- 1Bộ luật Dân sự 1995
- 2Nghị định 92-CP năm 1995 về giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
- 3Luật hợp tác xã 1996
- 4Quyết định 146/2001/QĐ-TTg về việc xử lý nợ tồn động của hợp tác xã nông nghiệp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5Thông tư 31/2002/TT-BTC hướng dẫn triển khai xử lý nợ tồn động của hợp tác xã nông nghiệp do Bộ Tài chính ban hành
- 6Thông tư 03/2003/TT-NHNN hướng dẫn về cho vay không bảo đảm bằng tài sản theo Nghị quyết 02/2003/NQ-CP do Ngân hàng Nhà nước ban hành
ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 50/2003/QĐ-UB | Pleiku, ngày 08 tháng 5 năm 2003 |
QUYẾT ĐỊNH
CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHƯƠNG TRÌNH THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 (KHÓA IX)
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI
Căn cứ Điều 49 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân (sửa đổi 1994);
Thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TU ngày 30 tháng 01 năm 2003 của Ban thường vụ Tỉnh ủy về việc giao nhiệm vụ xây dựng chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX),
QUYẾT ĐỊNH
Điều 1: Nay ban hành kèm theo Quyết định này Chương trình thực hiện Nghị quyết trung ương 5 (khóa IX) "về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" trên địa bàn tỉnh.
Điều 2: Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân - Ủy ban nhân dân tỉnh, Chủ tịch Liên minh HTX tỉnh, Giám đốc các sở, ngành liên quan và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký./.
| TM. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH |
THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 5 (KHÓA IX) VỀ “TIẾP TỤC ĐỔI MỚI, PHÁT TRIỂN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KINH TẾ TẬP THỂ” TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
(Ban hành kèm theo Quyết định số 50/2003/QĐ -UB ngày 08 tháng 5 năm 2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai)
I. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TẬP THỂ TỪ KHI CÓ LUẬT HỢP TÁC XÃ:
Qua 6 năm thi hành Luật hợp tác xã (HTX), đến nay toàn tỉnh có 95 HTX nông nghiệp và phi nông nghiệp đăng ký kinh doanh hoạt động theo Luật HTX, trong đó có 53 HTX chuyển đổi và 42 HTX thành lập mới, gồm:
- HTX nông nghiệp: 43 HTX, tổng vốn điều lệ: 12,7 tỷ đồng, 14.990 xã viên, trên 250 lao động làm việc tại HTX.
- HTX phi nông nghiệp: 52 HTX (23 HTX vận tải, 15 HTX tiểu thủ công nghiệp, 06 HTX xây dựng, 06 quỹ tín dụng nhân dân, 02 HTX thương mại), có tổng vốn điều lệ: 14 tỷ đồng, 6.289 xã viên, thành viên, 2.310 lao động.
- Về kinh tế hợp tác: đến nay toàn tỉnh có trên 1000 tổ, nhóm hợp tác và 1750 tổ vay vốn trong lĩnh vực nông nghiệp. Các tổ, nhóm này hoạt động tự phát, giản đơn (không đăng ký hợp đồng hợp tác theo Luật dân sự), nhằm giúp nhau thực hiện các công đoạn và giải quyết nhu cầu bức xúc trong sản xuất.
1) Mặt mạnh của các HTX và tổ, nhóm hợp tác:
- Các HTX nông nghiệp tổ chức được các loại dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất cho hộ nông dân, một số HTX tổ chức sản xuất gạch, nước đá, kinh doanh xăng dầu, dịch vụ tín dụng nội bộ, điện sinh hoạt, chợ nông thôn, tiêu thụ sản phẩm. Tổng doanh thu dịch vụ và sản xuất, kinh doanh ngành nghề năm 2002 đạt gần 10 tỷ đồng, tăng 6 tỷ đồng so với năm 1998; 16 HTX có lãi đạt 500 triệu đồng; 18 HTX có vốn tích lũy hơn 2 tỷ đồng; có 05 HTX tăng vốn 671 triệu đồng. Thông qua hoạt động dịch vụ của các HTX, năng suất canh tác của hộ xã viên tăng bình quân 30 - 40%, cá biệt có một số vùng đồng bào dân tộc ở huyện Ayun Pa tăng 50%, kinh tế tập thể đã góp phần đáng kể trong việc tăng trưởng kinh tế và xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn. Có 11/43 HTX đạt loại khá. Đặc biệt HTX nông nghiệp Phú Thiện, huyện Ayun Pa được Chính phủ tặng cờ thi đua xuất sắc vì thành tích hoạt động năm 2001. Năm 2002 nổi lên 02 HTX Tân An, huyện An Khê và HTX Chư A Thai, huyện Ayun Pa hoạt động khá toàn diện về tổ chức quản lý, hiệu quả kinh doanh, công tác thi đua, đào tạo, kiểm tra...
- Các HTX vận tải có 1.259 phương tiện vận tải hàng hóa và hành khách tham gia hoạt động trong HTX, tăng 277 phương tiện so với năm 1998 - 1999. Các HTX đáp ứng trên 80% nhu cầu vận chuyển của nhân dân và doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, hàng năm nộp thuế các loại trên 3 tỷ đồng, năm 2002 nộp thuế 3,8 tỷ đồng. Giai đoạn 1999 - 2001 có 03 HTX được Thủ tướng Chính phủ tặng Bằng khen. 12/23 HTX đạt loại khá.
- Các HTX tiểu thủ công nghiệp duy trì đều hoạt động sản xuất, doanh thu năm 2002 đạt 11,8 tỷ đồng, tăng 8,5 tỷ đồng so với năm 1998, lãi 166 triệu đồng, nộp thuế các loại 179 triệu đồng. Một số HTX tổ chức sản xuất gạch hoa, gạch xây, khoan giếng, nệm mousse, chế biến đá xây dựng có thị trường ổn định.
- Các HTX xây dựng có vốn điều lệ năm 2002 đạt 2,7 tỷ đồng, năm 2001 có 03 HTX tăng vốn 1,3 tỷ đồng, doanh thu năm 2002 đạt 8,2 tỷ đồng, tăng 7,6 tỷ đồng so với giai đoạn 1997 - 1999 (kể cả HTX thương mại Hoa Lư, Pleiku có chức năng xây dựng công trình giao thông). Một số HTX ngày càng nâng cao sức cạnh tranh khai thác hợp đồng xây dựng các công trình dân dụng trên địa bàn. Có 04/06 HTX đạt loại khá.
- Các quỹ tín dụng nhân dân duy trì đều hoạt động kinh doanh, doanh số cho vay năm 2002 đạt 10,6 tỷ đồng tăng 3,4 tỷ đồng so với năm 2001, với 1983 lượt thành viên. Hoạt động của các quỹ đã đáp ứng một phần nhu cầu vốn sản xuất cho bà con nông dân và đồng bào dân tộc trên địa bàn, hạn chế nạn cho vay nặng lãi. 05/06 quỹ đạt loại khá.
- Công tác Đảng, đoàn thể: có 44 đảng viên trong 17 HTX nông nghiệp, 04 HTX có chi bộ đảng; 13 đảng viên trong các quỹ tín dụng nhân dân. Các HTX vận tải, tiểu thủ công nghiệp có 15 công đoàn cơ sở với 435 đoàn viên.
- Các tổ, nhóm hợp tác: mỗi tổ, nhóm có từ 3 - 10 người hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nhằm giúp nhau thực hiện từng công đoạn trong sản xuất như: làm đất, thu hoạch, vận chuyển sản phẩm, tưới nước, trao đổi kỹ thuật, mua vật tư, phân bón chung... Các tổ, nhóm hợp tác tuy hoạt động còn giản đơn, tự phát nhưng cũng đã giải quyết được cho người nông dân những yêu cầu trước mắt trong sản xuất.
- Vốn điều lệ của các HTX nông nghiệp phần lớn là tài sản cố định ít sinh lợi từ HTX cũ chuyển sang và công nợ của xã viên khó thu hồi từ trước năm 1996, việc huy động vốn góp mới của xã viên rất hạn chế, thậm chí một số HTX có xã viên ghi tên vào danh sách nhưng thực chất không có góp vốn, các HTX không đủ điều kiện về tài sản thế chấp để vay vốn tín dụng, cho nên các HTX thiếu vốn để mở rộng các loại dịch vụ và ngành nghề sản xuất, kinh doanh.
Năng lực đội ngũ cán bộ quản lý trong HTX nông nghiệp còn yếu kém thiếu năng động và tâm huyết, không đáp ứng được nhu cầu phát triển trong tình hình mới. Kế toán của nhiều HTX chưa thực hiện tốt chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ; thậm chí một số HTX không báo cáo thống kê được. Một số HTX khi tiến hành chuyển đổi theo Luật HTX chưa đạt yêu cầu chất lượng; một số HTX thành lập mới vội vàng, chưa hội đủ yếu tố hoạt động. Còn 27/43 HTX trung bình và yếu kém chậm được cũng cố.
- Các HTX vận tải chưa đầu tư, trang bị phương tiện vận tải thuộc sở hữu tập thể để tăng tích lũy HTX, công tác giáo dục luật lệ giao thông cho xã viên chưa được chú trọng, một số HTX vi phạm nguyên tắc sử dụng hóa đơn, chứng từ và nợ đọng thuế do xã viên chậm nộp cho HTX. Thực hiện Nghị định 92/CP phần lớn phương tiện hết hạn lưu hành chưa có vốn để trang bị mới. Còn 09 HTX trung bình và 02 HTX yếu kém.
- Một số HTX tiểu thủ công nghiệp đăng ký xã viên hình thức, thực chất thiếu số lượng xã viên tối thiểu theo quy định của Chính phủ, kéo dài nhiều năm nay vẫn chưa được chấn chỉnh. Chất lượng tín dụng của một số quỹ tín dụng nhân dân chưa đảm bảo, có quỹ nợ quá hạn ngày càng tăng, khả năng thanh toán chưa kịp thời, cơ sở vật chất còn nghèo nàn. HTX xây dựng Đồng Tâm, huyện Ayun Pa không đủ khả năng củng cố đã đình chỉ hoạt động. Năm 2002 có 02 HTX thương mại Diên Hồng, Pleiku và HTX mộc dân dụng Minh Thành, Đak Đoa giải thể tự nguyện vì không hiệu quả.
- Hoạt động của các tổ, nhóm hợp tác phần lớn chỉ hình thành trong thời gian vụ mùa, chưa có định hướng phát triển, trong thời gian qua chưa có tổ, nhóm nào duy trì tập trung để phát triển thành HTX.
Hoạt động của các HTX từng bước củng cố tổ chức theo mô hình HTX kiểu mới; sản xuất, kinh doanh bắt đầu có hiệu quả, đáp ứng một phần nhu cầu sản xuất và đời sống của người lao động, góp phần giải quyết việc làm, tham gia xóa đói, giảm nghèo. Các HTX nông nghiệp từng bước thể hiện vai trò cần thiết của mình trong phục vụ sản xuất và đời sống ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc. Có 30% HTX hoạt động loại khá.
- Tuy nhiên, hoạt động của các HTX công tác quản lý Nhà nước về HTX vừa lúng túng vừa buông lỏng chỉ đạo; có chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước nhưng không có hướng dẫn và chương trình hành động cụ thể; làm không đến nơi đến chốn, không kiểm tra và không ai chịu trách nhiệm.
- Bản thân các HTX còn thụ động, trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, ý chí tự thân vận động chưa cao. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng chưa thật sự xem HTX là đối tác để cho vay vốn. Hoạt động của các HTX chưa đáp ứng điều kiện để được hưởng các chính sách khuyến khích của Nhà nước.
II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP:
1/ Mục tiêu phát triển kinh tế tập thể:
Cùng cả nước tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể, phấn đấu đạt mục tiêu chung của Nghị quyết TW 5 đề ra đến năm 2010 nhằm đưa kinh tế tập thể thoát khỏi những yếu kém hiện nay, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn, tiến tới tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong GDP của nền kinh tế.
- Tiếp tục củng cố và phát triển số HTX hiện có đồng thời tổ chức vận động xây dựng mới 70 - 80 HTX trong toàn tỉnh, ưu tiên tập trung xây dựng các HTX dịch vụ nông nghiệp tổng hợp.
- Ở những vùng sản xuất tập trung như Ia Grai, Chư Sê, AyunPa, An Khê, Krông Pa chú trọng xây dựng các HTX gia công, sản xuất, chế biến hàng nông sản xuất khẩu. Ở những vùng thị tứ, thị trấn trên địa bàn huyện xây dựng một số HTX tiểu thủ công nghiệp sản xuất cơ khí phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Tiếp tục củng cố, phát triển các mô hình kinh tế hợp tác từ thấp đến cao; kinh tế hợp tác liên kết với các thành phần kinh tế, kinh tế hộ, kinh tế HTX phấn đấu đạt được mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Gia Lai lần thứ XII đề ra.
- Bồi dưỡng các tổ, nhóm hợp tác hiện có để từng bước phát triển thành HTX. Quan tâm tổ chức xây dựng các tổ, nhóm hợp tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc.
- Xây dựng thí điểm một số hội, câu lạc bộ trong lĩnh vực kinh tế trang trại.
- Đến năm 2010 tỷ lệ HTX khá giỏi đạt 70 - 80%, trong đó loại giỏi là 30%, đa số HTX có tích lũy để tái sản xuất, kinh doanh.
- Bình quân hàng năm giải quyết việc làm mới 300 - 400 lao động, đến năm 2010 giải quyết việc làm 3000 lao động với thu nhập bằng mức trung bình của người lao động ở các doanh nghiệp khác.
- Tỷ lệ hộ nông dân tham gia xã viên HTX đạt trên 30% tổng số hộ nông dân trên toàn tỉnh, góp vốn 15 - 20 tỷ đồng.
- GDP của các HTX tham gia vào GDP của tỉnh năm sau cao hơn năm trước. Đóng góp ngân sách tỉnh được cải thiện rõ nét trong cơ cấu các thành phần kinh tế của tỉnh.
- Sau giai đoạn 2010, hoạt động của các HTX hình thành những nhân tố phát triển rõ ràng tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh, tích tụ đủ lực để đi vào công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Tiếp tục triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XII; tập trung quán triệt sâu rộng nội dung Nghị quyết 13 - Hội nghị TW 5, khóa IX về "tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể"; tạo ra sự thống nhất quan điểm, chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta. Tỉnh nghiên cứu vận dụng thực tế điều kiện một tỉnh miền núi tạo cơ chế, chính sách thông thoáng thúc đẩy kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Các sở, ban, ngành; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố cần chủ động tổ chức triển khai thực hiện những công việc cụ thể sau:
a) Tích cực giải quyết những vấn đề tồn tại của các HTX:
- Liên minh HTX tỉnh chủ trì phối hợp Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, đẩy mạnh thực hiện Luật HTX; tổng kết, xác định các tiêu chí theo điều kiện của tỉnh để tiến hành phân loại HTX chuyển đổi và thành lập mới theo Luật.
- Sở Tài chính - Vật giá chủ trì phối hợp với Liên minh HTX tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố từ nay đến năm 2004 chỉ đạo xử lý dứt điểm nợ tồn đọng của các HTX nông nghiệp theo Quyết định số: 146/2001/QĐ-TTg ngày 02/10/2001 của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 31/2002/TT-BTC ngày 29/03/2002 của Bộ Tài chính.
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và Liên minh HTX tỉnh chỉ đạo đến cuối quí III/2003 xử lý dứt điểm (chuyển đổi hoặc giải thể) các HTX nông nghiệp cũ.
- Sở Công nghiệp chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân thành phố Pleiku và Liên minh HTX tỉnh tổ chức soát xét, chấn chỉnh các HTX tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn thành phố Pleiku có số lượng xã viên hình thức, thực chất không đủ xã viên tối thiểu theo quy định và các HTX hoạt động chưa đảm bảo nội dung Luật HTX.
b) Xác lập một cơ chế, chính sách khuyến khích phát triển HTX:
* Chính sách cán bộ:
- Trong quí II/2003, Liên minh HTX tỉnh chủ trì phối hợp Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính - Vật giá và các ban, ngành liên quan trình Ủy ban nhân dân tỉnh kế hoạch đào tạo - bồi dưỡng cán bộ quản lý HTX hằng năm liên tục cho đến năm 2005 theo Công văn số 601/UB-TH ngày 14/4/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh.
- Ở những nơi có điều kiện và cần thiết, Nhà nước chi viện cán bộ tham gia công tác tại HTX trong thời gian nhất định và hỗ trợ kinh phí.
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan và Liên minh HTX tỉnh xây dựng Đề án đào tạo nghề cho khu vực kinh tế tập thể trình Ủy ban nhân dân tỉnh trong quí IV/2003.
- Trong quý IV/2003 Bảo hiểm xã hội tỉnh chủ trì phối hợp với Liên minh HTX tỉnh và các sở, ngành liên quan trình Ủy ban nhân dân tỉnh Đề án thực hiện bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong các HTX.
* Chính sách đất đai:
- Trong quí III/2003, Sở Địa chính chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, Sở Tài chính, Cục Thuế tỉnh và Ủy ban nhân dân huyện, thành phố trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định về việc miễn tiền thuê đất làm trụ sở, nhà kho, xưởng sản xuất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các HTX nông nghiệp; quy định chế độ miễn, giảm tiền thuế đất và chậm nộp tiền thuê đất đối với các HTX phi nông nghiệp ở các địa bàn huyện, thành phố trong tỉnh.
* Chính sách tài chính - tín dụng:
- Đối với các HTX vận tải, ngành thuế trích để lại một phần trong tổng số thuế thu của các HTX để khuyến khích các HTX tăng cường thu thuế, tránh thất thu.
- Các HTX đang hoạt động, thành lập mới là đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi đầu tư như các thành phần kinh tế khác theo Quyết định của Ủy ban nhân dân được tỉnh
- Đối với các HTX nông nghiệp tổ chức dịch vụ thu mua nông sản cho người nông dân được tỉnh cho mượn vốn, trước mắt trong năm 2003 làm thí điểm một số HTX.
- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở kế hoạch - Đầu tư, Quỹ hỗ trợ phát triển bố trí một phần vốn từ Chương trình 120 và mở vốn tín dụng từ các chương trình, dự án Nhà nước cho các HTX vay đầu tư mở rộng sản xuất, giải quyết việc làm theo kế hoạch hàng năm.
- Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh khẩn trương triển khai Thông tư số 03/2003/TT-NHNN ngày 24/02/2003 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hướng dẫn cho vay không phải bảo đảm bằng tài sản.
- Hàng năm Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn chủ động phối hợp với Sở Kế hoạch - Đầu tư và Ủy ban nhân dân huyện, thành phố lập kế hoạch giao cho các HTX nông nghiệp có đủ điều kiện làm chủ một số dự án đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn.
- Giao cho các HTX nông nghiệp quản lý, khai thác các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật ở nông thôn như công trình giao thông, điện, công trình thủy lợi, hàng năm Nhà nước cấp kinh phí để các HTX duy tu, bảo dưỡng công trình (ở những nơi chưa có HTX thì phải tập trung xây dựng HTX để quản lý công trình).
* Chính sách hỗ trợ khoa học - công nghệ:
- Trong quí IV/2003, Sở Khoa học - Công nghệ - Môi trường chủ trì phối hợp với Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, Sở Công nghiệp và Liên minh HTX tỉnh trình Ủy ban nhân dân tỉnh Đề án chuyển giao các thành tựu khoa học mới cho HTX, nghiên cứu sản xuất sản phẩm mới, khai thác nguồn nguyên liệu sẵn có trong tỉnh.
* Chính sách tiếp thị và mở rộng thị trường:
- Hàng năm, ngân sách tỉnh dành một khoản kinh phí trợ giúp cho các HTX trong công tác tiếp thị, giới thiệu sản phẩm, tổ chức hoạt động liên doanh liên kết giữa các HTX với nhau và giữa HTX với các doanh nghiệp khác.
- Liên minh HTX tỉnh tăng cường các mối liên hệ với Liên minh HTX Việt Nam và các đơn vị trực thuộc để tìm kiếm các chương trình, dự án đầu tư trong và ngoài nước hỗ trợ cho các HTX trong tỉnh phát triển sản xuất, kinh doanh.
- Các doanh nghiệp Nhà nước ưu tiên ký hợp đồng cung ứng vật tư, phân bón và tiêu thụ nông lâm sản với nông dân thông qua các HTX nông nghiệp.
- Khuyến khích nông dân và các HTX mua cổ phần của các doanh nghiệp chế biến nông lâm sản.
* Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đối với kinh tế tập thể:
- Căn cứ Nghị định 02/CP ngày 02/11/1997 của Chính phủ về quản lý Nhà nước đối với HTX, trong quí III/2003 Ban Tổ chức chính quyền chủ trì phối hợp với các sở, ngành liên quan trình Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quy định về cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp và của các sở, ban, ngành trong tỉnh.
- Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở, ngành liên quan; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố phân công một đồng chí lãnh đạo cấp phó phụ trách, chỉ đạo phát triển kinh tế tập thể. Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh; các sở, ngành; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố phân công cán bộ theo dõi kinh tế tập thể. Trong các chương trình công tác đưa nội dung, mục tiêu vận động xây dựng kinh tế tập thể và trợ giúp các HTX tháo gỡ khó khăn để phát triển là tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng và năng lực công tác của tập thể, cá nhân.
- Định kỳ hằng năm các sở, ngành liên quan phối hợp với Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và Liên minh HTX tỉnh tổ chức gặp gỡ các HTX tại 3 khu vực Pleiku, An Khê và AyunPa để kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất, kinh doanh của HTX; những vấn đề vượt thẩm quyền các sở, ngành tổng hợp trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét, giải quyết.
- Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, Sở Giao thông vận tải, Sở công nghiệp, Sở xây dựng, Sở thương mại - Du lịch, chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh - từng sở, ngành chủ trì phối hợp với Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố và Liên minh HTX tỉnh tổ chức khảo sát xây dựng Đề án phát triển kinh tế tập thể đến năm 2010 gắn với quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương (gồm 06 Đề án và 06 ngành kinh tế - kỹ thuật) trình Ủy ban nhân dân tỉnh xem xét phê duyệt trong quí IV/2003.
- Trong quí III/2003, Sở Văn hoá - Thông tin chủ trì phối hợp với Liên minh HTX tỉnh, các cơ quan thông tin đại chúng, Sở Giáo dục - Đào tạo, Sở Tư pháp, Hội Văn học nghệ thuật trình Ủy ban nhân dân tỉnh kế hoạch tuyên truyền về kinh tế tập thể. Nội dung tuyên truyền về chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật về kinh tế tập thể, những mô hình HTX kiểu mới, những giá trị đạo đức và nhân văn của kinh tế tập thể, tôn vinh những cá nhân, HTX làm ăn giỏi, từng bước tác động nâng cao nhận thức, tâm tư, tình cảm trong cán bộ và nhân dân, tạo ra tâm lý xã hội thuận lợi thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển. Hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú trên các phương tiện phát thanh, truyền hình, báo chí, loa phóng thanh ở thôn xã; trong các buổi họp dân, trong sáng tác và truyền bá văn học - nghệ thuật, trong các chương trình giảng dạy ở các trường chuyên nghiệp, trường chính trị của tỉnh, huyện và trường, lớp dạy nghề; phát hành ấn phẩm, tủ sách pháp luật, đặc biệt chú ý kênh truyền hình qua các đội thông tin lưu động thuộc ngành văn hóa - thông tin...
- Trong quí III/2003, Cục thống kê chủ trì phối hợp với Sở Tài chính - Vật giá, Sở Kế hoạch - Đầu tư, Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, Cục Thuế và Liên minh HTX tỉnh rà soát hướng dẫn thống nhất thực hiện hệ thống biểu mẫu thống kê, kế toán, chế độ sổ sách, chứng từ phù hợp với yêu cầu quản lý theo từng loại hình HTX.
Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra chặt chẽ hoạt động tín dụng nội bộ trong các HTX nông nghiệp.
* Phát huy vai trò của Liên minh HTX tỉnh đối với phát triển kinh tế tập thể:
- Ủy ban nhân dân tỉnh giao cho Liên minh HTX tỉnh nhiệm vụ quản lý Nhà nước trong lĩnh vực kinh tế tập thể, với chức năng, nhiệm vụ làm đầu mối tham mưu cho Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh những vấn đề về chính sách cũng như các lĩnh vực cụ thể đối với HTX như đào tạo cán bộ, củng cố và thành lập mới HTX, xây dựng kế hoạch hoạt động, chuyên môn nghiệp vụ, phát triển ngành nghề v.v..., tổ chức kiểm tra hoạt động của các HTX và thực hiện công tác thi đua - khen thưởng theo qui định của Ủy ban nhân dân tỉnh trong lĩnh vực kinh tế hợp tác và HTX. Nhiệm vụ này cần phối hợp chặt chẽ với các Sở Nông nghiệp - Phát triển nông thôn, Công nghiệp, Giao thông - Vận tải, Xây dựng, Thương mại - Du lịch, Chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh; các sở, ngành này không bỏ qua chức năng quản lý Nhà nước chuyên ngành đối với kinh tế tập thể nhằm quản lý, củng cố, xây dựng, phát triển hệ thống HTX chuyên ngành và chịu trách nhiệm về hệ thống HTX của ngành mình phụ trách. Ủy ban nhân dân huyện, thành phố, xã, phường, thị trấn theo chức năng của mình có trách nhiệm tổ chức, xây dựng, quản lý hoạt động của kinh tế hợp tác và HTX trên địa bàn.
- Liên minh HTX tỉnh chủ trì phối hợp với các ngành liên quan trong quí IV/2003 trình Ủy ban nhân dân tỉnh Đề án tổ chức thực hiện một số loại hình dịch vụ công nhằm hỗ trợ kinh tế tập thể.
- Ủy ban nhân dân tỉnh giao trách nhiệm cho Liên minh HTX tỉnh chủ trì phối hợp với các sở, ban, ngành liên quan; Ủy ban Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể thành viên; Ủy ban nhân dân các huyện, thành phố tổ chức triển khai thực hiện Chương trình này. Định kỳ 6 tháng Liên minh HTX tỉnh tổng hợp báo cáo kết quả về Ủy ban nhân dân tỉnh để theo dõi, chỉ đạo./.
- 1Quyết định 08/2017/QĐ-UBND bãi bỏ văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân tỉnh Gia Lai
- 2Quyết định 49/QĐ-UBND năm 2018 công bố danh mục văn bản quy phạm pháp luật hết hiệu lực thi hành do tỉnh Gia Lai ban hành
- 3Kế hoạch 162/KH-UBND năm 2020 thực hiện Kế hoạch 204-KH/TU về thực hiện Kết luận 70-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể do tỉnh Thanh Hóa ban hành
- 4Kế hoạch 110/KH-UBND năm 2020 thực hiện Nghị quyết 134/NQ-CP và Chương trình hành động 38-CTr/TU thực hiện Kết luận 70-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể do tỉnh Tuyên Quang ban hành
- 5Quyết định 2052/QĐ-UBND năm 2020 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 134/NQ-CP về thực hiện Kết luận 70-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể do tỉnh Bắc Kạn ban hành
- 1Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân 1994
- 2Bộ luật Dân sự 1995
- 3Nghị định 92-CP năm 1995 về giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản
- 4Luật hợp tác xã 1996
- 5Nghị định 02/CP năm 1997 về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm quản lý Nhà nước của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân các cấp đối với hợp tác xã
- 6Quyết định 146/2001/QĐ-TTg về việc xử lý nợ tồn động của hợp tác xã nông nghiệp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 7Thông tư 31/2002/TT-BTC hướng dẫn triển khai xử lý nợ tồn động của hợp tác xã nông nghiệp do Bộ Tài chính ban hành
- 8Thông tư 03/2003/TT-NHNN hướng dẫn về cho vay không bảo đảm bằng tài sản theo Nghị quyết 02/2003/NQ-CP do Ngân hàng Nhà nước ban hành
- 9Kế hoạch 162/KH-UBND năm 2020 thực hiện Kế hoạch 204-KH/TU về thực hiện Kết luận 70-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể do tỉnh Thanh Hóa ban hành
- 10Kế hoạch 110/KH-UBND năm 2020 thực hiện Nghị quyết 134/NQ-CP và Chương trình hành động 38-CTr/TU thực hiện Kết luận 70-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể do tỉnh Tuyên Quang ban hành
- 11Quyết định 2052/QĐ-UBND năm 2020 về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 134/NQ-CP về thực hiện Kết luận 70-KL/TW về tiếp tục thực hiện Nghị quyết về tiếp tục đổi mới, phát triển nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể do tỉnh Bắc Kạn ban hành
Quyết định 50/2003/QĐ-UB về Chương trình thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) "về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể" trên địa bàn tỉnh Gia Lai
- Số hiệu: 50/2003/QĐ-UB
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 08/05/2003
- Nơi ban hành: Tỉnh Gia Lai
- Người ký: Nguyễn Vỹ Hà
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 08/05/2003
- Ngày hết hiệu lực: 08/03/2017
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực