 41/2012/NĐ-CP ngày 08/5/2012 quy định vị trí việc làm trong ĐVSNCL; Nghị định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 quy định vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức; Thông tư số 14/2012/TT-BNV ngày 18/12/2012 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 41/2012/NĐ-CP; Thông tư số 05/2013/TT-BNV ngày 25/6/2013 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 36/2013/NĐ-CP; Nghị định số 21/2010/NĐ-CP, Nghị định số 110/2015/NĐ-CP ngày 29/10/2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 của Chính phủ về quản lý biên chế công chức...

[28] Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; Nghị định số 03/NĐHN-BNV ngày 21/5/2019 về tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức; Nghị định số 161/2018/NĐ-CP ngày 29/11/2018 sửa đổi, bổ sung một số quy định về tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức và thực hiện chế độ hợp đồng một số loại công việc trong cơ quan hành chính nhà nước, ĐVSNCL; Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Chương trình quốc gia về học tập ngoại ngữ cho cán bộ, công chức, viên chức giai đoạn 2019 - 2030”; Nghị định số 62/2020/NĐ-CP ngày 01/6/2020 về vị trí việc làm và biên chế công chức; Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 106/2020/NĐ-CP ngày 10/9/2020 về vị trí việc làm và số người làm việc trong ĐVSNCL; Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 115/2020/NĐ-CP ngày 25/9/2020 về tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức.

[29] Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 88/2017/NĐ-CP ngày 27/7/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 56/2015/NĐ-CP. Gần đây nhất, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2020/NĐ-CP ngày 13/8/2020 về đánh giá, xếp loại chất lượng cán bộ, công chức, viên chức.

[30] Tại Quyết định số 1659/QĐ-TTg ngày 19/11/2019 của Thủ tướng Chính phủ.

[31] Trong số 5,4 triệu lượt người được đào tạo, bồi dưỡng nói trên, có khoảng 697.036 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; 447.181 lượt người được bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước và khoảng hơn 4,2 triệu lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ (gấp hơn 2,3 lần so với giai đoạn 2011 - 2015).

[32] Nghị định số 112/2020/NĐ-CP ngày 18/9/2020 của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức; Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 19/3/2014 về việc đẩy mạnh phòng, chống tiêu cực trong công tác quản lý công chức, viên chức và thi đua khen thưởng; Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 về tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp; Chỉ thị số 27/CT-TTg ngày 08/9/2016 về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh...

[33] Bộ luật Lao động năm 2012; Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21/5/2018, Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018, Kế hoạch số 547-KH/BCSĐ ngày 12/9/2018 của Ban cán sự Đảng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, Quyết định số 1477/QĐ-LĐTBXH ngày 25/10/2018 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về kế hoạch triển khai thực hiện phân công của Chính phủ tại Nghị quyết số 107/NQ-CP; Nghị định số 51/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 và Nghị định số 52/2016/NĐ-CP ngày 13/6/2016 quy định tiền lương, thù lao, tiền thưởng đối với người lao động và người quản lý trong công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

[34] Nghị định số 334/2012/NĐ-CP ngày 15/4/2012 của Chính phủ về chế độ phụ cấp công vụ.

[35] Gồm các Nghị định số: 22/2011/NĐ-CP, 31/2012/NĐ-CP, 66/2013/NĐ-CP, 47/2016/NĐ-CP, 47/2017/NĐ-CP, 72/2018/NĐ-CP, 38/2019/NĐ-CP.

Giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đã 06 lần điều chỉnh mức lương cơ sở, từ 730.000 đồng lên 1.490.000 đồng, tăng 104%, bình quân tăng 7,6%/năm.

[36] Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội.

[37] Trong đó có 1 doanh nghiệp do Cục PTTTDN cấp Giấy chứng nhận.

[38] Trong đó có 6 doanh nghiệp do Cục PTTTDN cấp Giấy chứng nhận.

[39] Gặp khó khăn trong việc cấp Giấy chứng nhận DNKHCN do những vướng mắc, khó khăn trong việc giao quyền kết quả nhiệm vụ KHCN sử dụng NSNN theo Nghị định số 70/2018/NĐ-CP.

[40] Tỷ lệ này năm 2014 là 69,7%; năm 2015 là 68,6% và tăng dần trong giai đoạn 2016 - 2018 (năm 2016 là 67,9%, năm 2017 là 71,2% và năm 2018 là 73,2%).

[41] Năm 2014 là 58,9%; năm 2015 là 59,1%; năm 2016 là 55%; năm 2017 là 52,3%; năm 2018 là 52,3%.

[42] Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015; Nghị định số 141/2016/NĐ-CP ngày 10/10/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác; Nghị định số 54/2016/NĐ-CP ngày 14/6/2016 của Chính phủ quy định cơ chế tự chủ của tổ chức khoa học và công nghệ công lập.

[43] Số liệu ĐVSNCL tự chủ của các tỉnh, thành phố bao gồm: đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp tỉnh; đơn vị sự nghiệp công lập thuộc cơ quan chuyên môn của UBND tỉnh; đơn vị sự nghiệp công lập thuộc UBND cấp huyện.

[44] Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/4/2007 của Chính phủ về ƯDCNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, Quyết định số 1605/QĐ-TTg ngày 27/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ƯDCNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2011 - 2015, Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế và Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử; Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/05/2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục Cơ sở dữ liệu Quốc gia cần ưu tiên triển khai tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử; Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/3/2019 của Chính phủ về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển Chính phủ điện tử giai đoạn 2019 - 2020, định hướng đến 2025; Nghị định số 73/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ quy định quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước; Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 30/01/2018 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Công nghệ thông tin giai đoạn 2016 - 2020; Nghị định số 45/2020/NĐ-CP ngày 08/4/2020 của Chính phủ về triển khai thực hiện TTHC trên môi trường điện tử; Nghị định số 47/2020/NĐ-CP ngày 09/4/2020 của Chính phủ về quản lý, kết nối và chia sẻ dữ liệu số của cơ quan nhà nước...

[45] Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định cung cấp thông tin DVCTT trên Trang thông tin điện tử hoặc Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.

[46] Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”; Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 01/8/2018 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án phát triển đô thị thông minh bền vững Việt Nam giai đoạn 2018 - 2025 và định hướng đến năm 2030.

[47] Tại Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ.

[48] Các đơn vị chưa tích hợp chữ ký số: Đài Tiếng nói Việt Nam, Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước, Bạc Liêu, Hải Dương.

[49] Báo cáo tình hình phát triển và ứng dụng chữ ký số tại Việt Nam được Bộ Thông tin và Truyền thông phát hành thường niên về lĩnh vực chứng thực chữ ký số từ năm 2016. Trong các năm qua, Báo cáo đã được phát hành rộng rãi và trở thành tài liệu tham khảo hữu ích của nhiều cơ quan, tổ chức, chuyên gia trong và ngoài nước về lĩnh vực chữ ký số nói riêng và phát triển Chính phủ điện tử nói chung.

[50] Cổng Dịch vụ công quốc gia kết nối, tích hợp với Cổng dịch vụ công, hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp bộ, cấp tỉnh từ ngày 09/12/2019. Đến nay, Cổng Dịch vụ công quốc gia đã tích hợp, cung cấp hơn 2.650 dịch vụ công trực tuyến trên tổng số gần 6.700 TTHC tại 4 cấp chính quyền; hơn 97 triệu lượt truy cập, trên 406 nghìn tài khoản đăng ký, hơn 26,6 triệu hồ sơ đồng bộ trạng thái; hơn 687 nghìn hồ sơ thực hiện trực tuyến trên Cổng; tiếp nhận, hỗ trợ trên 41 nghìn cuộc gọi, xử lý hơn 9.000 phản ánh, kiến nghị; chi phí xã hội tiết kiệm được khi thực hiện dịch vụ công trực tuyến khoảng 8.000 tỷ đồng/năm.

[51] Tính từ ngày khai trương 24/6/2019 đến tháng 11/2020, Hệ thống đã phục vụ 24 Hội nghị, phiên họp của Chính phủ và thực hiện xử lý 625 phiếu lấy ý kiến Thành viên Chính phủ thay thế việc phát hành hơn 230 nghìn phiếu giấy, hồ sơ, tài liệu kèm theo. Chi phí tiết kiệm được khi sử dụng Hệ thống khoảng 169 tỷ đồng/năm.

[52] Hệ thống thông tin báo cáo Quốc gia và Trung tâm thông tin, chỉ đạo điều hành Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ khai trương ngày 19/8/2020 là hạ tầng số thông minh phục vụ chỉ đạo, điều hành dựa trên dữ liệu số phù hợp theo lộ trình chuyển đổi số quốc gia. Đến nay Hệ thống đã kết nối 14 bộ, cơ quan, 37 địa phương và 106/200 chỉ tiêu kinh tế - xã hội phục vụ chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Chi phí tiết kiệm khi vận hành Hệ thống này khoảng 460 tỷ đồng/năm. Hiện tại, 106/106 chỉ tiêu kết nối đã cung cấp dữ liệu, hiển thị trên các Bảng theo dõi trực quan (Infographic) tại Trung tâm thông tin; kết nối ổn định, thông suốt của 12 thông tin, dữ liệu trực tuyến của các bộ, cơ quan: Tài chính, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Ủy ban Quốc gia Ứng phó sự cố thiên tai và Tìm kiếm cứu nạn, Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia; phối hợp với 54/63 tỉnh cung cấp dữ liệu trực tuyến cho 08 chỉ tiêu kinh tế - xã hội; tương tác, điều hành trực tuyến thông qua hệ thống mạng dữ liệu của Bộ Quốc phòng, mạng chuyên dùng, Internet với gần 30 điểm cầu tại các bộ, ngành, địa phương.

[53] Nghị định số 30/2020/NĐ-CP ngày 05/3/2020 của Chính phủ về công tác văn thư; Thông tư số 01/2019/TT-BNV ngày 24/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Thông tư số 02/2019/TT-BNV ngày 24/01/2019 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; Kế hoạch thực hiện Quyết định số 458/QĐ-TTg ngày 03/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án “Lưu trữ tài liệu điện tử của các cơ quan nhà nước giai đoạn 2020 - 2025”.

[54] Ví dụ: Thực hiện kết nối mạng các cơ sở cung ứng thuốc nhằm tăng cường quản lý, kiểm soát thuốc đối với cơ quan quản lý, các cơ sở cung ứng thuốc và cơ sở y tế: Đến nay đã có 63/63 tỉnh, thành phố đã triển khai phần mềm quản lý; trong đó có 56.817/61.000 cơ sở kết nối liên thông (nhà thuốc, quầy thuốc) đạt 93,1%; với nhà thuốc, có 21.000/21.000 nhà thuốc đã triển khai phần mềm, đạt 100%; với quầy thuốc, có 31.055/40.000 quầy thuốc đã triển khai phần mềm, đạt 77,6%. Xây dựng và triển khai quản lý hồ sơ sức khỏe điện tử đến từng người dân, thực hiện kết nối, chia sẻ thông tin cơ bản với dữ liệu quốc gia về dân cư: Đến nay, Bộ Y tế đã triển khai phần mềm hồ sơ sức khỏe tại 08 tỉnh: Bà Rịa - Vũng Tàu, Nghệ An, Phú Yên, Bình Dương, Nam Định, Thái Bình, Lâm Đồng, Phú Thọ.

[55] Tính đến 31/3/2020.

[56] Các hình thức: Hội thảo, tọa đàm, báo chí, truyền hình.

[57] Năm 2015: Các Bộ: Tài chính, Tư pháp, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

[58] Từ năm 2016 - 2020: Các Bộ: Tài chính, Tư pháp, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thông tin và Truyền thông, Công an, Y tế.

[59] Tính đến 31/3/2020.

1 Tính đến 31/5/2020.

2 Tính đến 31/5/2020.

1 Tính đến 31/3/2020.

2 Số liệu trung bình TTHC của 63 tỉnh, thành phố.

3 Tính đến 31/3/2020.

1 Tính đến 31/12/2010.

2 Tính đến 31/12/2019.

3 “ ”: Tăng/“-”: Giảm.

4 Tính đến 31/12/2010.

5 Tính đến 31/12/2019.

[60] “ ”: Tăng/“-”: Giảm

1 Tính đến 31/3/2020.

2 Tính đến 31/3/2020.

1 Tính đến 31/3/2020.

2 Tính đến 31/3/2020.

1 Tính đến 31/3/2020.

2 Tính đến 31/3/2020.

1 ParIndex 2016: Giá trị tuyệt đối của tỉnh Đồng Tháp là 81,38994.

2 ParIndex 2018: Giá trị tuyệt đối của tỉnh Hà Giang là 76,8359.

3 ParIndex 2019: Giá trị tuyệt đối của tỉnh Nghệ An là 81,92632.

4 ParIndex 2018: Giá trị tuyệt đối của tỉnh Ninh Thuận là 76,8384.

4 ParIndex 2019: Giá trị tuyệt đối của tỉnh Sơn La là 81,92736.

5 ParIndex 2016: Giá trị tuyệt đối của tỉnh Vĩnh Phúc là 81,38982.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Báo cáo 128/BC-CP năm 2021 tổng kết Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020 và định hướng giai đoạn 2021-2030 do Chính phủ ban hành

  • Số hiệu: 128/BC-CP
  • Loại văn bản: Báo cáo
  • Ngày ban hành: 19/04/2021
  • Nơi ban hành: Chính phủ
  • Người ký: ***
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Từ số 569 đến số 570
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản