VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 76/TB-VPCP | Hà Nội, ngày 20 tháng 06 năm 2000 |
Thực hiện Quy chế về mối quan hệ công tác giữa Chính phủ với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, sáng ngày 27 tháng 5 năm 2000, tại Trụ sở của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Thủ tướng Phan Văn Khải đã có buổi làm việc với Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nhằm đánh giá tình hình phối hợp công tác giữa hai bên trong thời gian qua, đồng thời bàn biện pháp để giải quyết các kiến nghị của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Cùng dự buổi làm việc với Thủ tướng Chính phủ có lãnh đạo các Bộ, cơ quan liên quan: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hoá - Thông tin, Bộ Xây dựng, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Văn phòng Chính phủ, Ban Dân vận TW, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp TW.
Sau khi nghe đồng chí Cù Thị Hậu, Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam báo cáo về phong trào công nhân, viên chức, lao động cũng như các hoạt động của Công đoàn cả nước và lãnh đạo các Bộ, cơ quan liên quan phát biểu ý kiến, Thủ tướng Phan Văn Khải kết luận như sau:
Thời gian qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và tổ chức Công đoàn các cấp đã tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục công nhân, viên chức và người lao động; tổ chức nhiều phong trào thi đua yêu nước thiết thực, có hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế - xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Thay mặt Chính phủ, Thủ tướng ghi nhận và hoan nghênh sự đóng góp to lớn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và đánh giá cao kết quả phối hợp hoạt động giữa Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Chính phủ trong thời gian qua.
Hiện nay, khó khăn và thách thức còn nhiều, đòi hỏi chúng ta phải ra sức phát huy nội lực, ngăn chặn bằng được đà giảm sút tốc độ tăng trưởng
kinh tế và phấn đấu để năm 2000 đạt thành tích cao hơn năm 1999. Phải tăng cường đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ để tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế; chăm lo bồi dưỡng nguồn nhân lực, phát triển nhân tài, giải quyết việc làm, tăng mức thu nhập cho các tầng lớp dân cư, thực hiện tốt chương trình xoá đòi giảm nghèo, cải thiện đời sống nhân dân; đấu tranh quyết liệt chống tội phạm và các tệ nạn xã hội, đồng thời phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm môi trường an ninh, trật tự và kỷ cương trong xã hội. Trong những nhiệm vụ đó, tổ chức Công đoàn có vai trò và vị trí đặc biệt quan trọng. Chính phủ mong muốn Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phối hợp chặt chẽ hơn nữa với các cơ quan của Chính phủ, đề ra những chương trình và biện pháp cụ thể về giáo dục, đào tạo, nâng cao giác ngộ chính trị, trình độ văn hoá, tay nghề nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân với quy mô và chất lượng ngày càng cao, đáp ứng kịp thời những yêu cầu mới của sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Công đoàn các cấp cần có phương thức hoạt động thiết thực, phù hợp với tình hình mới, nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động về mọi mặt, góp phần tăng cường sức mạnh tổng hợp và ý chí của dân tộc trong sự nghiệp phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
II/ VỀ NHỮNG KIẾN NGHỊ CỦA TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM :
1. Về chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho người lao động.
Việc bổ sung chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ cho người lao động là cần thiết, nhưng phải đúng đối tượng. Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cơ quan chức năng liên quan khẩn trương hoàn chỉnh đề án để trình Thủ tướng Chính phủ.
2. Về đề nghị nâng tuổi nghỉ hưu đối với lao động nữ.
Về cơ bản, thực hiện theo các quy định của Bộ luật Lao động và các quy định của pháp luật hiện hành. Tuy nhiên, đối với một số chức danh trong khu vực hành chính sự nghiệp có thể vận dụng nâng tuổi nghỉ hưu của nữ giới lên 60 tuổi bằng nam giới nhằm sử dụng tối đa tri thức và kinh nghiệm của lao động nữ, theo một cơ chế phù hợp, nhưng phải trên nguyên tắc người lao động tự nguyện, cơ quan, đơn vị có nhu cầu. Giao Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, các ngành chức năng và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu, trình Chính phủ ban hành chế độ này.
3. Về một số chính sách liên quan đến lao động và việc làm.
3.1. Việc xử lý số lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp, đổi mới quản lý doanh nghiệp Nhà nước là một trong những vấn đề bức xúc cần phải giải quyết. Về nguyên tắc, Nhà nước sẽ có những cơ chế, chính sách giải quyết thoả đáng cho số lao động dôi dư do quá trình sắp xếp lại sản xuất của doanh nghiệp Nhà nước. Vấn đề này sẽ được xử lý trong quá trình thực hiện đề án tổng thể của Chính phủ về việc sắp xếp lại quản lý doanh nghiệp Nhà nước.
3.2. Về chính sách đào tạo lao động, công nhân kỹ thuật cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đây là vấn đề rất quan trọng, cần khuyến khích các ngành và địa phương cùng thực hiện. Giao Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan trình Chính phủ ban hành trong tháng 6 năm 2000 Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành Bộ luật Lao động và Luật Giáo dục về lĩnh vực dạy nghề; trình Chính phủ xét duyệt trong Quý IV/2000 Quy hoạch tổng thể mạng lưới các cơ sở dạy nghề, trong đó có cơ sở dạy nghề của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Thủ tướng C hính phủ nhất trí với Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam về việc cần củng cố Trường Đại học Công đoàn và hai trường Công đoàn ở Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính làm việc với Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để hỗ trợ kinh phí đầu tư cho Trường Công đoàn Hà Nội.
3.3. Về chính sách cho các Trung tâm dịch vụ việc làm của Công
đoàn.
Về nguyên tắc, chính sách, chế độ đối với Trung tâm dịch vụ việc làm, trong đó có các Trung tâm dịch vụ việc làm của Công đoàn là thống nhất. Riêng biên chế của các Trung tâm dịch vụ việc làm của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam do Ban Tổ chức Trung ương quyết định. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam làm việc cụ thể với Ban Tổ chức Trung ương và Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ để giải quyết.
3.4. Về các tổ chức xuất khẩu lao động của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam.
Xuất khẩu lao động là một chính sách quan trọng nhằm góp phần giải quyết việc làm cho người lao động. Giao Bộ Lao động Thương binh và Xã hội làm việc với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để xem xét cụ thể các kiến nghị của Tổng Liên đoàn trên cơ sở các quy định của Nhà nước về xuất khẩu lao động.
4. Về cơ chế phối hợp, tăng cường thanh tra an toàn, vệ sinh lao động.
4.1. Về công tác bảo hộ lao động. Bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động đang là vấn đề bức xúc, đòi hỏi các cơ quan chức năng của Chính phủ và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phải tích cực hơn nữa trong việc kiểm tra, thanh tra và xử lý nghiêm các vi phạm. Giao Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Y tế, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các Bộ, ngành liên quan rà soát lại các quy chế; tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra an toàn - vệ sinh lao động, phát hiện và xử lý kịp thời các sai phạm, phấn đấu trong vài năm tới giải quyết bằng được vấn đề an toàn lao động. Chính phủ mong có sự hợp tác, hỗ trợ tích cực của các tổ chức công đoàn trong nhiệm vụ này.
4.2. Về việc thành lập Hội đồng quốc gia về Bảo hộ lao động.
Giao Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xây dựng đề án, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trong quý III/2000.
5. Về chính sách đối với các nhà văn hoá Lao động của Công đoàn.
Nhìn chung, hiệu quả quản lý và sử dụng hệ thống các nhà văn hoá, trong đó có các nhà văn hoá của các tổ chức Công đoàn còn thấp. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phối hợp với Bộ Văn hoá -Thông tin và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc TW xây dựng đề án quy hoạch và sắp xếp lại hệ thống các nhà văn hoá lao động, từng bước thực hiện chính sách xã hội hoá theo tinh thần Nghị định số 73/1999/NĐ-CP ngày 19/8/1999 về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động y tế, văn hoá, thể thao nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu văn hoá của công nhân, viên chức và người lao động. Đối với một số nhà văn hoá lớn có liên quan đến quan hệ quốc tế, sau khi sắp xếp và chấn chỉnh quản lý mà vẫn không tự trang trải được kinh phí thì Bộ Tài chính làm việc với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam xem xét từng trường hợp cụ thể để có sự hỗ trợ một phần kinh phí giúp họ vượt qua khó khăn, tiến tới tự trang trải.
6. Về vai trò đại diện của tổ chức Công đoàn trong Hội đồng quản trị doanh nghiệp.
Để phát huy quyền giám sát và thực hiện dân chủ cơ sở của tổ chức Công đoàn, Thủ tướng Chính phủ ghi nhận đề nghị của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam về đại diện của tổ chức công đoàn là thành viên Hội đồng quản trị trong các doanh nghiệp Nhà nước có Hội đồng quản trị và trong các Công ty được cổ phần hoá từ doanh nghiệp Nhà nước. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Ban Đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, các Bộ, ngành hữu quan và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Doanh nghiệp Nhà nước và các văn bản quy phạm pháp luật liên quan trình Quốc hội trong năm 2001.
Thủ tướng đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và tổ chức Công đoàn các cấp sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn kinh phí công đoàn 2% trích từ quỹ lương. Trường hợp do yêu cầu của nhiệm vụ, cần có sự hỗ trợ một phần kinh phí từ ngân sách thì tổ chức công đoàn làm việc cụ thể với cơ quan tài chính cùng cấp xem xét giải quyết. Bộ Tài chính thống nhất với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để có văn bản hướng dẫn các ngành, các cấp thực hiện.
Để bảo vệ quyền lợi người lao động trong các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, nhất thiết phải thành lập tổ chức Công đoàn tại doanh nghiệp. Đây là tổ chức hợp pháp duy nhất, đại diện cho người lao động ở các cơ sở này. Về nguyên tắc, chi phí hoạt động của tổ chức công đoàn do tập thể người lao động tự nguyện đóng góp và đề nghị các doanh nghiệp hỗ trợ. Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho mỗi doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài và mỗi doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn một định biên làm công tác công đoàn. Giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam có văn bản hướng dẫn để thực hiện.
9. Về Chính sách bảo hiểm thất nghiệp.
Đây là chính sách quan trọng cần hình thành sớm. Giao Bộ Lao động Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, các ngành liên quan và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam nghiên cứu, xây dựng và trình Chính phủ hình thành Quỹ bảo hiểm thất nghiệp, nhằm đảm bảo tốt hơn quyền lợi của người lao động. Chính phủ sẽ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội Dự án Pháp lệnh Bảo hiểm thất nghiệp.
Đây là một phần trong chính sách nhà ở nói chung mà Chính phủ đã có chủ trương. Tuy vậy, trong thời gian qua, Bộ Xây dựng và Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc TW triển khai chủ trương này còn rất chậm. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Xây dựng chủ trì, phối hợp với các UBND địa phương cấp tỉnh, các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là thành phố Hà Nội, triển khai nhanh chương trình xây dựng nhà ở cho công nhân, viên chức, lao động có thu nhập thấp ở đô thị và các khu công nghiệp. Cần nghiên cứu và nhân rộng các mô hình tốt trong việc giải quyết nhà ở của UBND thành phố Hồ Chí Minh.
Trên cơ sở những vấn đề đã nhất trí trong hội nghị này, đề nghị các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan thuộc Chính phủ có liên quan khẩn trương triển khai các công việc thuộc trách nhiệm Bộ, ngành mình phụ trách. Đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và các cấp công đoàn chủ động hơn nữa trong việc phối hợp với các ngành chức năng có chương trình hành động cụ thể nhằm thực hiện tốt các vấn đề đặt ra và phối hợp với Văn phòng Chính phủ trong việc giúp Thủ tướng Chính phủ đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các Bộ, ngành, địa phương và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thực hiện./.
Nơi nhận: | KT. BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM VPCP
|
- 1Luật Bảo hiểm xã hội 2006
- 2Thông báo số 176/TB-VPCP ngày 06/09/2004 của Văn phòng Chính phủ về ý kiến kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại buổi làm việc với đoàn Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
- 3Nghị định 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao
- 4Công văn về việc hướng dẫn thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội
- 5Nghị định 145/2004/NĐ-CP Hướng dẫn Bộ luật Lao động về việc Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động tham gia với cơ quan nhà nước về chính sách, pháp luật và những vấn đến có liên quan đến quan hệ lao động
- 6Thông báo 44/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị sơ kết 2 năm 1999 - 2000 và triển khai kế hoạch năm 2001 Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa
- 7Thông báo 324/TB-VPCP năm 2013 kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh tại buổi làm việc với lãnh đạo Thành phố Hà Nội sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 8Thông báo 328/TB-VPCP năm 2013 Kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại buổi làm việc với Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản Việt Nam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 9Thông báo 331/TB-VPCP năm 2013 kết luận của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại buổi làm việc với tỉnh Bình Định do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 1Luật Bảo hiểm xã hội 2006
- 2Thông báo số 176/TB-VPCP ngày 06/09/2004 của Văn phòng Chính phủ về ý kiến kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại buổi làm việc với đoàn Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
- 3Nghị định 73/1999/NĐ-CP về chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao
- 4Công văn về việc hướng dẫn thực hiện chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ đối với người lao động tham gia bảo hiểm xã hội
- 5Nghị định 145/2004/NĐ-CP Hướng dẫn Bộ luật Lao động về việc Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam và đại diện của người sử dụng lao động tham gia với cơ quan nhà nước về chính sách, pháp luật và những vấn đến có liên quan đến quan hệ lao động
- 6Thông báo 44/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại Hội nghị sơ kết 2 năm 1999 - 2000 và triển khai kế hoạch năm 2001 Chương trình Phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa
- 7Thông báo 324/TB-VPCP năm 2013 kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh tại buổi làm việc với lãnh đạo Thành phố Hà Nội sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 8Thông báo 328/TB-VPCP năm 2013 Kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải tại buổi làm việc với Tập đoàn Công nghiệp than - khoáng sản Việt Nam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 9Thông báo 331/TB-VPCP năm 2013 kết luận của Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tại buổi làm việc với tỉnh Bình Định do Văn phòng Chính phủ ban hành
Thông báo số 76/TB-VPCP về kết luận của Thủ tướng Phan Văn Khải tại buổi làm việc với đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam do Văn phòng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 76/TB-VPCP
- Loại văn bản: Thông báo
- Ngày ban hành: 20/06/2000
- Nơi ban hành: Văn phòng Chính phủ
- Người ký: Vũ Đình Thuần
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 20/06/2000
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực