- 1Thông tư 1512-LĐ/NC năm 1960 giải quyết một số nhân công mà trước đây các xí nghiệp, công trường... đã tự ý tuyển dụng do Bộ Lao động ban hành
- 2Thông tư 21-LĐ/TT năm 1961 hướng dẫn việc tuyển dụng nhân công làm tạm thời và việc ký kết hợp đồng lao động giữa đơn vị sử dụng và nhân công do Bộ Lao động ban hành
- 3Thông tư 33-LĐ/TT năm 1960 hướng dẫn thi hành bản Điều lệ tạm thời việc tuyển dụng và sử dụng nhân công ở nông thôn của Chính phủ do Bộ Lao động ban hành
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ |
Số: 36-CP | Hà Nội, ngày 09 tháng 09 năm 1960 |
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI QUY ĐỊNH VIỆC TUYỂN DỤNG VÀ SỬ DỤNG NHÂN CÔNG Ở NÔNG THÔN
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để tăng cường quản lý việc tuyển dụng và sử dụng nhân công, nhằm sử dụng hợp lý các nguồn nhân công ở nông thôn, bảo đảm nhu cầu nhân công cho các ngành kinh tế, đồng thời giải quyết công ăn việc làm cho những người thiếu việc;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Lao động;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp hội nghị Thường vụ của Hội đồng Chính phủ ngày 4 tháng 5 năm 1960;
NGHỊ ĐỊNH:
TM. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
QUY ĐỊNH VIỆC TUYỂN DỤNG VÀ SỬ DỤNG NHÂN CÔNG Ở NÔNG THÔN
Các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh có trách nhiệm lập kế hoạch nhân công quản lý các nguồn nhân công trong địa phương. Căn cứ vào nhiệm vụ cung cấp nhân công do Bộ Lao động giao cho và tình hình nhân công địa phương, các Ủy ban kể trên phân phối nhiệm vụ cung cấp nhân công cho các huyện, châu, quận, Ủy ban hành chính huyện, châu, quận phân phối lại nhiệm vụ ấy cho các xã. Các Ủy ban hành chính xã phải căn cứ nhiệm vụ của cấp trên giao cho và tùy theo kế hoạch lao động sản xuất của hợp tác xã mà bố trí, giới thiệu người đi làm theo đúng yêu cầu và thời gian.
Ngoài kế hoạch phân phối nói trên, các Ủy ban hành chính huyện chính huyện (hoặc châu, quận) xã, các Ban, quản trị hợp tác xã, các đoàn thể ở nông thôn không được tùy tiện giới thiệu người ra tìm việc tại thành phố hoặc tại các xí nghiệp, công trường.
Điều 3. Việc điều hòa, phân phối nhân công phải theo đúng những nguyên tắc sau đây:
Bảo đảm nhân công cho địa phương để phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, đồng thời bảo đảm nhu cầu nhân công cho các ngành công nghiệp, kiến thiết cơ bản và các ngành kinh tế khác.
Ưu tiên cung cấp nhân công cho quốc phòng, công nghiệp nặng và các công trình ở miền núi, nhất là các công tình thuộc Trung ương quản lý.
Bảo đảm yêu cầu của các ngành tuyển dụng nhân công, đồng thời ra sức sắp xếp việc làm cho lao động thiếu việc.
Điều 4. Các ngành tuyển dụng nhân công có trách nhiệm.
Hàng năm và từng qúy phải lập kế hoạch nhân công gửi Bộ Lao động (nếu thuộc kế hoạch Trung ương) và gửi Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh (nếu thuộc kế hoạch địa phương).
Khi kế hoạch nhân công thay đổi, phải kịp thời báo cáo với Bộ Lao động và Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh biết để điều chỉnh.
Khi cần thêm nhân công, trước hết phải điền chỉnh nhân công cho hợp lý trong ngành, nếu chưa đủ mới được tuyển thêm.
Khi tuyển nhân công, phải theo kế hoạch phân phối của Bộ Lao động, trực tiếp đến Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh xin phân phối. Các Ủy ban này sẽ giới thiệu về huyện, xã để tuyển dụng. Cơ quan tuyển dụng nhân công không được tự do tuyển dụng và trực tiếp tuyển dụng những người đến xin việc, kể cả người thuê theo chế độ công nhật.
Trong trường hợp vì yêu cầu đột xuất, cấp bách cần sử dụng một số ít nhân công tại địa phương trong một thời gian ngắn, thì có thể trực tiếp xin Ủy ban hành chính huyện (hoặc châu, quận) hay xã. Nhưng sau đó phải báo cáo ngay cho Ủy ban hành chính tỉnh biết.
Điều 5. Khi sử dụng nhân công, các ngành có trách nhiệm:
Xí nghiệp công trường phải chuẩn bị công việc, chỗ ăn, ở… trước khi điều động nhân công tới.
Phải quản lý chặt chẽ lực lượng nhân công, bố trí công việc hợp lý, thường xuyên giáo dục tư tưởng, chính trị, bồi dưỡng về nghề nghiệp, văn hóa, động viên thi đua, để không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Đối với địa chủ cường hào gian ác và những phần tử xấu có nhiều tội ác với nhân dân, phải kiên quyết đưa về địa phương, bắt họ phải cải tạo trong lao động sản xuất nông nghiệp, dưới sự kiểm soát của chính quyền và nhân dân địa phương.
Đối với địa chủ thường, cũng cho về địa phương, nhưng giải thích kỹ cho họ rõ là phải lấy lao động sản xuất nông nghiệp để cải tạo.
Đối với địa chủ kháng chiến và con cái địa chủ, thì xử lý theo tinh thần chính sách đối với họ sau sửa sai. Nếu những người này hiện nay đang làm ở các xí nghiệp, công trường và làm việc tích cực, có thái độ tốt, thì để họ tiếp tục làm việc, nhưng cần phải theo dõi, giáo dục, giúp đỡ họ tiến bộ.
Trong khi giải quyết những trường hợp trên đây, các ngành sử dụng nhân công phải báo cáo cho Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh biết.
Điều 9. Để đảm bảo thi hành quy định này:
Ủy ban hành chính các khu, thành phố, tỉnh phải chú trọng tăng cường tổ chức của cơ quan lao động; Ủy ban hành chính các huyện, xã, khu phố phải có một Ủy viên phụ trách công tác nhân công.
Các Bộ, các ngành sử dụng nhân công phải tăng cường lãnh đạo đối với các tổ chức quản lý nhân công ở cơ quan Bộ, ngành và cơ sở sản xuất.
- 1Bộ luật Lao động 1994
- 2Thông tư 1512-LĐ/NC năm 1960 giải quyết một số nhân công mà trước đây các xí nghiệp, công trường... đã tự ý tuyển dụng do Bộ Lao động ban hành
- 3Thông tư 21-LĐ/TT năm 1961 hướng dẫn việc tuyển dụng nhân công làm tạm thời và việc ký kết hợp đồng lao động giữa đơn vị sử dụng và nhân công do Bộ Lao động ban hành
- 4Thông tư 33-LĐ/TT năm 1960 hướng dẫn thi hành bản Điều lệ tạm thời việc tuyển dụng và sử dụng nhân công ở nông thôn của Chính phủ do Bộ Lao động ban hành
Nghị định 36-CP năm 1960 ban hành điều lệ tạm thời quy định việc tuyển dụng và sử dụng nhân công ở nông thôn do Hội Đồng Chính Phủ ban hành
- Số hiệu: 36-CP
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày ban hành: 09/09/1960
- Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
- Người ký: Phạm Văn Đồng
- Ngày công báo: 21/09/1960
- Số công báo: Số 40
- Ngày hiệu lực: 24/09/1960
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định