Hệ thống pháp luật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH BẮC NINH
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 248/KH-UBND

Bắc Ninh, ngày 31 tháng 7 năm 2024

 

KẾ HOẠCH

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ TỈNH BẮC NINH NĂM 2025

Thực hiện văn bản số 4786/BKHĐT-KTHT ngày 24/6/2024 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2025.

Theo đề nghị của Sở Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số 174/BC-KH.ĐKKD ngày 17/7/2024 về báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2025.

UBND tỉnh Bắc Ninh ban hành Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2025 trên địa bàn tỉnh với những nội dung sau:

Phần thứ nhất

ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ NĂM 2024

I. Tình hình phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2024

1. Đánh giá dựa trên các chỉ tiêu về hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, tổ hợp tác

1.1. Về tổ hợp tác (THT)

- Tính đến thời điểm 30/6/2024, số lượng THT là 235 THT, trong đó có 232 THT dịch vụ nông nghiệp, 03 THT môi trường; các THT được UBND xã, phường, thị trấn có chứng thực hợp đồng hợp tác và thực hiện theo Luật HTX 2012; số thành viên THT là 35.154 thành viên, số lao động là 3.275 người, đạt 100% so với kế hoạch năm 2024.

- Doanh thu bình quân 6 tháng đầu năm của THT đạt 170 triệu đồng đạt 44,7% so với kế hoạch năm 2024, lãi bình quân 6 tháng đầu năm là 70 triệu đồng/HTX, đạt 53,8% so với kế hoạch 2024. Thu nhập bình quân của 01 lao động làm việc trong THT là 4.5tr/người/ tháng; 6 tháng đầu năm trên địa bàn tỉnh không có THT phát triển thành hợp tác xã, không có THT thành lập mới, không có THT giải thể.

1.2. Về hợp tác xã (HTX)

Tính đến 30/6/2024, toàn tỉnh có 723 HTX, trong đó có 566 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 157 HTX hoạt động trong lĩnh vực phi nông nghiệp. Số HTX đang hoạt động 628 HTX đạt 97% so với kế hoạch năm 2024, số HTX thành lập mới là 15 HTX (05 HTX thương mại; 10 HTX nông nghiệp) đạt 50%so với kế hoạch năm 2024; số HTX đang tạm ngừng hoạt động là 95 HTX; số HTX giải thể là 01 HTX.

- Tổng số thành viên HTX là 95.442 thành viên, trong đó số lượng thành viên mới là 118 thành viên đạt 49% so với kế hoạch năm 2024; có 8 thành viên ra khỏi HTX. Số HTX hoạt động có hiệu quả theo Luật Hợp tác xã 2012 là 215 HTX chiếm 29,7% tổng số HTX.

- Doanh thu bình quân 6 tháng đầu năm đạt 630 triệu đồng/HTX, lãi bình quân 6 tháng đầu năm đạt 224 triệu đồng/ HTX.

- Số lượng cán bộ quản lý HTX là 2.167 người, trong đó số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ sơ cấp, trung cấp là 250 người; số lượng cán bộ quản lý đạt trình độ cao đẳng, đại học trở lên là 120 người; số cán bộ HTX được hỗ trợ bảo hiểm xã hội, đóng bảo hiểm xã hội là 154 người người đạt 44,4% so với kế hoạch năm 2024.

1.3. Về liên hiệp HTX (LH HTX)

- Tính đến 30/6/2024, số lượng LH HTX là 02 LH HTX, số lượng LH HTX đang hoạt động: 02 LH HTX, ngừng hoạt động: 0; số lượng LH HTX đã giải thể: 0 LH HTX.

- Số HTX thành viên tại thời điểm là 22 HTX, trong đó số lượng HTX thành viên mới tham gia vào LH HTX là 0 HTX; số lao động làm việc trong khu vực LH HTX là 72 lao động đạt 57,6% so với kế hoạch năm 2024.

- LH HTX hoạt động hiệu quả theo Luật Hợp tác xã: 01 LH HTX.

- Doanh thu bình quân của một liên hiệp HTX đạt 13.000 triệu đồng; Lãi bình quân của một liên hiệp HTX là 2.500 triệu đồng.

2. Đánh giá theo lĩnh vực

a. Lĩnh vực nông nghiệp

Toàn tỉnh có 566 HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, trong đó có 283 HTX dịch vụ nông nghiệp và 283 HTX chuyên ngành nông nghiệp.

* HTX dịch vụ nông nghiệp

Toàn tỉnh có 283 HTX dịch vụ nông nghiệp với 67.320 thành viên và 2.206 lao động, không có HTX ngừng hoạt động. Các HTX dịch vụ nông nghiệp chủ yếu hoạt động dịch vụ như: tưới tiêu, thủy lợi nội đồng, dịch vụ giống cây trồng, dịch vụ làm đất, dịch vụ thu hoạch, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV), phòng trừ sâu bệnh. Một số HTX đã từng bước đổi mới hình thức hoạt động theo hướng kinh doanh tổng hợp nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của nhiều thành viên, từng bước chuyển đổi mô hình hoạt động hợp tác liên kết theo chuỗi giá trị, xây dựng thương hiệu sản phẩm như: HTX dịch vụ nông nghiệp Đức Lân - Yên Phong, HTX dịch vụ nông nghiệp Ngăm Mạc - Gia Bình.

Doanh thu bình quân của 01 HTX dịch vụ nông nghiệp 6 tháng đầu năm 2024 là 250 triệu đồng/HTX; lợi nhuận 6 tháng đầu năm đạt 69 triệu đồng/HTX. Thu nhập bình quân của người lao động là 5 triệu đồng/người/tháng.

* HTX chuyên ngành nông nghiệp

Toàn tỉnh có 283 HTX chuyên ngành nông nghiệp với 2.120 thành viên và 1.247 lao động làm việc thường xuyên trong các HTX, trong đó có 34 HTX đang tạm ngừng hoạt động. Doanh thu trung bình của 01 HTX chuyên ngành nông nghiệp 6 tháng đầu năm là 680 triệu đồng/HTX, lợi nhuận trung bình của 01 HTX là 150 triệu đồng/HTX. Thu nhập bình quân của người lao động làm việc trong HTX là 5 triệu đồng/người/tháng, 100% người lao động làm việc trong lĩnh vực HTX chuyên ngành nông nghiệp không được HTX hỗ trợ tham gia bảo hiểm xã hội do tính chất mùa vụ. Nhìn chung các HTX đang dần tái cơ cấu theo hướng phát triển nông nghiệp đô thị gắn với xây dựng nông thôn mới, từng bước xây dựng được chiến lược sản xuất kinh doanh và liên kết thu mua sản phẩm cho các thành viên theo chuỗi giá trị và cung cấp cho các cửa hàng nông sản sạch, siêu thị... trên địa bàn tỉnh.

b. Lĩnh vực phi nông nghiệp

* Trong lĩnh vực công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp: Toàn tỉnh có 59 HTX tiểu thủ công nghiệp với 475 thành viên và 500 lao động làm việc thường xuyên trong HTX, trong đó có 8 HTX đang tạm ngừng hoạt động. Doanh thu bình quân 6 tháng đầu năm đạt 1,3 tỷ đồng/HTX, lợi nhuận bình quân đạt 325 triệu đồng/HTX. Thu nhập bình quân của lao động làm việc trong các HTX từ 7-9 triệu đồng/người/tháng; khoảng 30% lao động làm việc trong HTX tiểu thủ công nghiệp được HTX hỗ trợ tham gia bảo hiểm xã hội. Loại hình kinh doanh chính của các HTX công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là: gỗ mỹ nghệ, mây tre đan, đúc đồng, giấy..... Hiện các HTX đều áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến để tạo ra các sản phẩm gỗ mỹ nghệ, mây tre đan, tranh đồng ngày càng tinh xảo, đa dạng và phong phú.

* Về lĩnh vực xây dựng: Toàn tỉnh có 02 HTX chủ yếu là xây dựng các công trình dân sinh và các công trình quy mô nhỏ ở các xã, phường, thị trấn như trường học, trạm xá, đường giao thông nông thôn với 14 thành viên. Hiện tại cả 2 HTX đang tạm ngừng hoạt động do gặp khó khăn về vốn, đơn hàng.

* Về lĩnh vực giao thông vận tải: Toàn tỉnh có 26 HTX với 227 thành viên, tạo việc làm cho 175 lao động thường xuyên, trong đó có 3 HTX giao thông vận tải đang ngừng hoạt động một thời gian dài nhưng chưa hoàn tất thủ tục giải thể. Doanh thu bình quân 6 tháng đầu năm đạt 1,6 tỷ đồng/HTX, lợi nhuận bình quân đạt 360 triệu đồng/HTX. Thu nhập bình quân người lao động đạt từ 7 - 8 triệu đồng/người/tháng, có khoảng 15% lao động được HTX hỗ trợ tham gia bảo hiểm xã hội. Công tác quản lý điều hành ở các HTX giao thông vận tải được thực hiện có hiệu quả, HTX đã hướng dẫn các thành viên chuyển đổi sở hữu phương tiện về HTX để quản lý tập trung đồng thời có phương án giao lại chính xe đó cho các thành viên trực tiếp quản lý, từng bước tăng cường nguồn vốn sở hữu tập thể thông qua mua sắm phương tiện chung của HTX, mở rộng bến bãi, kết hợp vận tải hành khách với du lịch, từ đó hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng cao.

* Về lĩnh vực thương mại: Toàn tỉnh có 38 HTX với 298 thành viên và 315 người lao động làm việc thường xuyên trong HTX, không có HTX ngừng hoạt động. Doanh thu bình quân 6 tháng đầu năm đạt 1,6 tỷ đồng/HTX, lợi nhuận bình quân đạt 310 triệu đồng/HTX. Thu nhập bình quân người lao động đạt 6 triệu đồng/người/tháng. Hoạt động kinh doanh của các HTX thương mại đã góp phần phục vụ sản xuất, ổn định giá cả thị trường và phục vụ đời sống sinh hoạt của người dân.

* Về lĩnh vực vệ sinh môi trường: Toàn tỉnh có 6 HTX vệ sinh môi trường với 48 thành viên và 36 lao động thường xuyên trong HTX, trong đó có 2 HTX đã ngừng hoạt động. Doanh thu bình quân 6 tháng đầu năm đạt 710 triệu đồng/HTX, lợi nhuận bình quân đạt 130 triệu đồng/HTX. Thu nhập bình quân người lao động từ 5 - 6 triệu đồng/người/ tháng. Hiện các HTX môi trường đều có quy mô nhỏ, thiếu vốn, thiếu máy móc, mới chỉ làm tốt công đoạn thu gom, vận chuyển rác thải trên địa bàn là chính. Hiện nay, các HTX vệ sinh môi trường đang hoạt động khó khăn do doanh thu hoạt động chủ yếu từ phí, lệ phí môi trường mà không có khoản hỗ trợ nào khác trong khi chi phí nhân công và chi phí mua mới các xe thu gom rác thải cao.

* Quỹ tín dụng nhân dân: Toàn tỉnh đang duy trì 26 quỹ tín dụng nhân dân với 24.940 thành viên. Tổng nguồn vốn hoạt động của các Quỹ tín dụng đạt 4.336.393 triệu đồng, trong đó vốn huy động là 3.786.933 triệu đồng, vốn chủ sở hữu là 306.411 triệu đồng, vốn vay của ngân hàng HTX, các tổ chức tín dụng và vốn khác là 133.774 triệu đồng, về doanh số cho vay đến kỳ báo cáo là 1.320.329 triệu đồng, doanh số thu nợ đến kỳ báo cáo là 1.407.699 triệu đồng. Kết quả kinh doanh đạt 10.193 triệu đồng.

* Liên hiệp Hợp tác xã (LH HTX): Toàn tỉnh có 02 liên hiệp HTX, trong đó có 01 liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, 01 liên hiệp HTX hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Hiện tại, liên hiệp HTX thương mại đang ngừng hoạt động chờ giải thể do gặp nhiều khó khăn về vốn và phương án sản xuất kinh doanh. Doanh thu của liên hiệp HTX 6 tháng đầu năm đạt 12.240 triệu đồng, lợi nhuận đạt 2,5 tỷ đồng. Thu nhập bình quân của lao động làm việc thường xuyên trong LH HTX là 5,5 triệu đồng/người/tháng.

3. Đánh giá tác động của HTX, liên hiệp HTX, THT tới thành viên, kinh tế hộ thành viên

a. Về kinh tế: Các thành viên khi tham gia HTX, liên hiệp HTX, THT được tuyên truyền chủ trương của Đảng, Chính sách pháp luật của Nhà nước về kinh tế tập thể, HTX và Luật HTX. Cán bộ, thành viên HTX, liên hiệp HTX, THT được đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nhằm nâng cao năng lực chuyên môn.

- Thông qua HTX, các thành viên HTX được sử dụng dịch vụ mua chung, bán chung của HTX: như con giống, thuốc bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi, phân đạm, các dịch vụ thu hoạch, sau thu hoạch như bảo quản, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm; tỷ lệ bình quân thành viên sử dụng dịch vụ là trên 80%. Việc sử dụng dịch vụ chung, mua bán chung của HTX giúp các thành viên giảm chi phí sản xuất, nâng cao giá thành sản phẩm, tăng thêm thu nhập cho cán bộ thành viên.

- HTX góp phần tạo việc làm ổn định và bền vững cho các thành viên, bình quân mỗi HTX tạo việc làm ổn định cho từ 5 - 7 lao động, thu nhập bình quân lao động từ 5 - 7 triệu đồng/ người/ tháng.

Các hợp tác xã hoạt động có hiệu quả đã góp phần vào sự phát triển chung của địa phương, làm thay đổi diện mạo nông thôn theo hướng tích cực góp phần đảm bảo an ninh trật tự chính trị xã hội. Tuy còn ở mức độ khác nhau nhưng các hợp tác xã đã chủ động vươn lên, thực sự trở thành chỗ dựa tin cậy cho thành viên và người dân, khẳng định vai trò, vị thế và sự phát triển của các hợp tác xã.

b. Về văn hóa: Hiện nay có một số mô hình HTX làng nghề kết hợp với hình thức du lịch trải nghiệm được thành lập, đây là loại hình du lịch văn hóa tổng hợp đưa du khách tới tham quan, cảm nhận các giá trị văn hóa và mua sắm những hàng hóa đặc trưng, qua đó khai thác được tiềm năng và gìn giữ được bản sắc văn hóa của vùng miền, góp phần phát triển kinh tế gắn với bảo tồn bản sắc văn hóa.

c. Về xã hội: Hoạt động của các HTX ngày càng hiệu quả hơn, nhiều HTX đã tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị đầu tư theo chiều sâu nhất là các HTX phi nông nghiệp; chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý HTX và tay nghề của người lao động được nâng cao; gắn kết và thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương như chương trình “mỗi xã phường một sản phẩm”, chương trình xây dựng nông thôn mới. Khu vực HTX đã từng bước thoát khỏi tình trạng yếu kém kéo dài, bước đầu phát triển về số lượng, xuất hiện ngày càng nhiều mô hình có hiệu quả, góp phần tạo được niềm tin vào triển vọng phát triển của HTX, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, nhất là hộ thành viên.

4. Một số mô hình hoạt động hiệu quả theo phương thức sản xuất gắn với chuỗi giá trị, ứng dụng công nghệ cao

Hiện nay trên địa bàn tỉnh đã hình thành một số mô hình HTX hoạt động hiệu quả theo phương thức sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm, với 62 HTX tham gia liên kết tiêu thụ sản phẩm, 54 HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, điển hình như mô hình liên kết gắn với tiêu thụ sản phẩm của HTX sản xuất rau củ quả an toàn thôn Liên Ấp, xã Việt Đoàn, huyện Tiên Du có tổng diện tích sản xuất 34 ha với hơn 100 thành viên, HTX đã tổ chức chỉ đạo các thành viên sản xuất rau an toàn theo tiêu chuẩn VietGap, kết hợp sơ chế, đóng gói và bán cho doanh nghiệp, cửa hàng nông sản trong và ngoài tỉnh (như doanh nghiệp Tâm Bình, Công ty TNHH Tân Phú, Công ty thực phẩm sạch Kinh Bắc, Cửa hàng tiêu thụ sản phẩm của Hội nông dân tỉnh Bắc Ninh, Hệ thống siêu thị GL.Mart,....), tổng sản lượng sản xuất và tiêu thụ đạt khoảng 1.115 tấn/năm. HTX dịch vụ nông nghiệp Ngăm Mạc, xã Lãng Ngâm, huyện Gia Bình thu mua, chế biến rau an toàn các thành viên và tổ chức bán sản phẩm cho các doanh nghiệp (Công ty TNHH TMDV Ánh Dương, các cửa hàng bán nông sản....), tổng sản lượng sản xuất và tiêu thụ đạt khoảng 180 tấn/năm, mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ lúa, gạo nếp theo quy trình VietGap của HTX dịch vụ nông nghiệp thôn Đức Lân, Yên Phụ, Yên Phong có tổng diện tích sản xuất 50ha với hơn 100 thành viên, HTX đã tổ chức chỉ đạo sản xuất lúa theo quy trình VietGap sau đó bán cho các doanh nghiệp như: Công ty CP Giống cây trồng Ninh Bình và Công ty sản xuất trà gạo lút, các đại lý, cửa hàng lương thực trong và ngoài tỉnh.

Bên cạnh đó tỉnh Bắc Ninh đã khuyến khích phát triển các ngành hàng, sản phẩm chủ lực có thể mạnh của từng địa phương, ưu tiên hỗ trợ tham gia liên kết gan sản xuất theo chuỗi giá trị; sản xuất nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đặc biệt là thực hiện Chương trình mỗi xã, phường, thị trấn một sản phẩm (Chương trình OCOP), đến nay đã có 11 HTX nông nghiệp sở hữu các sản phẩm đạt tiêu chuẩn OCOP của tỉnh, trong đó có 4 sản phẩm đạt 4 sao, 18 sản phẩm đạt 3 sao (Có 2 HTX sở hữu sản phẩm OCOP tham gia liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị).

II. Kết quả thực hiện pháp luật và chính sách phát triển kinh tế tập thể (KTTT), hợp tác xã (HTX)

1. Kết quả thực thi pháp luật và các văn bản về KTTT, HTX

a. Cấp tỉnh

Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế tập thể, Tỉnh ủy, HĐND tỉnh, UBND tỉnh đã ban hành Chương trình, Nghị quyết, Đề án, Kế hoạch về phát triển kinh tế tập thể trong từng giai đoạn và hàng năm; cụ thể hóa, đề ra mục tiêu, chỉ tiêu, các giải pháp triển khai thực hiện; đầu tư từ nguồn ngân sách tỉnh hỗ trợ đối với HTX; thành lập Ban chỉ đạo phát triển kinh tế HTX của tỉnh để giúp UBND tỉnh trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo về phát triển kinh tế tập thể, cụ thể:

- Thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển HTX tỉnh Bắc Ninh theo Quyết định số 59/QĐ-UBND tỉnh Bắc Ninh ngày 20/9/2012 của UBND tỉnh.

- Nghị quyết số 48/2012/NQ-HĐND17 ngày 25/4/2012 của HĐND tỉnh về việc sửa đổi, bổ sung nghị quyết số 182/2010/NQ-HĐND16 ngày 09/12/2010 của HĐND tỉnh khóa XVI về quy định hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2011-2015 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Thành lập Ban chỉ đạo thực hiện Kết luận số 56-KL/TW ngày 21/2/2013 của Bộ chính trị tiếp tục thực hiện Nghị quyết trung ương 5 khóa IX về “Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả KTTT”.

- Kế hoạch số 11/KH-UBND ngày 03/3/2014 về việc triển khai thực hiện Luật HTX 2012.

- Thành lập Ban chỉ đạo chuyển đổi, tổ chức lại HTX theo Luật HTX năm 2012 theo Quyết định số 235/QĐ-UBND ngày 21/3/2014 của UBND tỉnh.

- Nghị quyết số 128/2014/NQ-HĐND17 ngày 24/4/2014 của HĐND tỉnh về việc hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2014-2020 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;

- Kế hoạch số 72/KH-UBND ngày 28/5/2014 của UBND tỉnh Bắc Ninh về Tuyên truyền, đào tạo, tập huấn Luật Hợp tác xã năm 2012 và các văn bản hướng dẫn thi hành;

- Nghị quyết số 17/2015/QĐ-UBND ngày 27/5/2015 của UBND tỉnh về việc ban hành bổ sung quy định hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn, giai đoạn 2014-2020 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Nghị quyết số 175/2015/NQ-HĐND17 ngày 24/4/2015 của HĐND tỉnh về việc bổ sung chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn theo nghị quyết 128/2014/NQ-HĐND17 ngày 24/4/2014 của Hội đồng nhân dân tỉnh.

- Văn bản số 792/BCĐ-SKHĐT ngày 13/8/2015 về chỉ đạo, hướng dẫn các HTX, Liên hiệp HTX tổ chức lại hoạt động theo Luật HTX năm 2012

- Ban hành Kế hoạch số 202/KH-UBND ngày 17/8/2015 về tổ chức tuyên truyền, tập huấn, bồi dưỡng cho xã viên, cán bộ của HTX về Luật HTX năm 2012, các văn bản hướng dẫn thi hành và đào tạo tập huấn kiến thức quản lý HTX cho cán bộ HTX.

- Thành lập Đoàn công tác chỉ đạo các HTX, Liên hiệp Hợp tác xã nông nghiệp của tỉnh thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012 theo Quyết định số 389/QĐ-UBND ngày 05/4/2016 của UBND tỉnh Bắc Ninh.

- Quyết định số 22/2016/QĐ-UBND ngày 14/4/2016 của UBND tỉnh về việc quy định mức chi hỗ trợ cho sáng lập viên, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng của HTX.

- Nghị quyết số 31/2016/NQ-HĐND18 ngày 08/12/2016 của HĐND tỉnh về việc hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2016- 2020 trên địa bàn tỉnh.

- Ban hành Quy chế phối hợp quản lý hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 07/6/2017 của UBND tỉnh Bắc Ninh.

- Quyết định số 46/2016/QĐ-UBND ngày 21/12/2016 về việc ban hành Quy định hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh và Hướng dẫn liên ngành số 100/HDLN của Liên ngành Nông nghiệp, Kế hoạch - Đầu tư, Tài chính ngày 25/01/2017 về thực hiện quy định hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp và hạ tầng nông thôn giai đoạn 2016-2020 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Quyết định số 1544/QĐ-UBND ngày 07/9/2018 của UBND tỉnh về việc Thành lập Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, Hợp tác xã.

- Nghị quyết 147/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018 về việc ban hành quy định hỗ trợ phát triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.

- Nghị quyết số 148/2018/NQ-HĐND ngày 06/12/2018 của HĐND tỉnh Bắc Ninh về việc ban hành quy định hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.

- Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày 24/01/2019 của UBND tỉnh Bắc Ninh về thực hiện Đề án của Chính phủ: “Phát triển 15.000 HTX, liên hiệp HTX nông nghiệp hoạt động có hiệu quả đến năm 2020”; HTX nông nghiệp liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản; HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020.

- Nghị quyết số 06/2020/NQ-HĐND ngày 17/7/2020 ban hành quy định về một số chính sách hỗ trợ, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn trên địa bàn tỉnh.

- Nghị quyết số 07/2020/NQ-HĐND ngày 17/7/2020 ban hành quy định hỗ trợ phát triển kinh tế trang trại trên địa bàn tỉnh.

- Quyết định số 1038/QĐ-UBND ngày 19/8/2021 của chủ tịch UBND tỉnh về việc kiện toàn Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, Hợp tác xã.

- Kế hoạch số 592/KH-UBND ngày 14/9/2021 của UBND tỉnh về việc thực hiện Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình Hợp tác xã kiểu mới hiệu quả giai đoạn 2021 - 2025 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Kế hoạch số 611/KH-UBND ngày 20/9/2021 về việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh theo Quyết định số 340/QĐ-TTg ngày 12/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ.

- Quyết định số 1532/QĐ-UBND ngày 07/12/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt danh sách hợp tác xã thí điểm tham gia Đề án theo Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 2/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ.

- Nghị quyết số 07/2022/NQ-HĐND ngày 07/7/2022 của HĐND tỉnh về quy định hỗ trợ phát triển nông nghiệp, Chương trình OCOP và ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh;

- Quyết định số 918/QĐ-UBND ngày 15/9/2022 của UBND tỉnh Bắc Ninh về việc phê duyệt danh sách hợp tác xã thí điểm triển khai giai đoạn 1 theo Quyết định số 1532/QĐ-UBND ngày 07/12/2021.

- Chương trình hành động số 42-CTr/TU ngày 25/11/2022 của Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.

- Quyết định số 93/QĐ-UBND ngày 22/3/2023 của UBND tỉnh về việc phê duyệt Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2023 - 2025 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

- Kế hoạch số 73/KH-UBND ngày 27/3/2023 của UBND tỉnh về Thực hiện Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 02/02/2023 của Chính phủ và Chương trình hành động số 42-CTr/TU ngày 25/11/2022 của Tỉnh ủy về việc thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 16/6/2022 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể trong giai đoạn mới.

Như vậy, việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về kinh tế tập thể đã tạo hành lang pháp lý và hỗ trợ thúc đẩy phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nông nghiệp của tỉnh, đặc biệt hiện nay đã và đang xây dựng, lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới hiệu quả trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.

b. Cấp huyện

Thực hiện tốt công tác chỉ đạo phát triển kinh tế của địa phương; huy động các nguồn lực cùng nguồn ngân sách của tỉnh hỗ trợ cho kinh tế tập thể, nhằm gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế tập thể với thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và thực hiện Nghị quyết Trung ương về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Hàng năm đề ra chương trình hoạt động, kế hoạch triển khai, sơ kết tổng kết hoạt động, tổ chức đối thoại HTX trên địa bàn để giải quyết những khó khăn, vướng mắc, giúp các HTX phát triển ổn định.

2. Công tác quản lý nhà nước về KTTT, HTX

Trong thời gian qua, công tác quản lý Nhà nước đối với KTTT, HTX tiếp tục được tăng cường, thành lập Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể theo Quyết định số 1544/QĐ-UBND ngày 07/9/2018 của UBND tỉnh do đồng chí Phó Chủ tịch UBND tỉnh là Trưởng Ban. Đến nay, Ban chỉ đạo đổi mới, phát triển kinh tế tập thể đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bao gồm: Nghiên cứu, đề xuất các chủ trương, chính sách và giải pháp chiến lược nhằm đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; chỉ đạo, điều phối hoạt động giữa các sở, ban, ngành; các đơn vị liên quan; UBND các huyện, thành phố trong quá trình triển khai thực hiện các quy định của pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đã được phê duyệt; hướng dẫn, đôn đốc các sở, ban, ngành; các đơn vị liên quan; UBND các huyện, thành phố trong việc xây dựng, hoàn thiện và hướng dẫn cơ chế, chính sách liên quan đến quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện; kiểm tra, giám sát, đánh giá, sơ kết, tổng kết, khen thưởng trong quá trình thực hiện các chương trình đổi mới, phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã. Đồng thời ban hành Quy chế phối hợp quản lý hợp tác xã, tổ hợp tác trên địa bàn tỉnh theo Quyết định số 13/2017/QĐ-UBND ngày 07/6/2017.

- Về công tác kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước về HTX:

Trong thời gian qua, bộ máy quản lý nhà nước về KTTT, hợp tác xã được kiện toàn từ cấp tỉnh, đến cấp huyện, xã, tạo điều kiện thuận lợi cho khối KTTT, HTX phát triển, chất lượng ngày càng được nâng cao. Thực hiện Thông tư số 21/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 11/12/2015, cơ quan quản lý Nhà nước từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã được phân công quản lý khối KTTT, HTX theo đúng chức năng nhiệm vụ, cụ thể:

Ở cấp tỉnh: Sở Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan đầu mối, quản lý chung đối với KTTT và HTX trong toàn tỉnh, tổng hợp tham mưu cho UBND tỉnh về phát triển KTTT, hợp tác xã. Trong đó đã phân công 01 đồng chí Phó Giám đốc Sở phụ trách và phòng chuyên môn giúp việc là Đăng ký kinh doanh. Phòng Đăng ký kinh doanh là đầu mối tổng hợp, đề xuất các mô hình và cơ chế, chính sách, kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã; hướng dẫn, theo dõi, tổng hợp và đánh giá tình hình thực hiện các chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã và hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, hợp tác xã và kinh tế tư nhân trên địa bàn tỉnh; tổ chức thực hiện việc đăng ký liên hiệp hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân theo thẩm quyền; Chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan giải quyết các vướng mắc về cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã có tính chất liên ngành; đầu mối phối hợp với các tổ chức, cá nhân trong nước và quốc tế nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm, xây dựng các chương trình, dự án trợ giúp, thu hút vốn và các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh; Định kỳ báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư và các Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan về tình hình phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã địa bàn tỉnh. Triển khai và vận hành tốt Hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký hợp tác xã...

Ở cấp huyện: Phòng Tài chính - Kế hoạch là đơn vị đầu mối, quản lý chung đối với KTTT và HTX tại địa phương, cấp đăng ký kinh doanh cho HTX, tổng hợp tham mưu cho UBND cấp huyện về phát triển KTTT, hợp tác xã. Trong đó đã phân công 01 đồng chí phó phòng phụ trách và đồng chí chuyên viên giúp việc. Đối với HTX nông nghiệp, phòng nông nghiệp và phát triển nông thôn giao cho 01 cán bộ phụ trách theo dõi, quản lý về hoạt động của các HTX nông nghiệp.

Ở cấp xã: Phân công 01 phó Chủ tịch phụ trách và 01 cán bộ kiêm nhiệm. Việc bố trí cán bộ và phân công quản lý nhà nước về kinh tế tập thể ở địa phương được đảm bảo.

- Đánh giá khó khăn:

+ Với lực lượng cán bộ quản lý nhà nước về HTX mỏng, trình độ năng lực còn hạn chế, kiêm nhiệm nhiều việc nên công tác kiểm tra, giám sát, nắm tình hình thực hiện Luật HTX 2012 chưa được triển khai thường xuyên, chưa kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc của HTX để hướng dẫn giải quyết hoặc kiến nghị các cấp, ngành có thẩm quyền giải quyết. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước với các tổ chức đoàn thể xã hội, nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát, xử lý vi phạm trong quá trình hoạt động của các HTX còn hạn chế.

- Về việc thực hiện chế độ báo cáo về HTX, LH HTX theo quy định tại Thông tư 03/2014/TT-BKHĐT ngày 26/5/2014 (Điều 24, 25), Thông tư số 07/2019/TT-BKHĐT ngày 08/4/2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 03/2014/TT-BKHĐT; định kỳ 6 tháng, cuối năm đều thực hiện báo cáo tổng kết, đánh giá và rút kinh nghiệm trong công tác quản lý nhà nước đối với KTTT, HTX. Tuy nhiên, một số địa phương giao việc theo dõi, quản lý nhà nước về HTX ở cấp huyện không thống nhất (có nơi giao cho phòng Kế hoạch - Tài chính, có nơi giao cho phòng Nông nghiệp); chế độ thông tin báo cáo của cơ quan đăng ký HTX của các huyện, thị xã, thành phố còn chưa nghiêm túc, chậm về thời gian và số liệu chưa đầy đủ, chưa chính xác. Lực lượng cán bộ mỏng, năng lực, kiến thức về KTTT còn hạn chế nên chưa đánh giá chính xác tình hình phát triển KTTT tại địa phương. Bản thân các HTX chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo tình hình hoạt động của mình cho cơ quan quản lý nhà nước; hầu hết các HTX chỉ báo theo quy định của cơ quan thuế, do đó các cơ quan quản lý nhà nước không kịp thời cập nhật số liệu về tình hình hoạt động của các HTX.

3. Kết quả triển khai chính sách hỗ trợ, ưu đãi hợp tác xã

a. Chính sách hỗ trợ, nâng cao năng lực, nhận thức cho khu vực KTTT

Trong tháng hành động vì HTX năm 2024, Liên minh HTX tỉnh đã tổ chức các lớp tập huấn tuyên truyền về Luật HTX năm 2023 cho các cán bộ quản lý HTX trên địa bàn tỉnh, qua đó các học viên đã nắm được cơ bản về Luật HTX năm 2023 và các điểm mới của Luật HTX năm 2023 so với Luật HTX năm 2012.

b. Về xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường

Đến 30/6/2024, Liên minh HTX tỉnh hỗ trợ cho khoảng 16 HTX tham gia chương trình xúc tiến thương mại do Liên minh HTX Việt Nam tổ chức.

c. Chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng

Ngoài các chính sách hỗ trợ thực hiện theo quy định của Chính phủ, như: Hỗ trợ xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, kinh doanh cho cộng đồng thành viên HTX, gồm: nhà kho, sân phơi, xưởng sơ chế, chế biến, hệ thống điện, cơ sở hạ tầng vùng nuôi trồng thủy sản, nhà lưới, nhà màng theo đúng quy định của pháp luật hiện hành; Tỉnh đã ban hành Nghị quyết hỗ trợ phát triển nông nghiệp, Chương trình OCOP và ngành nghề nông thôn trên địa bàn tỉnh thực hiện công tác hỗ trợ cho các HTX nông nghiệp ứng dụng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất như: Hỗ trợ đầu tư xây dựng nhà màng sản xuất nông sản có giá trị kinh tế của Hợp tác xã nông nghiệp công nghệ cao Tâm Phúc, với tổng kinh phí là: 1.833.308.000 đồng. Từ đó đã góp phần nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị, thương hiệu của sản phẩm và giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn.

4. Kết quả, tình hình thực hiện các Đề án

- Ngày 14/9/2021, UBND tỉnh Bắc Ninh đã ban hành Kế hoạch số 592/KH-UBND về việc thực hiện Đề án Lựa chọn, hoàn thiện nhân rộng mô hình HTX kiểu mới hiệu quả giai đoạn 2021-2030 tỉnh Bắc Ninh theo Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 03/02/2021 của Thủ tướng Chính phủ.

- Ngày 07/12/2021, Chủ tịch UBND tỉnh ban hành Quyết định số 1532/QĐ-UBND về việc phê duyệt danh sách hợp tác xã thí điểm tham gia Đề án theo Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 2/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ

- Ngày 15/9/2022, chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 918/QĐ-UBND ngày phê duyệt danh sách hợp tác xã thí điểm triển khai giai đoạn 1 theo quyết định số 1532/QĐ-UBND ngày 07/12/2021 của Chủ tịch UBND tỉnh.

Hiện nay, tỉnh đang nghiên cứu thực hiện hỗ trợ, hoàn thiện nhân rộng các mô hình HTX kiểu mới trên địa bàn tỉnh, đảm bảo có hiệu quả.

II. Đánh giá và dự kiến khả năng hoàn thành mục tiêu đến hết năm 2024

1. Tổ hợp tác

- Số lượng THT là 235 THT, đạt 100% so với kế hoạch năm 2024.

- Doanh thu bình quân của THT đạt 380 triệu đồng, lãi bình quân là 130 triệu đồng/HTX, đạt 100% so với kế hoạch năm 2024.

2. Về hợp tác xã (HTX)

Số lượng HTX là 738 HTX đạt 97,88% so với kế hoạch năm 2024, số HTX thành lập mới là 30 HTX đạt 100% kế hoạch.

- Tổng số thành viên HTX là 95.547 thành viên, đạt 100% kế hoạch, trong đó số lượng thành viên mới là 223 thành viên.

3. Về liên hiệp HTX (LH HTX)

- Số lượng LH HTX là 03 LH HTX, đạt 100% kế hoạch.

- Số HTX thành viên tại thời điểm là 26 HTX, đạt 100% kế hoạch.

- Doanh thu bình quân của một liên hiệp HTX đạt 27.500 triệu đồng; Lãi bình quân của một liên hiệp HTX là 5.500 triệu đồng, đạt 100% kế hoạch.

III. Đánh giá chung

1. Kết quả đạt được

- Công tác tuyên truyền, học tập, quán triệt, kế hoạch triển khai Nghị quyết được chỉ đạo tổ chức, triển khai nghiêm túc, sâu rộng thể hiện sự quan tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền trong phát triển KTTT.

- Nhận thức của các cấp, các ngành về các quan điểm phát triển KTTT, mà nòng cốt là HTX có sự chuyển biến tích cực, ưu thế và vai trò của HTX đối với phát triển kinh tế hộ thành viên, kinh tế địa phương nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói chung dần được khẳng định.

- Vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, kết hợp với công tác phối hợp hiệu quả giữa Mặt trận Tổ quốc các cấp, các tổ chức chính trị, xã hội, đoàn thể, Liên minh Hợp tác xã Việt nam ngày càng được nâng cao, góp phần thúc đẩy phát triển KTTT. Ban Chỉ đạo Đổi mới, phát triển KTTT, HTX các cấp tại các địa phương được kiện toàn, chỉ đạo thực hiện tốt nhiệm vụ theo quy định.

- Khu vực KTTT, HTX đã có những chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng hoạt động. Các Tổ hợp tác được củng cố, các HTX đã và đang tiếp tục chuyển đổi mạnh theo hướng kinh doanh đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực. Số HTX sản xuất kinh doanh giỏi, có hiệu quả xuất hiện ngày càng nhiều, từng bước hình thành được các chuỗi giá trị sản phẩm trong nông nghiệp và phi nông nghiệp, góp phần quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, nhất là hộ thành viên.

- Về cơ bản các HTX tổ chức lại theo Luật Hợp tác xã; hoạt động hướng về thành viên, mang lại lợi ích cho thành viên, thành viên gắn bó với hợp tác xã hơn. Các HTX phát triển đa dạng hóa các lĩnh vực hoạt động, đã phát triển được một số HTX trên một số ngành, nghề, lĩnh vực mới như y tế, giáo dục, môi trường, khoa học, công nghệ. HTX là một chủ thể quan trọng trong cung cấp dịch vụ và kết nối sản xuất cho hàng chục triệu hộ gia đình để tạo ra sản phẩm có năng suất, chất lượng cao, gắn kết với doanh nghiệp trong tiêu thụ, chế biến.

- Năng lực nội tại của các HTX được phát huy, từ đất đai, nhân lực, tài chính,... Vì vậy hoạt động của các HTX hiệu quả hơn, nhiều HTX đã tăng cường cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị đầu tư theo chiều sâu, nhất là các HTX phi nông nghiệp; chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý HTX và tay nghề của người lao động được nâng cao; gắn kết và thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương như: Chương trình “mỗi xã phường một sản phẩm” (OCOP); Chương trình xây dựng nông thôn mới.

- Hoạt động liên doanh, liên kết giữa các thành viên trong HTX và giữa HTX với các doanh nghiệp trong khu, cụm công nghiệp, hoạt động liên kết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước tiếp tục được mở rộng và nâng cao hiệu quả theo hướng xây dựng những mối quan hệ kinh doanh ổn định, bền vững, xây dựng sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị, góp phần bảo đảm đầu ra cho sản phẩm và mở rộng thị trường cho các thành viên HTX.

2. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

a. Tồn tại, hạn chế

- Một số cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tạo điều kiện giúp đỡ HTX. Việc cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ từ Trung ương và của Tỉnh còn chậm, ngân sách hỗ trợ chưa kịp thời, việc thực hiện triển khai ở địa phương còn nhiều bất cập, công tác quản lý tài chính, kế toán của nhiều HTX chưa đáp ứng các quy định.

- Một số địa phương giao việc theo dõi, quản lý nhà nước về HTX ở cấp huyện không thống nhất (có nơi giao cho phòng Kế hoạch - Tài chính, có nơi giao cho phòng Nông nghiệp); chế độ thông tin báo cáo của cơ quan đăng ký HTX của các huyện còn chưa nghiêm túc, chậm về thời gian và số liệu chưa đầy đủ, chưa chính xác. Bản thân các HTX chưa thực hiện nghiêm túc chế độ báo cáo tình hình hoạt động của mình cho cơ quan quản lý nhà nước; hầu hết các HTX chỉ báo cáo theo quy định của cơ quan thuế, do đó các cơ quan quản lý nhà nước không kịp thời cập nhật số liệu về tình hình hoạt động của các HTX.

- Tăng trưởng của khu vực kinh tế hợp tác, HTX chưa ổn định, đóng góp vào tổng sản phẩm (GRDP) của tỉnh còn thấp. Hiệu quả hoạt động kinh tế của HTX chưa cao. Những khó khăn nội tại của HTX chậm được khắc phục, đặc biệt khó khăn về đất đai, nguồn vốn, về cơ sở vật chất, trình độ quản lý...

- Hiệu quả hoạt động của nhiều HTX nông nghiệp còn thấp, lợi ích mang lại cho thành viên chưa nhiều, đặc biệt là các HTX dịch vụ nông nghiệp. Năng lực nội tại của nhiều HTX nông nghiệp còn yếu, cơ sở vật chất kỹ thuật còn hạn chế, trình độ, năng lực quản lý điều hành của cán bộ các HTX nông nghiệp còn hạn chế, chưa tập trung xây dựng nhãn hiệu, thương hiệu sản phẩm hàng hóa, mở rộng thị trường sản phẩm... Phần lớn các HTX nông nghiệp còn thiếu vốn để đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhưng khi vay vốn thì gặp khó khăn về tài sản thế chấp do hầu hết các HTX đều không có tài sản bảo đảm.

- Nhiều HTX ngừng hoạt động một thời gian dài nhưng khó khăn trong thủ tục giải thể (106 HTX).

- Công tác quản lý Nhà nước đối với HTX ở một số địa phương chưa được quan tâm đúng mức, chưa tập trung chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn các HTX nông nghiệp ngừng hoạt động hoàn thiện thủ tục giải thể hoặc chuyển sang hình thức hoạt động khác; cán bộ quản lý cấp huyện, xã phải kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực nên công tác quản lý đối với khu vực KTTT, HTX nông nghiệp chưa được sát sao.

- Đội ngũ cán bộ quản lý HTX còn thiếu và yếu; đa số cán bộ quản lý mới chỉ được tham gia các khoá bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ ngắn ngày, chất lượng hoạt động của HTX, THT còn hạn chế, nguồn nhân lực cán bộ có trình độ còn ít, công tác quản lý thiếu tính chuyên nghiệp, lao động thiếu kỹ thuật nên hiệu quả hoạt động và chất lượng của các HTX và THT chưa cao. Mặt khác, chế độ thù lao, đãi ngộ đối với cán bộ quản lý HTX còn rất thấp nên chưa thu hút được cán bộ trẻ, có trình độ, vũng chuyên môn về làm việc tại các HTX.

- Một số HTX được thành lập chỉ xuất phát từ nhu cầu có tư cách pháp nhân để vay vốn hoặc nhận sự ưu đãi của nhà nước, do đó các chế độ và nguyên tắc hạch toán chưa thực hiện đúng theo quy định của Luật, công tác kế toán của các HTX còn lỏng lẻo. Hầu hết các HTX DVNN đều yếu và thiếu về trình độ công nghệ thông tin. Đa số các HTX chưa thực hiện chế độ BHXH và BHYT cho thành viên và người lao động.

b. Nguyên nhân

* Nguyên nhân chủ quan

- Nhận thức về KTTT, HTX của một bộ phận cán bộ, đặc biệt là người đứng đầu ở một số địa phương chưa đầy đủ, thống nhất, dẫn đến trong chỉ đạo vừa có biểu hiện thiếu quan tâm, lúng túng, vừa buông lỏng, vừa can thiệp sâu vào tổ chức hoạt động của HTX. Các cấp cơ sở chưa thực sự quan tâm đúng mức đến khu vực KTTT, HTX, đặc biệt là công tác chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc đối với những HTX ngừng hoạt động lâu ngày, HTX hoạt động hình thức thực hiện làm thủ tục giải thể hoặc chuyển đổi sang hình thức khác hoạt động theo quy định của Luật.

- Đội ngũ cán bộ quản lý, nghiệp vụ của các HTX còn yếu và thiếu, độ tuổi cao; việc chỉ đạo, điều hành chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, phần lớn chưa qua đào tạo, còn hạn chế trong việc xây dựng phương án sản xuất kinh doanh và tìm kiếm thị trường đầu vào, đầu ra tiêu thụ sản phẩm cho HTX. Chưa có giải pháp phù hợp để khuyến khích và đưa cán bộ đã qua đào tạo, có năng lực quản lý và trình độ chuyên môn tương xứng về làm việc tại các HTX.

- Đối với các HTX dịch vụ nông nghiệp, một mặt do quá khứ để lại, mặt khác do năng lực tổ chức hoạt động hiện tại của bộ máy quản lý HTX thiếu năng động, hầu hết các HTX nông nghiệp cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn hoạt động còn nhiều hạn chế và khó khăn, các HTX chưa có cơ sở dịch vụ và sản xuất kinh doanh, việc ứng dụng công nghệ thông tin và tiến bộ khoa học kỹ thuật vào các lĩnh vực hoạt động của HTX gặp nhiều khó khăn.

- Các HTX khó khăn về thủ tục giải thể là do nợ thuế và các khoản nợ với các tổ chức, cá nhân và các thành viên chưa được giải quyết; nhiều vướng mắc liên quan đến pháp luật trong công tác giải thể như thuế, tranh chấp đất đai, tài sản dùng chung, thất lạc đăng ký kinh doanh, con dấu, chứng từ kế toán....

* Nguyên nhân khách quan

- Vai trò của nhà nước về hỗ trợ đối với khu vực HTX còn hạn chế, mặc dù có nhiều chính sách hỗ trợ cho HTX song việc thực hiện lại gặp nhiều khó khăn nên nhiều HTX chưa tiếp cận được.

- Hệ thống quản lý Nhà nước về HTX ở cấp huyện, xã đã cơ bản được kiện toàn, tuy nhiên, các địa phương chưa bố trí được cán bộ chuyên trách trực tiếp giúp UBND huyện, xã quản lý, theo dõi về KTTT, HTX; đa phần vẫn là kiêm nhiệm, lồng ghép chức năng về kinh tế hợp tác, với các chức năng khác. Nên việc chỉ đạo, quản lý hoạt động HTX gặp nhiều khó khăn, không được tập trung. Đặc biệt là công tác tổ chức hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho HTX ở cơ sở còn hạn chế.

IV. Đề xuất, kiến nghị

- Đề nghị Chính phủ sớm ban hành Nghị định hướng dẫn Luật Hợp tác xã năm 2023 làm căn cứ để các địa phương triển khai, thực hiện có hiệu quả Luật Hợp tác xã; có văn bản chỉ đạo tập trung công tác báo cáo tài chính, hạch toán kế toán theo đúng quy định của Luật, công tác quản lý thuế, bảo hiểm xã hội đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh của khu vực KTTT để các HTX hoạt động đi vào đúng bản chất theo quy định của Luật hiện hành.

- Chỉ đạo thực hiện thống nhất các sắc thuế cho hoạt động kinh doanh vận tải đối với các thành phần kinh tế tham gia;

- Ngân hàng Nhà nước cùng với Quỹ hỗ trợ phát triển HTX có chính sách tạo điều kiện cho HTX vận tải vay vốn đổi mới phương tiện vận tải với lãi suất ưu đãi và được vay dài hạn theo các hình thức thế chấp, tín chấp để tạo nguồn vốn cho HTX vận tải đầu tư chiều sâu, đổi mới trang thiết bị, phương tiện vận tải mở rộng sản xuất, kinh doanh đáp ứng yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền kinh tế.

Phần thứ hai

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TẬP THỂ, HỢP TÁC XÃ NĂM 2025

I. Một số yêu cầu đối với việc xây dựng kế hoạch phát triển KTTT, HTX năm 2025

1. Phát triển KTTT, HTX xã phải phù hợp với chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã cam kết; phù hợp với Chiến lược phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2030, kế hoạch phát triển KTTT, HTX giai đoạn 2021-2025 và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.

2. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của KTTT, HTX hiện có nhằm giúp đỡ cho đơn vị tạo được việc làm và có thu nhập ổn định để nâng cao đời sống đời sống vật chất và tinh thần cho xã viên và người lao động, nâng cao sức cạnh tranh của các HTX, liên hiệp HTX để đáp ứng được trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.

3. Ưu tiên phát triển hợp tác xã góp phần hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất đến chế biến, tiêu thụ; hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp.

4. Đẩy mạnh hợp tác, liên kết trong sản xuất, thương mại, lựa chọn mô hình hợp tác, liên kết trong hoạt động sản xuất và tiêu thụ sản phẩm: chú trọng xây dựng các HTX kiểu mới, hỗ trợ các HTX, Liên hiệp HTX sản xuất các sản phẩm chủ lực, có lợi thế cạnh tranh nhằm tham gia chuỗi giá trị nông sản, liên kết với các doanh nghiệp tiêu thụ sản phẩm, góp phần mang lại lợi ích cho thành viên.

II. Nội dung kế hoạch phát triển KTTT, HTX năm 2025

1. Dự báo những thuận lợi, khó khăn

a. Tình hình quốc tế

- Kinh tế thế giới đang có xu hướng phục hồi, các yếu tố rủi ro, thách thức có dấu hiệu giảm dần. Lãi suất có xu hướng giảm, thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế và giá dầu có dấu hiệu ổn định, tác động đến tăng trưởng tín dụng, tâm lý và kỳ vọng thị trường. Xu hướng phát triển và nhu cầu sản phẩm hàng hóa an toàn, chất lượng trên thế giới ngày càng cao, đặc biệt là hàng hóa nông sản. Xu thế phát triển HTX trên thế giới theo mô hình đa dạng, trong đó loại hình liên kết sản xuất giữa các hộ nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm là phổ biến. Cuộc Cách mạng Công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, khu vực KTTT, HTX có nhiều cơ hội phát triển. Tuy nhiên, tình hình biến đổi khí hậu ngày càng khắc nghiệt; thiên tai, dịch bệnh diễn ra với tần suất lớn, thường xuyên và khó lường do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu (động đất, cháy rừng, khí hậu nóng lên).

- Kinh tế thế giới ngày càng phát triển, các chuỗi cung ứng toàn cầu tạo sự liên kết chặt chẽ của nền kinh tế thế giới song cũng đối diện với nhiều thách thức đòi hỏi phải có một tư duy mới, cách nhìn mới và có các giải pháp nhằm phát triển KTTT, HTX một cách bền vững

b. Tình hình trong nước

Việt Nam đang tham gia ngày càng sâu rộng vào tiến trình Toàn cầu hóa và Hội nhập kinh tế quốc tế, vị thế của Việt Nam ngày càng được tăng cường với sự chủ động tham gia trong các hoạt động quốc tế tại Liên Hiệp quốc, ASEAN và các tổ chức quốc tế đa phương khác.

Trong lĩnh vực kinh tế, ngoài các mối quan hệ tích cực với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam còn tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực và thế giới, ký kết các hiệp định hợp tác kinh tế đa phương (ASEAN, AFTA, ASEM, APEC, WTO, CPTPP, EVFTA và IPA). Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế theo những hiệp định Mậu dịch tự do, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang mở ra cho nước ta nhiều cơ hội cũng như thách thức.

c. Cơ hội và thách thức đối với khu vực KTTT, HTX

* Cơ hội

Các doanh nghiệp, HTX có nhiều cơ hội được học hỏi, cọ sát và nâng cao năng lực; tiếp nhận công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý mới. Thu hút đầu tư nước ngoài, nhất là từ các đối tác lớn, có công nghệ nguồn. Mở rộng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu nông sản và nông sản chế biến. Hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế nhất là vị thế trong khu vực.

* Thách thức

- Trong bối cảnh, tình hình quốc tế, khu vực dự báo diễn biến phức tạp, khó lường; đặc biệt tình hình dịch bệnh tác động không nhỏ đến tình hình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước cũng như địa phương. Hoạt động của kinh tế tập thể, HTX chưa đi vào chiều sâu, chưa đem lại nhiều lợi ích cho thành viên.

- Cạnh tranh hàng hóa diễn ra rất gay gắt, cả thị trường trong nước và quốc tế. Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ gia tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài và do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường quốc tế.... Thách thức khi không thích ứng với tình hình mới và bị tụt hậu ngày càng xa hơn về công nghệ... Các tổ chức kinh tế Việt Nam nói chung và các HTX, LHHTX nói riêng muốn tham gia được thị trường mở rộng trong điều kiện đòi hỏi phải đáp ứng được rất nhiều tiêu chuẩn và các quy định khắt khe về chất lượng, mẫu mã và kiểu dáng sản phẩm. Những thách thức này đang đe dọa sự ổn định hoạt động của các HTX, LHHTX. Nếu sản phẩm, dịch vụ của HTX, LHHTX không bảo đảm chất lượng, không cạnh tranh được với sản phẩm, dịch vụ nhập khẩu từ nước ngoài thì HTX, LHHTX sẽ không thể vươn ra được thị trường ngoài thành viên, mà có thể sẽ mất luôn cả thị trường thành viên, do các thành viên sẽ quay lưng lại với các sản phẩm, dịch vụ do HTX cung cấp. Đồng thời, chính sách của Nhà nước cần gỡ bỏ rào cản, tạo điều kiện cho HTX, LHHTX phát huy nội lực, mở rộng thị trường, hội nhập với thế giới.

- Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra nhanh và rộng khắp tại nhiều địa phương trong những năm gần đây đang làm thay đổi mạnh cơ cấu dân số và lao động ở các vùng. Hàng triệu lao động từ nông thôn ra sinh sống, làm việc tại ở các khu đô thị, các khu công nghiệp. Tình hình này làm cho lao động trong các HTX, LHHTX ở nông thôn mất đi cả về lượng và chất. Hơn 60% số HTX hiện nay đang hoạt động nông nghiệp, nông thôn đã không thể tìm được nguồn lao động trẻ để bổ sung, thay thế lực lượng lao động quá tuổi, phải rời bỏ các vị trí làm việc trong HTX. Kết quả là HTX đã khó khăn về vốn, khoa học công nghiệp lại gặp khó khăn về nhân lực “tích cực” để duy trì, phát triển. Do vậy, cần có chính sách để khuyến khích người dân tham gia HTX, nâng cao số lượng, chất lượng thành viên, người lao động cho các HTX.

2. Định hướng chung về phát triển KTTT, HTX

Năm 2025 là năm cuối cùng thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết đại hội Đảng bộ các cấp, Nghị quyết đại hội Liên minh HTX Việt Nam và Liên minh HTX tỉnh Bắc Ninh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2020 - 2025, vì vậy toàn hệ thống tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong phát triển KTTT, HTX, đẩy mạnh xây dựng hệ thống Liên minh HTX vững mạnh, thực hiện hiệu quả chức năng đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thành viên.

- Đẩy mạnh phát triển kinh tế tập thể phải gắn với phát triển kinh tế - xã hội và chương trình xây dựng nông thôn mới.

- Nâng cao giá trị của HTX đối với thành viên, người lao động về cung ứng dịch vụ, tăng thu nhập, đời sống nhất là địa bàn nông thôn...; tham gia tích cực các chương trình xóa đói, giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở nông thôn, thực hiện hiệu quả các vấn đề xã hội, văn hóa.

- Thực hiện có hiệu quả các chương trình, dự án, cung ứng dịch vụ công hỗ trợ HTX phát triển với nhiều hình thức đa dạng về quy mô và lĩnh vực hoạt động, trong đó chú trọng hỗ trợ xây dựng các mô hình ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số, sản xuất kinh doanh gắn với chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị, tăng cường liên kết hợp tác với các thành phần kinh tế khác.

- Tăng cường hoạt động hỗ trợ cho các tổ chức KTTT, HTX nhằm nâng cao năng lực sản xuất, sức cạnh tranh và khả năng thích nghi trong bối cảnh hội nhập quốc tế, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và biến đổi khí hậu.

3. Mục tiêu tổng quát

- Phát triển KTTT cả chiều rộng và chiều sâu, trong đó đặc biệt chú trọng đến nâng cao chất lượng hoạt động, hỗ trợ thành viên thông qua việc nâng cao nhận thức của đông đảo nhân dân về KTTT, HTX; đồng thời tăng cường năng lực của các tổ chức KTTT để phát huy hơn nữa vai trò liên kết, hợp tác, hỗ trợ thành viên và cộng đồng khu vực; tăng cường năng lực cạnh tranh của kinh tế hộ gia đình đặc biệt là kinh tế hộ nông dân và các cơ sở sản xuất, kinh doanh quy mô vừa và nhỏ trong điều kiện cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế; góp phần cải thiện công bằng xã hội và ổn định kinh tế, chính trị, xã hội; góp phần định hướng xã hội chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở nước ta.

- Tiếp tục củng cố, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập thể, nhất là đối với HTX nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới và tái cơ cấu ngành nông nghiệp.

- Xây dựng và phát triển mô hình KTTT, HTX nhanh và bền vững; phát huy hiệu quả trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống thành viên; phát triển thành viên thông qua thu hút ngày càng nhiều nhân dân, hộ kinh tế cá thể và tổ chức tham gia KTTT, HTX.

- Tiếp tục tập trung xây dựng thí điểm mô hình HTX kiểu mới, hiệu quả; HTX nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, công nghệ số, HTX liên kết sản xuất chuỗi giá trị gắn với các sản phẩm chủ lực, sản phẩm đặc trưng của địa phương.

4. Một số mục tiêu cụ thể

- Xác lập vị trí, vai trò của KTTT, HTX trong phát triển kinh tế - xã hội tại địa phương; xác định tiềm năng về ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn hoạt động của các HTX; tác động của khu vực KTTT tới kinh tế hộ thành viên.

- Phát triển mở rộng số lượng các tổ chức KTTT (THT, HTX, LHHTX) trong tất cả các ngành, lĩnh vực; các HTX gắn với thực hành sản xuất xanh, gắn với chuỗi giá trị và sản phẩm chủ lực của địa phương;

- Rà soát, chấn chỉnh và sắp xếp tinh gọn bộ máy, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức KTTT;

- Phát triển số lượng thành viên, thu hút hộ sản xuất cá thể tham gia vào các tổ chức KTTT;

- Phát triển mô hình liên kết trong các tổ chức KTTT và với bên ngoài.

* Mục tiêu năm 2025:

- Duy trì hoạt động của 225 Tổ hợp tác hiện tại; tiếp tục thực hiện chuyển đổi HTX hoạt động chưa hiệu quả thành THT.

- Tuyên truyền, vận động, tư vấn, hỗ trợ phát triển thêm khoảng 30 HTX so với năm 2024;

- 100% số cán bộ chủ chốt HTX được đào tạo, bồi dưỡng, trong đó 30% được đào tạo trình độ cao đẳng và đại học; 100% cán bộ HTX được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ, kỹ thuật.

- 100% HTX được tiếp cận thông tin thị trường, thông tin khoa học và công nghệ, thông tin về đất đai, tài nguyên, môi trường.

- Thu nhập bình quân của các thành viên, người lao động trong các HTX tăng 8% so với năm 2024.

- Có khoảng 2-3 HTX ứng dụng chuyển giao công nghệ, áp dụng công nghệ cao vào sản xuất, dịch vụ.

- Phát triển thêm được 1 mô hình HTX liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp so với năm 2024.

- Tiếp tục thực hiện giải thể những HTX ngừng hoạt động, những HTX không đăng ký mã số thuế.

5. Các giải pháp phát triển kinh tế tập thể năm 2025

a. Thực hiện tuyên truyền, nâng cao nhận thức về KTTT, HTX

- Quán triệt sâu sắc vai trò của KTTT, HTX trong nền kinh tế thị trường, xu thế phát triển trong mối quan hệ với các chủ thể kinh tế khác.

- Tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn về chính sách, pháp luật HTX nhằm nâng cao nhận thức cho toàn bộ hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên về bản chất, vị trí, vai trò của KTTT, HTX trong phát triển kinh tế - xã hội.

- Xây dựng nội dung và phương pháp đào tạo, tuyên truyền phù hợp cho từng đối tượng để việc tuyên truyền thiết thực và hiệu quả, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú như: Tổ chức hội nghị, hội thảo về HTX, mở các chuyên san, chuyên mục về phát triển KTTT, HTX trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức triển lãm, hội chợ giới thiệu các sản phẩm của HTX, xây dựng các phim phóng sự, phim truyền hình về HTX, phát động phong trào thi đua trong các HTX...

b. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Luật HTX và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật hợp tác xã

- Thực hiện có hiệu quả Luật HTX và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HTX; tiếp tục triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ, ưu đãi phát triển HTX theo Chương trình hỗ trợ phát triển HTX giai đoạn 2021-2025 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; thực hiện xử lý dứt điểm việc nợ đọng ở các hợp tác xã, tạo điều kiện để giải thể các hợp tác xã kiểu cũ, yếu kém hoặc chuyển sang hình thức kinh tế khác.

- Rà soát tình hình hoạt động của HTX, thu hút, kết nạp thêm thành viên, tăng vốn góp của thành viên vào HTX, THT; tăng cường năng lực tổ chức, điều hành, hoạt động kinh doanh cho HTX, THT và cán bộ quản lý HTX, THT.

- Huy động nguồn lực xã hội để phát triển KTTT, HTX. Thực hiện cân đối và bố trí nguồn lực thực hiện các chính sách hỗ trợ, ưu đãi của Nhà nước với kinh tế tập thể, hợp tác xã phù hợp với khả năng cân đối của ngân sách địa phương và điều kiện cụ thể của tỉnh.

- Sắp xếp, bố trí cán bộ đủ năng lực theo dõi, quản lý, giám sát và báo cáo hoạt động của HTX; tập trung bồi dưỡng về kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm cho cán bộ quản lý HTX cấp huyện, cấp xã để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về HTX.

c. Giải pháp phát triển đối với các hợp tác xã nông nghiệp

- Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Quyết định số 167/QĐ-TTg ngày 03/2/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Đề án lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình HTX kiểu mới hiệu quả tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 - 2025;

- Về chính sách tập trung tích tụ đất đai: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và thực hiện công tác hỗ trợ cho các hợp tác xã tập trung tích tụ ruộng đất để sản xuất hàng hóa quy mô lớn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.

- Về chính sách tín dụng: Đẩy mạnh công tác hỗ trợ lãi suất tiền vay cho các hợp tác xã nông nghiệp theo Nghị quyết số 07/2022/NQ-HĐND.

- Về chính sách xúc tiến thương mại và công nghệ: Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, giới thiệu các đối tác liên doanh, liên kết cho các HTX nông nghiệp. Tăng cường tham gia các hội chợ, triển lãm xúc tiến thương mại của tỉnh, Bộ Nông nghiệp và PTNT. Hàng năm, ngân sách tỉnh bố trí kinh phí để thực hiện các chương trình xúc tiến thương mại nhằm tạo điều kiện phát triển sản xuất.

- Về chính sách tư vấn, hỗ trợ xây dựng mô hình KTTT, HTX kiểu mới ứng dụng thành tựu KH-KT, phù hợp với bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0: Xây dựng chuỗi liên kết bền vững giữa 4 nhà: nhà nước, nhà khoa học, nhà nông, nhà doanh nghiệp, trong đó nhà nước đóng vai trò liên kết, kết nối, quản lý các thành phần trong chuỗi giá trị sản xuất, quản lý quy hoạch, dự báo nhu cầu và xu hướng tiêu dùng, hỗ trợ, khuyến khích áp dụng tiến bộ KH-KT vào sản xuất.

d. Giải pháp phát triển đối với các hợp tác xã phi nông nghiệp: xây dựng, vận tải, thương mại

- Khuyến khích và tạo điều kiện các hợp tác xã dịch vụ xây dựng, vận tải phát triển thêm ngành nghề, các dịch vụ đa dạng khác như: xây dựng, sửa chữa cơ khí, cung ứng xăng dầu, vật tư thiết bị phục vụ cho nhu cầu vận tải.

- Tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh vận tải bằng ô tô, kiểm soát tải trọng, kiên quyết xử lý vi phạm tốc độ, thời gian lái xe...

- Nghiên cứu ban hành chính sách ưu tiên giảm thuế thu nhập, hỗ trợ vốn, giảm lãi suất cho vay, ưu tiên, hỗ trợ khuyến khích phát triển HTX, cho phép các HTX được giao đất hoặc thuê đất dài hạn để làm văn phòng, bến bãi đỗ xe, nhà xưởng tạo điều kiện để HTX cung cấp dịch vụ tốt hơn cho xã viên.

Trên đây là Kế hoạch phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2025 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. Các ngành liên quan và các địa phương theo chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện theo đúng các quy định của pháp luật. Trong quá trình thực hiện nếu có khó khăn, vướng mắc, các ngành, các địa phương phản ảnh về Sở Kế hoạch và Đầu tư để tổng hợp, báo cáo UBND tỉnh xem xét, điều chỉnh cho phù hợp./.

 


Nơi nhận:
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (b/c);
- Bộ Nông nghiệp và PTNT (b/c);
- TT Tỉnh ủy, TT HĐND tỉnh (b/c);
- Chủ tịch và các PCT UBND tỉnh;
các Sở: KH&ĐT, TC, NN&PTNT,CT,GTVT, TN&MT, XD, KH&CN;
- Liên minh HTX tỉnh;
- UBND các huyện, thị xã, thành phố;
- Văn phòng UBND tỉnh: LĐVP; KTTH, XDCB;
- Lưu: VT, NN.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Vương Quốc Tuấn

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Kế hoạch 248/KH-UBND năm 2024 về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã năm 2025 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

  • Số hiệu: 248/KH-UBND
  • Loại văn bản: Kế hoạch
  • Ngày ban hành: 31/07/2024
  • Nơi ban hành: Tỉnh Bắc Ninh
  • Người ký: Vương Quốc Tuấn
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 31/07/2024
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản