Hệ thống pháp luật

TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 246-LN-QĐ

Hà Nội, ngày 22 tháng 04 năm 1964

 

QUYẾT ĐỊNH

BAN HÀNH ĐIỀU LỆ TẠM THỜI VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TRẢ THEO SẢN PHẨM TRONG NGÀNH LÂM NGHIỆP

TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP

Căn cứ Nghị định số 140-CP ngày 29-09-1961 của Hội đồng Chính phủ nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp;
Căn cứ Chỉ thị số 83-TTg ngày 06-03-1961 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh thi hành chế độ lương theo sản phẩm và các văn bản hướng dẫn của Bộ Lao động;
Để đẩy mạnh việc thi hành chế độ lương thực sản phẩm cho thích hợp với đặc điểm của ngành lâm nghiệp,

QUYẾT ĐỊNH:

Điều 1. – Ban hành kèm theo quyết định này bản “Điều lệ tạm thời về chế độ tiền lương trả theo sản phẩm trong ngành lâm nghiệp”

Điều 2. – Các ông Cục trưởng, Vụ trưởng các Cục, Vụ, các ông Trưởng ty và Trưởng phòng Lâm nghiệp, các ông Giám đốc lâm trường và thủ tưởng các đơn vị trực thuộc khác có trách nhiệm thi hành quyết định này.

 

 

TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP

 
 
 
Nguyễn Tạo

 

ĐIỀU LỆ TẠM THỜI

VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TRẢ THEO SẢN PHẨM TRONG NGÀNH LÂM NGHIỆP

Chương 1:

NGUYÊN TẮC CHUNG

Điều 1. - Để thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thích hợp với đặc điểm của ngành lâm ngghiệp, nay ban hành điều lệ tạm thời này nhằm quán triệt thêm một bước nguyên tắc phân phối theo lao động, kết hợp chặt chẽ giữa lợi ích của từng công nhân với lợi ích chung của Nhà nước, khuyết khích công nhân phát huy tính tích cực và tính sáng tạo để không ngừng nâng cao năng suất lao động, bảo đảm chất lượng, tiết kiệm nguyên vật liệu, hạ giá thành sản phẩm, đảm bảo an toàn thiết bị, an toàn lao động, góp phần hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước, trên cơ sở đó tăng thêm thu nhập của công nhân một cách hợp lý.

Điều 2. – Trong các lâm trường khai thác, trồng rừng, các cơ sở chế biến lâm sản, vận chuyển và phân phối lâm sản, kiến thiết cơ bản v.v… những công việc nào có thể định được mức lao động, có chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm, thống kê được số lượng và kiểm tra nghiệm thu được chất lượng sản phẩm điều phải tạo điều kiện cần thiết để từng bước thực hiện một trong những chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thích hợp với tính chất và điều kiện sản xuất của từng khâu, từng phần việc, từng cơ sở.

Điều 3. – Các chế độ tiền lương trả theo sản phẩm được áp dụng gồm: Chế độ tiền lương trả theo sản phẩm trực tiếp, chế độ tiền lương trả theo sản phẩm gián tiếp (áp dụng cho công nhân cố định thường xuyên) và chế độ lương khoán ( có thể áp dụng cho công nhân thời vụ, tạm thời hay công nhật v.v…)

Các chế độ tiền lương trả theo sản phẩm trực tiếp và chế độ lương khoán có thể kết hợp với các chế độ tiền thưởng thích hợp.

Điều 4. – Những công việc nào có thể định mức và giao việc cho cá nhân như cắt cỏ thì cần giao việc và trả lương trực tiếp cho từng công nhân. Đối với những công việc do đặc điểm về tổ chức và kỹ thuật sản xuất, không thể định mức và giao việc cho từng cá nhân được như khai thác gỗ, củi, sản xuất than v.v… thì tiến hành giao việc và trả lương cho tập thể công nhân (có thể là số công nhân trong một dây chyền sản xuất hay một nhóm, tổ, đội, công nhân v.v…)

Trong trồng rừng và kiến thiết cơ bản, do cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các thành phần việc trước và sau để tăng năng suất lao động đồng thời đảm bảo chất lượng sản phẩm, công trình; cần tiến tới thực hiện chế độ trả lương theo sản phẩm cho toàn bộ khối lượng công trình tức là những sản phẩm đã dược hoàn thành toàn bộ như tính trả lương theo mét vuông đường sá và nhà cửa từng loại, trả lương theo số cây sống từng loại (có hướng dẫn riêng)

Điều 5. – Các chế độ trả lương theo sản phẩm áp dụng cho tất cả những công nhân sản xuất được công nhận có đủ trình độ kỹ thuật so với yêu cầu của công việc được giao, đảm bảo được chất lượng sản phẩm, đảm bảo an toàn thiết bị và an toàn lao động; về nguyên tắc không áp dụng đối với người học nghề hay còn trong thời gian tập sự.

Điều 6. - Ở những đơn vị thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm cần phải làm tốt công tác định mức lao động, xác định cấp bậc công việc, định đơn giá sản phẩm và phương pháp trả lương. Phải tăng cường công tác kế hoạch thật chặt chẽ, chính xác, tỉ mỉ; tăng cường tổ chức và biện pháp để đảm bảo thống kê, nghiệm thu số lượng và chất lượng sản phẩm được chặt chẽ, chính xác, kịp thời; đảm bảo cung cấp đầy đủ thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và dụng cụ theo yêu cầu sản xuất, tăng cường công tác bảo hộ lao động và an toàn kỹ thuật. Phải có quy định cụ thể và quy các kỹ thuật cho từng loại sản phẩm và quy trình kỹ thuật cho từng loại công việc hay từng khâu sản xuất .

Điều 7. - Việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm phải được tiến hành thận trọng và tích cực dưới sự lãnh đạo thống nhất của cấp ủy Đảng và sự phối hợp chặt chẽ giữa chuyên môn và công đoàn cùng cấp. Phải kết hợp chặt chẽ việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm với việc giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức tư tưởng và trình độ giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho công nhân; khắc phục những nhận thức và tư tưởng sai có ảnh hưởng tới việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm .

Chương 2:

ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG, CẤP BẬC CÔNG VIỆC VÀ ĐỊNH ĐƠN GIÁ SẢN PHẨM

Điều 8. - Định mức lao động là yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo kết quả cho việc thực hiện chế dộ tiền lương trả theo sản phẩm . Định mức lao động để áp dụng trong chế độ tiền lương trả theo sản phẩm phải được xác định theo phương pháp định mức có căn cứ kỹ thuật. Nội dung của nó là dựa vào kết quả quan sát thực tế quá trình làm việc của công nhân bằng phương pháp chụp ảnh, bấm giờ…, tìm ra và có biện pháp khắc phục những bất hợp lý trong quá trình công nghệ, trong tổ chức lao động và trong việc sử dụng thời gian lao động, vạch ra phương pháp làm việc có hiệu quả kinh tế cao nhất, trên cơ sở đó dùng phương pháp tính toán khoa học để định ra mức thời gian và mức sản lượng( có hướng dẫn riêng).

Trong khi chưa có đủ điều kiện định mức theo phương pháp có căn cứ kỹ thuật, tạm thời có thể áp dụng phương pháp thống kê kinh nghiệm kết hợp với việc khảo sát thực tế để phân tích sử dụng công suất máy móc thiết bị, sử dụng thời gian lao động , khắc phục giờ chết và những hiện tượng sử dụng không hợp lý thời gian lao động trong sản xuất. Phải kiên quyết bỏ các phương pháp định mức theo lối ước lượng và thiếu cơ sở thực tế

Các định mức lao động để áp dụng trong chế độ tiền lương trả theo sản phẩm phải có định mức trung bình tiên tiến, được xác định trên cơ sở phân tích đúng đắn các điều kiện thực tế của sản xuất từng nơi, từng lúc, phải tiến hành theo đường lối quần chúng, phải có tác dụng kích thích những nhân tố tích cực và khả năng tiềm tàng trong sản xuất .

Điều 9. - Thời gian sử dụng các định mức lao động để trả lương theo sản phẩm quy định như sau:

1. Khi tổ chức sản xuất , tổ chức lao động, thiết bị máy móc, dụng cụ, quy cách sản phẩm và quy trình kỹ thuật, đối tượng lao động có thay đổi thì phải kịp thời thay đổi định mức cho thích hợp; do thủ trưởng đơn vị quyết định và cho thi hành sau khi có sự thỏa thuận với Ban Chấp hành Công đoàn cùng cấp.

2. Nếu không có thay đổi về các điều kiện kể trên thì việc thay đổi mức phải tiến hành theo định kỳ như sau:

a) Những sản phẩm mới định mức lần đầu chưa có kinh nghiệm, chưa phân tích được đầy đủ khả năng đạt và vượt mức của công nhân thì có thể sau một tháng sẽ xem xét lại mức, sau từ hai đến ba tháng phải công bố định mức chính thức và sau đó từ ba đến sáu tháng sẽ xét lại một lần

b) Những sản phẩm được xác định theo phương pháp định mức và căn cứ kỹ thuật, có phân tích đầy đủ điều kiện và khả năng sản xuất, đảm bảo các định mức tương đối chính xác thì sau sáu tháng sẽ xét lại một lần.

Điều 10. – Những định mức áp dụng trong phạm vi một lâm trường, công ty… thì do thủ trưởng lâm trường, công ty… quyết định và cho thi hành (riêng những lâm trường, cơ sở thuộc ty mà bộ máy quản lý chưa được hoàn chỉnh, trình độ cán bộ còn yếu thì cơ sở đề nghị và do ty quyết định mới được thi hành); những định mức áp dụng cho các cơ sở trong một ty hay toàn ngành thì do Trưởng ty hay Tổng cục trưởng quyết định và cho thi hành.

Khi có những định mức của ty hoặc tổng cục ban hành, các cơ sở trực thuộc phải tổ chức thực hiện theo những quy định trong các định mức của cơ quan cấp trên.

Điều 11. - Cấp bậc công việc là một trong những căn cứ cần thiết để thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm. Mỗi loại sản phẩm hay phần việc đều được quy định một cấp bậc công việc nhất định. Về nguyên tắc, cấp bậc kỹ thuật của công nhân phải phù hợp với cấp bậc công việc.

Những công việc mà Nhà nước hoặc tổng cục đã quy định cấp bậc công việc thống nhất thì phải thi hành theo quy định ấy. Những công việc chưa có quy định cấp bậc công việc thống nhất vì do cơ sở xác định và trình cơ quan quản lý cấp trên trực tiếp xét duyệt và cho áp dụng.

Việc xác định cấp bậc công việc phải căn cứ vào yêu cầu thực tế của sản xuất, tức là căn cứ vào yêu cầu kỹ thuật, tính chất của quá trình sản xuất và đặc điểm về tổ chức lao động của từng loại công việc, đối chiếu với bản tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật để xét định

Điều 12. - Mỗi đơn vị sản phẩm do công nhân sản xuất ra đều được trả một số tiền lương nhất định, gọi là đơn giá sản phẩm.

Mức tiền lương để tính đơn giá sản phẩm gồm lương cấp bậc công việc, phụ cấp khu vực và tỷ lệ khuyến khích (nếu co); các loại phụ cấp khác sẽ tính riêng, không được tính vào đơn giá sản phẩm.

Đơn vị sản phẩm có thể tính bằng các đơn vị tính toán đo lường như: mét, mét vuông, mét khối, cân, tạ, tấn, stère, lít, cái, tấn/km v.v…

Đơn giá sản phẩm được xác định cắn cứ vào mức lương ngày hay tháng của cấp bậc công việc và định mức thời gian hoặc định mức sản lượng của mỗi loại sản phẩm. Về nguyên tắc, cùng một loại sản phẩm, quy cách phẩm chất giống nhau, điều kiện sản xuất, công cụ thiết bị như nhau thì đơn giá phải thống nhất.

1. Trường hợp định mức sản lượng:

a) Tính đơn giá sản phẩm do cá nhân làm ra thì lấy lương cấp bậc công việc cộng phụ cấp khu vực và tỷ lệ khuyến khích (nếu có) chia cho định múc sản lượng. Cụ thể là:

Đơn giá =

Lương cấp bậc công việc

Định mức sản lượng

Ví dụ: Lương một ngày của công việc khai thác nửa (lấy bậc 1) làm cấp bậc công việc, nơi có 20% phụ cấp khu vực là:

43đ00 + 8đ60

= 1đ 98

26

định mức sản lượng khai thác nứa một công là 150 cây; đơn giá khai thác một cây nứa là:

1đ 98

= 0đ0132

150

b) Tính đơn giá sản phẩm do nhiều công nhân phối hợp cùng làm (như một tổ sản xuất chẳng hạn) thì lấy lương cấp bậc công việc bình quân của tổ (cộng phụ cấp khu vực và tỷ lệ khuyến khích nếu có) chia cho định mức sản lượng bình quân của tổ. Cụ thể là

Đơn giá =

Lương cấp bậc công việc bình quân

Định mức sản lượng bình quân

Ví dụ: Theo yêu cầu sản xuất, một tổ khai thác và vận xuất gỗ có 13 công nhân, cấp bậc công việc được xác định là: một bậc 4, một bậc 3, bốn bậc 2 và chín bậc 1; nơi có 20% phụ cấp khu vực, lương cấp bậc công việc bình quân của một công nhân trong một ngày (kể cả 20% phụ cấp khu vực):

(75đ00x1) + (66,24x1) + (58,44x4) + (51,60x9)

= 2đ152

26x15

Định mức sản lượng cho khai thác và vận xuất gỗ bình quân của một công nhân ra đến bãi (nơi nhận sản phẩm ) trong một ngày là

12m3

= 0,8m3

15

Đơn giá một mét khối gỗ ra đến bãi là:

2đ152

= 2đ69

0,8

2. Trường hợp định mức thời gian:

Tính đơn giá sản phẩm trong trường hợp định mức thời gian thì lấy lương cấp bậc công việc (công phụ cấp khu vực và tỷ lệ khuyến khích nếu có) của một đơn vị thời gian nhân với định mức thời gian.

Ví dụ: Theo yêu cầu sản xuất, một tổ tu bổ rừng gồm người công nhân, cấp bậc công việc được xác địmh là: hai bậc 2, tám bậc 1, nơi có 20% phụ cấp khu vực, lương cấp bậc công việc bình quân của một công nhân (kể cả 20% phụ cấp khu vực) trong một ngày là:

(54đ36x2) + (48đ00x8)

= 1đ98

26x10

định mức thời gian cho tu bổ rừng là 19 công một éc-ta (19 công/ha); đơn giá éc-ta rừng tu bổ là 1đ89 x 19 = 35đ91.

Điều 13. – Tùy theo trình độ vận dụng phương pháp định mức và mức độ chính xác của các định mức, các đơn vị đề nghị để tổng cục quyết định cho tính thêm vào đơn giá sản phẩm một tỷ lệ khuyến khích lương sản phẩm, 5%, 7% hoặc 10% mức lương cấp bậc công việc.

Khoản tỷ lệ khuyến khích này chỉ áp dụng đối với những công việc được định mức theo phương pháp định mức có căn cứ kỹ thuật và phương pháp thống kê kinh nghiệm có kết hợp phân tích kỹ thuật; không áp dụng đối với những công việc còn định mức theo phương pháp so sánh, ước lượng thiếu cơ sở thực tế và thống kê kinh nghiệm đơn thuần.

Về nguyên tắc, các định mức có mức độ chính xác cao thì hưởng tỷ lệ khuyến khích và ngược lại, đồng thời có xét những khâu sản xuất quan trọng và những công việc có nhiều phức tạp, khó khăn, nặng nhọc để cho hưởng tỷ lệ khuyến khích cao hơn những khâu ít quan trọng và những công việc đơn giãn, nhẹ nhàng.

Điều 14. – Những công việc có quy định mức lương nóng có hại thì đơn giá sẽ tính trên cơ sở mức lương nóng có hại.

Chương 3:

NGHIỆM THU SẢN PHẨM, CHẾ ĐỘ TRẢ LƯƠNG VÀ CÁC CHẾ ĐỘ CẦN THIẾT ĐỐI VỚI CÔNG NHÂN HƯỞNG LƯƠNG THEO SẢN PHẨM

Điều 15. – Khi giao việc cho công nhân cần quy định thời gian hoàn thành công việc. Sau mỗi đợt hoàn thành công việc, những sản phẩm do công nhân làm ra điều phải kịp thời nghiệm thu và được thanh toán, đảm bảo mỗi tháng ít nhất là hai lần. Thời gian thanh toán cụ thể sẽ do thủ trưởng đơn vị quy định với sự thỏa thuận của công đoàn cùng cấp.

Khi nghiệm thu sản phẩm phải có phiếu giao nhận rõ ràng giữa người sản xuất và cán bộ nghiệm thu. Ngoài sự kiểm tra của cán bộ nghiệm thu, phải có tổ chức kiểm tra chặt chẽ của các cấp thủ trưởng từ đội đến lâm trường theo định kỳ mười ngày hoặc một tháng một lần.

Điều 16. – Sau khi nghiệm thu xác nhận đủ số lượng và quy cách kỹ thuật thì căn cứ vào đơn giá để trả đủ toàn bộ tiền lương của công nhân theo số lượng và chất lượng sản phẩm đã được nghiệm thu.

Nếu có hàng hỏng, xấu và sai phạm quy trình kỹ thuật thì tùy trường hợp mà áp dụng theo “chế độ trả lương khi làm ra hàng hỏng, xấu và sai phạm quy trình kỹ thuật ”, hiện hành. Các đơn vị cần có quy định cụ thể về quy cách sản phẩm, quy trình kỹ thuật và có biện pháp cụ thể để ngăn ngừa hiện tượng làm ẩu, làm dối để hạn chế tới mức tối đa tỷ lệ hàng hỏng, xấu và công trình sai phạm kỹ thuật. Các quy định cụ thể về quy cách sản phẩm, quy trình kỹ thuật và chế độ trả lương khi làm ra hàng hỏng, xấu, sai phạm quy trình kỹ thuật phải được ghi rõ trong nội quy về chế độ trả lương theo sản phẩm của từng đơn vị và phải phổ biến cho công nhân thông suốt.

Điều 17. - Trường hợp sản phẩm đã nghiệm thu và đã trả đủ lương rồi mới phát hiện không đủ số lượng hoặc không đúng quy cách kỹ thuật thì cán bộ nghiệm thu chịu trách nhiệm. Nếu có hiện tượng do công nhân cố tình che giấu mà cán bộ nghiệm thu không phát hiện được, sau khi kiểm tra, xác nhận thì ngoài việc thi hành các biện pháp hành chính cần thiết còn giải quyết như sau:

- Đối với sản phẩm thiếu hụt thì khấu trừ toàn bộ tiền lương tính theo đơn giá quy định cho số sản phẩm thiếu hụt ấy.

- Đối với số sản phẩm không đúng quy cách kỹ thuật thì khấu trừ số tiền lương theo quy định trong “chế độ trả lương mỗi khi làm ra hàng hỏng, xấu” hiện hành.

Số tiền trên đã trừ dần vào tiền lương của công nhân, nhưng hàng tháng trừ nhiều nhất không quá 30% tiền lương cấp bậc và phụ cấp khu vực (nếu có) và đảm bảo số tiền còn được lĩnh không thấp hơn mức lương tối thiểu.

Điều 18. - Nếu có trường hợp do công nhân thiếu trách nhiệm thường làm hư hỏng thiết bị dụng cụ, vật liệu v.v… làm đình trệ công việc sản xuất thì ngoài việc phải chịu kỷ luật, chính quyền và công đoàn cùng cấp có thể tùy tình hình để quyết định bồi thường một phần hay toàn bộ số tiền thiệt hại theo quy định của Nhà nước.

Số tiền này sẽ trừ dần vào tiền lương nhưng hàng tháng không quá 15% tiền lương tháng của họ; nếu có thái độ tốt và sửa chữa tốt thì có thể được xét giảm hoặc miễn số tiền bồi thường.

Điều 19. - Định kỳ trả lương đối với công nhân làm việc theo chế độ tiền lương trả theo sản phẩm cũng theo đúng thời gian quy định đối với công nhân hưởng lương thời gian. Nếu gặp trường hợp đến ngày phát lương nhưng sản phẩm chưa nghiệm thu được thì tạm ứng theo tiền lương tiêu chuẩn trong những ngày làm ra sản phẩm đó và phải thanh toán số tiền thừa hoặc thiếu này vào kỳ phát lương sau.

Điều 20. – Trên nguyên tắc tiền lương sản phẩm phải trả trực tiếp cho từng công nhân. Trường hợp định mức và giao việc cho cá nhân thì căn cứ vào phiếu công tác cá nhân đã được cán bộ nghiệm thu xác nhận để tính trả lương cho từng công nhân.

Trường hợp giao việc và tính trả lương theo sản phẩm cho tập thể thì các cơ sở có trách nhiệm hướng dẫn việc chia tiền lương cho công nhân theo đúng nguyên tắc phân phối theo lao động và đảm bảo việc trả lương đến tận tay người công nhân. Việc chia tiền lương có thể tiến hành theo những phương pháp sau đây:

1. Những công việc thủ công đơn giản , cùng một cấp bậc công việc, năng suất lao động ở đây chủ yếu là do tinh thần, thái độ lao động và tình trạng thể lực quyết định, sẽ do công nhân xét, bình điểm hàng ngày và có thể chia tiền lương cho công nhân theo điểm.

2. Những công việc cần phải có nhiều bậc thợ phối hợp cùng làm mới tiến hành sản xuất được (như công việc khai thác gỗ chẳng hạn) năng suất lao động của tập thể công nhân chủ yếu là do hai yếu tố: trình độ kỹ thuật và tinh thần, thái độ lao động quyết định. Việc chia tiền lương phải chiếu cố thỏa đáng hai yếu tố đó có thể dung phương pháp chia tiền lương bằng cách bình điểm để đánh giá tinh thần, thái độ lao động rồi lấy điểm ấy nhân với hệ số cấp bậc công việc (biểu hiện trình độ kỹ thuật), tích số ấy được gọi là điểm hệ số và chia tiền lương cho công nhân theo điểm hệ số ấy.

3. Những công việc cần bố trí nhiều bậc thợ cùng làm đã cố định được phần việc cho từng người thợ với trình độ nghề nghiệp nhất định và trong quá trình sản xuất đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các loại thợ với nhau khiến mọi người phải có sự cố gắng để bảo đảm phần việc của mình và bảo đảm cho dây chuyền sản xuất được liên tục, trường hợp này năng suất lao động của tập thể chủ yếu là do trình độ kỹ thuật quyết định, có thể dùng phương pháp của tiền lương theo hệ số cấp bậc công việc và số ngày làm việc của mỗi người phụ trách công việc đó.
Việc áp dụng phương pháp chia tiền lương nào điều do công nhân trong từng tổ lựa chọn, đồng thời phải hướng dẫn cho công nhân thông suốt yêu cầu, nội dung của từng phương pháp để thực hiện cho tốt.

Điều 21. - Mỗi kỳ phát lương, tiền lương của công nhân được lĩnh gồm: tiền lương tính theo đơn giá của số sản phẩm đã sản xuất ra; tiền lương thời gian trong những trường họp không làm việc theo chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, tiền lương trong những ngày ngừng việc, nghỉ việc do Nhà nước quy định được trả lương và các khoản phụ cấp không được tính vào đơn giá sản phẩm .

Điều 22. – Khi giao việc cho công nhân, các cơ sở có trách nhiệm đảm bảo cấp bậc kỹ thuật của công nhân luôn luôn phù hợp với cấp bậc công việc.Trường hợp đặc biệt không thể giao việc phù hợp được thì giải quyết như sau:

1. Công nhân có cấp bậc cao làm công việc ở cấp bậc thấp hơn từ hai bậc trở lên thì ngoài tiền lương tính theo đơn giá của số sản phẩm sản xuất ra, còn được hưởng thêm khoản tiền chênh lệch giữa hai mức lương cấp bậc công nhân và cấp bậc công việc với điều kiện là phải hoàn thành định mức: Nếu không hoàn thành được định mức thì chỉ trả lương theo đơn giá số sản phẩm đã xuất ra. Trường hợp cấp bậc kỹ thuật của công nhân cao hơn một bậc so với cấp bậc công việc thì chỉ hưởng lương theo đơn giá số sản phẩm đã xuất ra, không tính tiền chênh lệch giữa hai mức lương cấp bậc công nhân và cấp bậc công việc.

2. Công nhân bậc thấp đảm bảo được yêu cầu và chất lượng công việc bậc cao, được bố trí làm công việc bậc cao thì được hưởng lương theo đơn giá sản phẩm quy định cho công việc bậc cao; không được vì cấp bậc công nhân thấp mà hạ thấp đơn giá hoặc tăng định mức đã quy định cho công việc ấy.

3. Riêng đối với công nhân làm những công việc đơn giản không cần dùng đến kỹ thuật, hoặc hưởng mức lương theo điều kiện lao động nặng nhẹ khác nhau đã ghi rõ trong các bảng lương nghề nghiệp, khi làm công việc nào thì trả lương theo đơn giá sản phẩm quy định cho công việc ấy; không được tính trả chênh lệch.

Điều 23. - Lần đầu tiên thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, khi thay đổi mặt hàng sản xuất, khi điều chỉnh nâng định mức sản lượng và những công việc còn định mức tạm thời, nếu có trường hợp công nhân không đạt mức thì tiền lương sẽ được đảm bảo như sau:

1. Nếu trên một phần ba (1/3) số công nhân trong bộ phận được giao việc bị hụt mức thì được bảo đảm trả đủ lương cấp bậc và phụ cấp khu vực (nếu có) từ một đến ba tháng, do thủ trưởng lâm trường quyết định, sau khi thống nhất ý kiến với Ban chấp hành Công đoàn cùng cấp.

2. Nếu dưới một phần ba (1/3) số công nhân trong bộ phận được giao việc bị hụt mức thì trả lương theo đơn giá số sản phẩm sản xuất ra, nhưng được bảo đảm không thấp quá 80% lương cấp bậc và phụ cấp khu vực (nếu có) trong thời gian ba tháng; đơn vị có trách nhiệm tích cực giúp đỡ để những công nhân ấy đạt được định mức.

Riêng những công nhân được giao việc theo khối lượng thì việc so sánh chung toàn bộ khối lượng được giao.

Điều 24. – Khi công nhân phải ngừng việc vì máy móc, thiết bị, vì thời tiết, thiên tai hoặc vì nguyên nhân khác, thủ trưởng đơn vị phải kịp thời bố trí làm việc khác và tiền lương được trả như sau:

1. Nếu tạm thời đều động làm công việc khác nghề đang áp dụng chế độ lương sản phẩm, sẽ được trả lương tính theo đơn giá số sản phẩm sản xuất ra.

2. Nếu tạm thời điều động làm công việc khác nghề đang áp dụng chế độ trả lương theo thời gian thì sẽ trả lương theo thời gian của công việc được giao.

Trong cả hai trường hợp trên đều được đảm bảo trả lương không thấp quá 80% lương cấp bậc và phụ cấp khu vực (nếu có) của bản thân công nhân trước khi ngừng việc.

3. Nếu công nhân ngừng việc mà không bố trí được công việc khác thì tùy từng trường hợp mà áp dụng theo “chế độ trả lương khi ngừng việc ” hiện hành.

Điều 25. – Những ngày được cử đi công tác đi họp hay làm công việc nào khác được cấp trên giao cho, những ngày nghỉ lễ, nghỉ phép hàng năm và nghỉ phép có chế độ do Nhà nước quy định được trả lương thì áp dụng theo chế độ trả lương hiện hành.

Điều 26. – Những nữ công nhân đang hưởng lương sản phẩm được rút bớt giờ làm việc theo quy định của Nhà nước như trong các trường hợp cho con bú, có thai từ tháng thứ bẩy trở đi trong một số nghề v.v… thì ngoài tiền lương tính theo đơn giá của số sản phẩm sản xuất ra, những giờ nghỉ ngơi được trả lương theo chế độ hiện hành.

Những nữ công nhân có thai từ tháng thứ bẩy trở đi đang làm công việc nặng nhọc được chuyển sang làm công việc nhẹ được hưởng lương theo chế độ hiện hành.

Điều 27. – Đối với những người học nghề theo lối kèm cặp và trong thời gian tập sự không áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm. Đối với những công nhân tạm chuyển đang hưởng 85% lương cấp bậc, nếu thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thì vẫn trả lương theo chế độ hiện hành.

Điều 28. - Trường hợp làm thêm giờ theo quy định của Nhà nước được trả mức lương hoặc phụ cấp cao hơn lương giờ thường thì ngoài tiền lương tính theo đơn giá số sản phẩm sản xuất ra, sẽ được trả thêm phần lương hoặc phụ cấp cao hơn mức lương giờ thường tính theo số giờ thực tế đã làm thêm.

Điều 29. – Những công nhân hưởng lương theo sản phẩm được giao nhiệm vụ dạy nghề theo lối kèm cặp, nếu đảm bảo đúng yêu cầu của cấp trên giao cho được hưởng phụ cấp dậy nghề theo chế độ hiện hành.

Điều 30. – Ngoài những điều quy định cụ thể trên đây, công nhân hưởng chế độ tiền lương trả theo sản phẩm được hưởng đầy đủ các chế độ lao động và các khoản đãi ngộ khác do Nhà nước quy định như những công nhân hưởng chế độ trả lương theo thời gian.

Chương 4:

TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ PHẠM VI TRÁCH NHIỆM CÙA CÁC BỘ MÔN CÓ LIÊN QUAN

Điều 31. - Chế độ tiền lương trả theo sản phẩn là hình thức chính của chế độ tiền lương đồng thời cũng là một chế độ quản lý quan trọng của các xí nghiệp xã hội chủ nghĩa nhằm phát huy tác dụng của quy luật phân phối theo lao động, đẩy mạnh sản xuất phát triển.

Cán bộ lãnh đạo các cấp trong ngành có trách nhiệm thực hiện một cách tích cực và nghiêm chỉnh chế độ này dưới sự lãnh đạo thống nhất của Đảng ủy và sự phối hợp chặt chẽ với Công đoàn và Đoàn Thanh niên lao động cùng cấp. Phải theo đúng tinh thần và những quy định của bản điều lệ này để không ngừng mở rộng và nâng cao chất lượng công tác lương sản phẩm trong đơn vị mình; phải nắm vững tình hình thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, những vấn đề phát sinh và còn tồn tại để cùng các bộ môn có liên quan giải quyết kịp thời.

Phó thủ trưởng phụ trách kinh doanh ở các cấp trực tiếp phụ trách công tác này. Ở những đơn vị không có phó thủ trưởng thì thủ trưởng đơn vị trực tiếp phụ trách.

Điều 32. – Các cơ sở tiến hành thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm cần làm tốt những việc sau đây:

1. Tăng cường công tác kế hoạch, bảo đảm phân phối nhiệm vụ công tác đầy đủ, rõ ràng, kịp thời; cung cấp đầy đủ nhân lực máy móc, dụng cụ, nguyên nhiên vật liệu v.v… theo yêu cầu sản xuất; tránh hiện tượng chờ đợi và làm cho sản xuất bị gián đoạn.

2. Chỉ đạo chặt chẽ và xây dựng tốt các định mức lao động cho từng khâu sản xuất và từng loại công việc, có biện pháp quản lý chặt chẽ và sử dụng tốt lao động, đề cao kỷ luật lao động; coi trọng công tác an toàn lao động và an toàn kỹ thuật.

3. Nghiên cứu quy định cụ thể và chính xác cấp bậc công việc để tính đơn giá hợp lý.

4. Có nội quy cụ thể về thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thích hợp với từng cơ sở và từng khâu sản xuất, quy định chặt chẽ chỉ tiêu chất lượng sản phẩm và quy trình kỹ thuật trong sản xuất.

5. Hướng dẫn công nhân, tổ, đội sản xuất lập và ghi phiếu công tác; bảo đảm thống kê, kiểm tra, nghiệm thu chặt chẽ kịp thời về số lượng và chất lượng sản phẩm để trả lương cho công nhân được chính xác. Có định kỳ ba hoặc sáu tháng tổ chức phân tích hiệu quả kinh tế của chế độ tiền lương trả theo sản phẩm.

6. Thường xuyên nắm vững tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình hoàn thành định mức lao động của công nhân, tổ, đội sản xuất để kịp thời phân tích tình hình, có biện pháp giúp đỡ công nhân hoàn thành tốt nhiệm vụ.

7. Có kế hoạch đúc kết và phổ biến kinh nghiệm tiên tiến nhằm khuyến khích cải tiến kỹ thuật và áp dụng kỹ thuật mới một cách rộng rãi, đi sát giúp đỡ những cá nhân và đơn vị không đạt mức.

8. Luôn coi trọng công tác giáo dục chính sách, lãnh đạo tư tưởng; quan tâm đến việc không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, văn hoá của cán bộ, công nhân, giúp công nhân giải quyết những khó khăn trong sản xuất, sinh hoạt và học tập để tiến hành sản xuất được tốt.

9. Tăng cường chỉ đạo bộ môn lao động tiền lương là bộ môn có trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực hiện chế đọ tiền lương trả theo sản phẩm, các chế độ tiền thưởng, công tác định mức lao động và thực hiện các chính sách, chế độ về lao động tiền lương.

Điều 33. - Bộ môn lao động tiền lương và định mức lao động chịu trách nhiệm chính trong việc tổ chức thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, có nhiệm vụ chủ yếu như sau:

1. Thường xuyên nắm vững tình hình sử dụng thì giờ làm việc và thời gian lao động của công nhân; có biện pháp giải quyết kịp thời những vấn đề tồn tại nhằm tận dụng thời gian làm việc, tận dụng điều kiện mở rộng chế độ tiền lương trả theo sản phẩm.

2. Thường xuyên đi sát sản xuất, dung phương pháp khảo sát thời gian lao động để cải tiến và nâng cao chất lượng công tác định mức; phát hiện và đề nghị những biện pháp có hiệu quả để giải quyết các vấn đề tồn tại về tổ chức sản xuất và tổ chức lao động nhằm sử dụng hợp lý sức lao động và không ngừng nâng cao năng suất lao động.

3. Nắm vững tình hình vượt và hụt mức tăng và giảm về tiền lương; tiến hành phân tích một cách có hệ thống, tích lũy tài liệu và ý kiến giải quyết về những vấn đề này, đặc biệt vấn đề định mức và đơn giá.

4. Nắm chắc những số liệu thống kê về nghiệm thu sản phẩm và thời gian lao động của công nhân để giám sát việc trả lương được chính xác, kịp thời.

5. Chú trọng sơ kết, tổng kết tình hình thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm để đánh giá một cách toàn diện kết quả chung, đề xuất ý kiến giải quyết những vấn đề tồn tại về chính sách, về tổ chức thực hiện và biện pháp nghiệp vụ để không ngừng mở rộng diện và nâng cao chất lượng công tác lương sản phẩm.

6. Phối hợp với các bộ môn kỹ thuật, giáo dục để tổng kết và phổ biến những kinh nghiệm tiên tiến trong sản xuất.

Điều 34. - Bộ môn kiểm tra nghiệm thu sản phẩm phải có chế độ công tác rõ ràng, phải nghiệm thu kịp thời và chu đáo những sản phẩm của công nhân làm ra, có biên nhận về số lượng và chất lượng sản phẩm ghi trong phiếu công tác của công nhân, tổ, đội sản xuất, có sổ sách ghi chép, thống kê về số lượng và chất lượng sản phẩm để giúp cho bộ phận kế toán trả lương được chính xác.

Trong công tác kiểm tra, cần chú trọng đúng mức việc kiểm tra chất lượng sản phẩm và quy trình kỹ thuật; kiểm tra và giúp đỡ công nhân giữ gìn, bảo quản tốt sản phẩm hàng hóa.

Điều 35. - Bộ môn kế hoạch có trách nhiệm xây dựng và phân bố kế hoạch sản xuất được sít sao, kịp thời, bảo đảm cho sản xuất được tiến hành thuận lợi và liên tục, xóa bỏ dần tình trạng làm việc không có kế hoạch chu đáo, chấp vá, làm cho kế hoạch sản xuất không ổn định, ảnh hưởng đế việc phân bổ, quản lý và sử dụng lực lượng lao động và ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm.

Điều 36. - Bộ môn thống kê có trách nhiệm thống kê kịp thời và chính xác tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình sử dụng lao động, thực hiện định mức lao động, thực hiện quỹ tiền lương và tình hình biến động của giá thành, cùng với bộ môn lao động tiền lương phân tích các tình hình nói trên, phân tích hiệu quả kinh tế của việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm, đề xuất những biện pháp để nâng cao chất lượng công tác lương sản phẩm và bảo đảm thực hiện tốt, cân đối các chỉ tiêu trên.

Điều 37. - Bộ môn kỹ thuật có trách nhiệm chủ yếu là tạo mọi điều kiện cần thiết và hết lòng giúp đỡ công nhân hoàn thành các định mức lao động để không ngừng nâng cao năng suất lao động, cụ thể là:

1. Nghiên cứu quy định chỉ tiêu chất lượng sản phẩm, quy trình kỹ thuật trong sản xuất; hướng dẫn công nhân đảm bảo tốt chất lượng sản phẩm và thực hiện đúng quy trình kỹ thuật, sử dụng và bảo quản tốt máy móc, thiết bị, dụng cụ sản xuất, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu v.v…, nhằm sản xuất được nhiều sản phẩm chất lượng tốt, đồng thời bảo đảm được an toàn kỹ thuật và an toàn lao động.

2. Thường xuyên tìm tòi, phát hiện, tổng hợp, phân tích và phổ biến những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến của công nhân trong việc cải tiến thiết bị, phương tiện và dụng cụ sản xuất; giúp công nhân nắm vững và áp dụng tốt các công cụ cải tiến và những sáng kiến về hợp lý hóa sản xuất, cải tiến kỹ thuật; đặt biệt quan tâm đến những người vượt mức và hụt mức, phân tích nguyên nhân để kịp thời có kế hoạch và biện pháp giúp đỡ có hiệu quả.

Điều 38. - Bộ môn kế toán có trách nhiệm tính toán và trả lương cho công nhân được kịp thời, chính xác theo chế độ đã quy định; theo dõi tình hình chi tiêu quỹ tiền lương, phát hiện và đề xuất ý kiến giải quyết để giữ vững sự cân đối giữa việc chi tiêu quỹ tiền lương và hoàn thành kế hoạch sản xuất; góp ý trong việc thực hiện chế độ và phương pháp tính toán trả lương cho công nhân theo đúng chế độ đã quy định.

Điều 39. – Những công nhân thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm có nhiệm vụ phải tôn trọng và thi hành đúng các nội quy của đơn vị, tôn trọng kỷ luật lao động, phải cố gắng học tập, cải tiến kỹ thuật và phương pháp làm việc để không ngừng nâng cao năng suất lao động, hoàn thành các định mức lao động, bảo đảm chất lượng sản phẩm và quy trình kỹ thuật, sử dụng và bảo quản tốt máy móc, thiết bị, dụng cụ sản xuất, tiết kiệm nguyên nhiên vật liệu, bảo đảm an toàn thiết bị và an toàn lao động, phát huy tích cực, chủ động và sáng tạo để thực hiện tốt chế độ tiền lương trả theo sản phẩm.

Điều 40. – Trong khi thực hiện, từng địa phương, cơ sở cần xây dựng nội quy cụ thể về chế độ tiền lương trả theo sản phẩm cho thích hợp với địa phương cơ sở mình nhưng không được trái với những nguyên tắc và quy định trong điều lệ này.

Điều 41. - Điều lệ này thay thế những văn bản của Tổng cục từ trước đến nay quy định và hướng dẫn về chế độ tiền lương trả theo sản phẩm trong ngành lâm nghiệp.

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Quyết định 246-LN-QĐ năm 1964 về ban hành điều lệ tạm thời về chế độ tiền lương trả theo sản phẩm trong ngành lâm nghiệp do Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp ban hành

  • Số hiệu: 246-LN-QĐ
  • Loại văn bản: Quyết định
  • Ngày ban hành: 22/04/1964
  • Nơi ban hành: Tổng cục Lâm nghiệp
  • Người ký: Nguyễn Tạo
  • Ngày công báo: 20/05/1964
  • Số công báo: Số 13
  • Ngày hiệu lực: 07/05/1964
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản