Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
BAN TÔN GIÁO CHÍNH PHỦ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 01/1999/TT-TGCP | Hà Nội, ngày 16 tháng 06 năm 1999 |
Căn cứ Điều 29 Nghị định của Chính phủ số 26/1999/NĐ-CP ngày 19/4/1999 về các hoạt động tôn giáo, Ban Tôn giáo của Chính phủ ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định này như sau
Nghị định gồm 29 điều trong đó Điều 1, Điều 2, Điều 3, Điều 4, Điều 5 tạo nên chương: "Những quy định chung", Điều 6, Điều 7, Điều 8, Điều 9, Điều 10, Điều 11, Điều 12, Điều 13, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 17, Điều 18, Điều 19, Điều 20, Điều 21, Điều 22, Điều 23, Điều 24, Điều 25, Điều 26 tạo nên chương "Những quy định cụ thể" và Điều 27, Điều 28, Điều 29 tạo nên chương "Điều khoản thi hành".
Ban Tôn giáo của Chính phủ không hướng dẫn thực hiện tất cả mọi điều trong Nghị định. Lý do là vì có nhiều điều tự thân đã khá rõ ràng cụ thể, có một số điều cần phải liên tịch với bộ, ban, ngành khác có liên quan và có một số điều chưa đủ điều kiện để có thể cụ thể hoá ngay được.
Ban Tôn giáo của Chính phủ chỉ hướng dẫn thực hiện một số điều mà khi kết hợp với các luật, pháp lệnh, nghị định, quy phạm hiện hành, đã có thể định tính, định lượng cụ thể từng vấn đề được đặt ra.
Cụ thể là Thông tư này hướng dẫn về những điều sau đây:
Điều 4, Điều 5 về chế tài chung các hoạt động tôn giáo
Điều 7, Điều 8 về hoạt động tôn giáo tại cơ sở thờ tự.
Điều 11 về việc xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo.
Điều 12 về việc xây dựng, sửa chữa, tu bổ các di tích lịch sử, văn hoá đã được xếp hạng.
Điều 14 về việc in, xuất bản các loại kinh sách và các xuất bản phẩm tôn giáo; sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm, đồ dùng trong việc đạo.
Điều 16 về xử lý người mạo danh chức sắc, nhà tu hành để hoạt động tôn giáo.
Điều 18 về trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành.
Điều 19 về hoạt động dòng tu (hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể tương tự).
Điều 20, Điều 21 về việc phong chức, bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành, những người chuyên hoạt động tôn giáo kể cả những người do tín đồ bầu ra.
Sau đây là bản hướng dẫn từng đề mục theo thứ tự đã nêu trên.
I. CHẾ TÀI CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO (ĐIỀU 4, ĐIỀU 5 NGHỊ ĐỊNH 26)
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo.
Nhà nước bảo đảm các hoạt động tôn giáo vì lợi ích chính đáng và hợp pháp của tín đồ.
Nhà nước khuyến khích các hoạt động tôn giáo vì lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Mọi hành vi vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đều bị xử lý theo pháp luật cho dù hành vi ấy thuộc về chức sắc, chức việc, tín đồ hay tổ chức, cơ quan, cá nhân có chức năng quản lý Nhà nước.
Mọi hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để chống lại Nhà nước, ngăn cản tín đồ làm nghĩa vụ công dân, phá hoại sự nghiệp đoàn kết toàn dân, làm hại đến nền văn hoá lành mạnh của dân tộc, hoạt động mê tín dị đoan đều bị xử lý theo pháp luật.
Pháp luật nói ở đây là Pháp lệnh xử lý hành chính với Điều 12 (cảnh cáo), Điều 25 (quản chế hành chính), Pháp lệnh cán bộ, công chức với Điều 39, Luật khiếu nại tố cáo với Điều 1, Điều 6 và Bộ luật Hình sự với Điều 73, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 198, Điều 199, Điều 205, Điều 205a, Điều 221.
II. HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO TẠI CƠ SƠ THỜ TỰ (ĐIỀU 7, ĐIỀU 8 NGHỊ ĐỊNH 26)
1. Chức sắc, nhà tu hành chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động tôn giáo trong phạm vi phụ trách.
2. Người chủ trì cơ sở thờ tự hàng năm phải đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo (các buổi cầu nguyện, hành lễ, giảng đạo, học tập giáo lý) với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã sở tại và nếu đã được sự chấp thuận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã, thực hiện trong khuôn viên cơ sở thờ tự thì không phải xin phép.
3. Những hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài khuôn viên cơ sở thờ tự hoặc người chủ trì cơ sở thờ tự chưa đăng ký hàng năm thì người chủ trì cơ sở thờ tự phải:
a) Xin phép Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã nếu những hoạt động chỉ thuần tuý tôn giáo và chỉ có người trong xã, phường đến dự.
b) Xin phép Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nếu những hoạt động tôn giáo có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội và người từ huyện, quận khác đến dự.
c) Trong trường hợp có người từ tỉnh, thành khác đến dự thì cũng chỉ xin phép Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sở tại, Ban Tôn giáo của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cần báo cáo kịp thời cho Ban Tôn giáo của Chính phủ biết.
4. Tại cơ sở thờ tự, tín đồ được tham gia các hoạt động tôn giáo, học tập giáo lý, đạo đức, phục vụ lễ nghi tôn giáo. Những hoạt động này chỉ diễn ra trong khuôn viên cơ sở thờ tự.
III. VỀ CƠ SỞ THỜ TỰ CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO.
1. Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo (Điều 11 Nghị định 26)
Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo là sở hữu chung của cộng đồng tín đồ được Nhà nước bảo hộ (Điều 70 Hiến pháp, Điều 234 Bộ luật Dân sự).
Cơ sở thờ tự bao gồm: nhà chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường, trụ sở của tổ chức tôn giáo, nhà nguyện, trai phòng, hội quán và những công trình phụ cận như: tượng, đài, bia, tháp được xây dựng trong khuôn viên.
Không để cơ sở thờ tự bị lấn chiếm. Nhà nước bảo hộ cơ sở thờ tự tôn giáo.
Nhà nước không chấp thuận việc chuyển giao nhà đất của cá nhân thành cơ sở thờ tự tôn giáo dưới bất cứ hình thức nào.
Cơ sở thờ tự của tổ chức tôn giáo đã hiến cho Nhà nước để sử dụng vào các việc công ích (trường học, bệnh viện, cơ sở từ thiện nhân đạo.v.v..) thì không đặt vấn đề trả lại.
Cơ sở thờ tự của các tổ chức tôn giáo cho mượn có thời hạn nay đã hết hạn thì phải trả lại. Nếu có nhu cầu sử dụng phải thoả thuận với tổ chức tôn giáo. Khi trả lại thì phải giải quyết thoả đáng lợi ích của các bên liên quan theo chính sách, pháp luật hiện hành.
2. Về cơ sờ thờ tự là di tích lịch sử văn hoá đã được xếp hạng
Việc sửa chữa, xây dựng tại cơ sở thờ tự được Nhà nước xếp hạng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh thực hiện theo Điều 11, Nghị định 288/HĐBT ngày 31/12/1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định thi hành "Pháp lệnh bảo vệ, sử dụng di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh".
Khu vực I phải bảo tồn nguyên trạng mọi yếu tố gốc còn lại. Nghiêm cấm bất cứ một sự thay đổi, bổ sung mới dù là nhỏ nhất. Trường hợp có trùng tu di tích phải theo đúng kiểu mẫu cũ.
Khu vực II là khu vực bao quanh khu vực I có thể xây dựng được tượng đài, bia tháp hoặc các công trình văn hoá khác nhằm mục đích tôn tạo khu di tích, thắng cảnh.
Khu vực III là khung cảnh thiên nhiên và thắng cảnh của di tích; có thể xây dựng thêm những công trình dịch vụ như nhà tiếp khách, nhà văn hoá hoặc vườn hoa, công viên nhưng phải bảo đảm sự hài hoà trong không gian của di tích thắng cảnh.
Mọi công trình xây dựng trên khu vực bảo vệ của di tích thắng cảnh đã được xếp hạng phải được phép của Bộ Văn hoá - Thông tin.
3. Tu bổ, sửa chữa cơ sở thờ tự nói chung
Việc tu bổ và sửa chữa nhỏ như trát vá, quét vôi, đảo ngói, lát nền, thay cửa và cải tạo sửa chữa, lắp đặt thiết bị đường ống trong nhà và trong khuôn viên, trang trí nội thất không ảnh hưởng đến kết cấu công trình các nhà lân cận và bộ mặt đường phố được miễn giấy phép xây dựng. Tuy nhiên trước khi sửa chữa nhỏ phải thông báo cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã sở tại biết.
Việc sửa chữa lớn làm thay đổi cấu trúc, kiến trúc công trình tại cơ sở thờ tự, việc khôi phục công trình thờ tự bị hoang phế, bị huỷ hoại do chiến tranh, thiên tai, rủi ro; việc tạo lập cơ sở thờ tự, việc xây dựng công trình thờ tự (nhà, tượng, bia, đài, tháp và các công trình nhằm mục đích thờ tự) người chủ trì cơ sở thờ tự phải:
Làm đơn xin phép Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Thủ tục hành chính cấp giấy phép xây dựng tại Thông tư số 05/BXD/KTQH ngày 18/9/1996 của Bộ Xây dựng.
Việc tổ chức quyên góp để tạo nguồn tài chính cho xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự phải được phép Chủ tịch ủy ban Nhân dân cấp tỉnh.
Người chủ trì cơ sở thờ tự làm sai giấy phép hoặc không xin phép thì sẽ bị xử lý hành chính theo các Điều 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 của Nghị định 48/CP ngày 5/5/1997 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong quản lý xây dựng và Điều 12, 14 và 16 của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính.
IV. IN, XUẤT BẢN CÁC LOẠI KINH, SÁCH VÀ CÁC XUẤT BẢN PHẨM TÔN GIÁO; SẢN XUẤT KINH DOANH , XUẤT NHẬP KHẨU VĂN HOÁ PHẨM, ĐỒ DÙNG TRONG VIỆC ĐẠO (ĐIỀU 14 NGHỊ ĐỊNH 26)
1. Nhà nước cho phép các tổ chức tôn giáo được in, xuất bản các loại sách kinh, các ấn phẩm tôn giáo; được sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo, đồ dùng việc đạo.
2. Các thủ tục hành chính cho việc in, xuất bản, sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm tôn giáo theo những quy định sau đây:
a) Thủ tục hành chính về in, xuất bản các loại kinh, ấn phẩm tôn giáo.
Tổ chức tôn giáo có nhu cầu cần in, xuất bản các loại kinh, sách, văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo phải đăng ký đề tài xuất bản với Nhà Xuất bản Tôn giáo trực thuộc Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày nhận được đơn, Giám đốc Nhà Xuất bản Tôn giáo có trách nhiệm giải quyết và trả lời bằng văn bản.
Nghiêm cấm việc chuyển, nhượng giấy phép xuất bản dưới bất cứ hình thức nào (Điều 9 - Nghị định 79/CP ngày 6/11/1993 của Chính phủ quy định chi tiết việc thi hành Luật Xuất bản).
b) Thủ tục hành chính về xuất, nhập khẩu văn hoá có nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những đồ dùng trong việc đạo:
Các tổ chức tôn giáo thuộc Trung ương hoặc thuộc địa phương và những người thuộc các tổ chức đó xuất văn hoá phẩm có nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những hiện vật phục vụ cho công việc tôn giáo, nếu có văn bản đồng ý của Ban Tôn giáo của Chính phủ (ở Trung ương) hoặc Ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (ở địa phương) thì cơ quan văn hoá sẽ cấp giấy phép làm thủ tục hải quan (Điều 4 - Quyết định 893 QĐ-CP ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin Thể thao quy định về xuất, nhập khẩu văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh).
Các tổ chức tôn giáo thuộc Trung ương hoặc thuộc địa phương và những người thuộc các tổ chức đó, nhập văn hoá phẩm nội dung tôn giáo hoặc liên quan đến tôn giáo và những hiện vật phục vụ cho công việc tôn giáo phải làm đơn xin phép trước, nếu được sự đồng ý bằng văn bản của Ban Tôn giáo của Chính phủ (ở Trung ương) hoặc Ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (ở địa phương) thì cơ quan văn hoá sẽ cấp giấy phép nhập khẩu (Điều 10 - Quyết định 893/QĐ-CP ngày 20/7/1992 của Bộ Văn hoá Thông tin Thể thao quy định về xuất, nhập khẩu văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh).
c) Những trường hợp xuất bản, kinh doanh, lưu hành, tàng trữ, xuất nhập khẩu văn hoá phẩm trái quy định của pháp luật thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm sẽ bị xử lý theo Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: cảnh cáo (Điều 12); phạt tiền (Điều 13); tước quyền sử dụng giấy phép (Điều 14); tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính (Điều 15) hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 215/BLHS và các điều khác có liên quan).
V. HOẠT ĐỘNG DÒNG TU HOẶC CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC TU HÀNH TẬP THỂ TƯƠNG TỰ
1. Đăng ký hoạt động của dòng tu hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể (Điều 19 Nghị định 26)
Các dòng tu (hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể tương tự) đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam cần thực hiện việc đăng ký hoạt động với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền:
Dòng tu (hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể tương tự) hình thành và hoạt động trong phạm vi chỉ một tỉnh hoặc thành phố, người đứng đầu dòng tu phải xin phép và có sự chấp thuận của Trưởng ban Tôn giáo của ủy ban nhân dân cấp tỉnh (trong trường hợp không có Ban Tôn giáo thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh).
Dòng tu (hoặc các hình thức tu hành tập thể) của các tôn giáo khác hình thành và hoạt động trên phạm vi liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, người đứng đầu dòng tu phải xin phép và có sự chấp thuận của Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ.
2. Một số quy định tổ chức hoạt động của dòng tu (hoặc các hình thức tổ chức tu hành tập thể tương tự)
Việc bầu bề trên dòng phải được sự chấp thuận của Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ. Trường hợp bầu bề trên dòng trong phạm vi một tỉnh (hoặc thành phố) phải có sự chấp thuận của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Người đứng đầu dòng tu (hoặc hình thức tổ chức tu hành tập thể tường tự) chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động.
Mọi dòng tu (hoặc các hình thức tu hành tập thể) phải xây dựng quy chế hoạt động với nội dung:
Tôn chỉ, mục đích của dòng tu.
Hệ thống tổ chức và quản lý của dòng tu.
Hoạt động xã hội của dòng tu.
Cơ sở vật chất của dòng tu.
Quan hệ xã hội của dòng tu.
Quan hệ quốc tế của dòng tu.
3. Người nhập tu phải thực hiện những quy định sau đây:
Có đơn xin Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
Lý lịch rõ ràng có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú;
Người đứng đầu dòng tu chấp thuận;
Tu sinh vị thành niên được cha mẹ hay người giám hộ cam kết đồng ý.
Người nhập tu phải thực hiện việc đăng ký hộ khẩu theo quy định tại Nghị định 51/CP ngày 10/9/1997 của Chính phủ về việc đăng ký và quản lý hộ khẩu.
Nhà nước cấm không cho nhập tu những người trốn tránh pháp luật và các nghĩa vụ công dân.
VI. PHONG CHỨC, BỔ NHIỆM, THUYÊN CHUYỂN CHỨC SẮC, NHÀ TU HÀNH, NHỮNG NGƯỜI CHUYÊN HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO KỂ CẢ NHỮNG NGƯỜI DO TÍN ĐỒ BẦU RA (ĐIỀU 20, 21 NGHỊ ĐỊNH 26)
1. Phong chức cho chức sắc, nhà tu hành
a) Việc phong giáo phẩm Hoà thượng, Ni trưởng trong đạo Phật, Hồng y, Giám mục, chức vụ Giám quản trong đạo Thiên Chúa, từ phẩm Phối sư trở lên trong đạo Cao đài và các giáo phẩm tương đương trong các tôn giáo khác phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
b) Việc phong chức: Đại đức, Thượng toạ, Ni sư trong đạo Phật, Linh mục, Bề trên dòng đạo Công giáo , Mục sư, Truyền đạo trong đạo Tin lành, từ phẩm Giáo sư trở xuống trong đạo Cao đài và các chức sắc tương đương trong các tôn giáo khác phải được sự chấp thuận của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
2. Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành và những người chuyên hoạt động tôn giáo, kể cả những người do tín đồ bầu ra trên địa bàn cấp tỉnh phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận.
Việc bổ nhiệm, thuyên chuyển chức sắc, nhà tu hành từ tỉnh này sang tỉnh khác phải xin phép và có sự chấp thuận của các Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh của nơi đi và cả nơi đến để hoạt động tôn giáo .
3. Chức sắc, nhà tu hành khi thực hiện quyết định bổ nhiệm, thuyên chuyển phải thực hiện việc đăng ký hộ khẩu theo Nghị định 51/CP ngày 10/9/1997 của Chính phủ quy định về việc đăng ký và quản lý hộ khẩu.
VII. XỬ LÝ NGƯỜI MẠO DANH CHỨC SẮC, NHÀ TU HÀNH ĐỂ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO (ĐIỀU 16 NGHỊ ĐỊNH 26)
1. Người mạo danh chức sắc, nhà tu hành để hoạt động tôn giáo làm giảm uy tín của tổ chức tôn giáo, làm phương hại đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tuỳ theo mức độ sai phạm có thể bị xử lý hành chính: cảnh cáo (Điều 12), quản chế hành chính (Điều 25 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính) hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự (Điều 210 của Bộ luật Hình sự).
2. Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế hành chính không được thực hiện chức trách, chức vụ tôn giáo. Việc phục hồi chức trách, chức vụ tôn giáo của người đã hết hạn các hình phạt kể trên phải được tổ chức tôn giáo hợp pháp cấp tỉnh xin phép và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sở tại chấp thuận.
Trong trường hợp muốn phục hồi chức trách, chức vụ tôn giáo có tác dụng trên nhiều tỉnh, thành phố thì tổ chức tôn giáo hợp pháp cấp Trung ương phải xin phép và có sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
VIII. TRƯỜNG ĐÀO TẠO CHỨC SẮC, NHÀ TU HÀNH (ĐIỀU 18)
Trong khi chờ đợi Thông tư liên tịch của Ban Tôn giáo của Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo, cần thực hiện một số quy định sau đây.
1. Về mở trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành của tổ chức tôn giáo.
Học viện Phật giáo Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phật học, Trường cao đẳng Phật học, Trường Cơ bản Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đại Chủng viện của Giáo hội Công giáo Việt Nam và các trường đào tạo chức sắc, nhà tu hành của các tôn giáo khác khi mở trường phải xin phép Thủ tướng Chính phủ.
Ban Tôn giáo của Chính phủ, các Bộ, Ngành chức năng và ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trường tôn giáo thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra giúp tổ chức tôn giáo có trường tôn giáo hoạt động đúng pháp luật.
2. Tổ chức hoạt động của các loại trường đào tạo của tổ chức tôn giáo theo quy định
Giám đốc Học viện Phật giáo Việt Nam, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật giáo, Giám đốc Đại Chủng viện của Giáo hội Công giáo và các chức danh tương đương của trường của các tổ chức tôn giáo khác do tổ chức tôn giáo bổ nhiệm sau khi có sự chấp thuận của Trưởng Ban Tôn giáo của Chính phủ.
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Phật học, Trường cơ bản Phật học của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Lớp giáo lý hạnh đường của đạo Cao đài và các trường lớp tương đương của tôn giáo khác do người đứng đầu tổ chức tôn giáo địa phương bổ nhiệm với sự chấp thuận của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Các loại trường, lớp của các tổ chức tôn giáo phải có quy chế hoạt động:
Chức năng, nhiệm vụ của trường.
Tổ chức các hoạt động giáo dục trong trường, lớp tôn giáo.
Nhiệm vụ, quyền hạn của giảng viên.
Nhiệm vụ và quyền hạn của người học.
Tổ chức quản lý trường, lớp tôn giáo.
Quan hệ của trường, lớp tôn giáo và xã hội.
Giám đốc, Viện trưởng, Hiệu trưởng trường, lớp của các tổ chức tôn giáo chịu trách nhiệm trước pháp luật về mọi hoạt động .
Giảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước.
Người vào học các trường, lớp đào tạo chức sắc, nhà tu hành phải hoàn thành các nghĩa vụ công dân, lý lịch rõ ràng có xác nhận của chính quyền cấp xã.
Chương trình đào tạo chức sắc, nhà tu hành các trường, lớp tôn giáo có môn Giáo dục công dân (giáo dục chính trị, pháp luật, lịch sử dân tộc) là môn học chính khoá.
Cấm lợi dụng các hoạt động giáo dục đào tạo để xuyên tạc chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, chống lại Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc (Điều 17, Luật Giáo dục).
(Các trường, lớp đào tạo chức sắc, nhà tu hành của từng tôn giáo sẽ có văn bản hướng dẫn riêng).
Trên đây là những nội dung hướng dẫn thực hiện một số Điều trong Nghị định của Chính phủ số 26/1999/NĐ-CP về hoạt động tôn giáo, còn những vấn đề quản lý Nhà nước về các hoạt động tôn giáo có liên quan đến các bộ, ban, ngành, đoàn thể thuộc cơ quan Trung ương, Ban Tôn giáo của Chính phủ sẽ tiến hành các cuộc trao đổi chuyên đề để ban hành các Thông tư liên tịch. Đối với những vấn đề chưa đề cập trong Thông tư này, Ban Tôn giáo của Chính phủ sẽ có văn bản hướng dẫn tiếp theo.
Thông tư này có trích dẫn những điều, khoản trong các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến lĩnh vực tôn giáo để các cấp, các ngành nghiên cứu vận dụng (có phụ lục kèm theo)./.
BAN TÔN GIÁO CỦA CHÍNH PHỦ |
- 1Bộ luật Hình sự 1985
- 2Pháp lệnh Khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 do Hội đồng Nhà nước ban hành
- 3Hiến pháp năm 1992
- 4Quyết định 893-QĐ/PC năm 1992 về bản "Quy định về việc xuất, nhập văn hoá phẩm không thuộc phạm vi kinh doanh" do Bộ trưởng Bộ Văn hoá, thông tin và thể thao ban hành
- 5Chỉ thị 379-TTg năm 1993 về các hoạt động tôn giáo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Nghị định 79-CP năm 1993 Hướng dẫn Luật Xuất bản
- 7Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995
- 8Bộ luật Dân sự 1995
- 9Thông tư 05-BXD/KTQH-1996 hướng dẫn cấp giấy phép xây dựng do Bộ Xây dựng ban hành
- 10Nghị định 48-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong quản lý xây dựng, quản lý nhà và công trình kỹ thuật hạ tầng đô thị
- 11Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998
- 12Nghị định 288-HĐBT năm 1985 thi hành pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử, văn hoá và danh lam thắng cảnh do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- 13Luật Khiếu nại, tố cáo 1998
- 14Luật Giáo dục 1998
- 15Nghị định 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo
- 16Nghị định 91/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Tôn giáo Chính phủ
Thông tư 01/1999/TT-TGCP hướng dẫn Nghị định 26/1999/NĐ-CP về các hoạt động tôn giáo do Ban Tôn Giáo Chính Phủ ban hành
- Số hiệu: 01/1999/TT-TGCP
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 16/06/1999
- Nơi ban hành: Ban Tôn giáo Chính phủ
- Người ký: Lê Quang Vịnh
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra