TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 1057-LN/QĐ | Hà Nội, ngày 25 tháng 07 năm 1974 |
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TRẢ THEO SẢN PHẨM TRONG LÂM NGHIỆP
TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP
Căn cứ vào Nghị định số 140-CP ngày 29-9-1964 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm Nghiệp;
Căn cứ vào Quyết định số 235-Cp ngày 09-12-1970 của Hội đồng Chính phủ về việc phát triển và củng cố chế độ tiền lương trả theo sản phẩm và Thông tư số 08-LĐ/TT ngày 26-5-1971 cảu Bộ Lao động hướng dẫn thi hành Quyết định nói trên;
Để đẩy mạnh việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm sát, hợp với đặc điểm về sản xuất của ngành;
Theo đề nghị của ông Vụ trưởng Vụ lao động tiền lương.
QUYẾT ĐỊNH:
| K.T. TỔNG CỤC TRƯỞNG TỔNG CỤC LÂM NGHIỆP |
VỀ CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TRẢ THEO SẢN PHẨM ÁP DỤNG TRONG NGÀNH LÂM NGHIỆP
(Ban hành kèm theo Quyết định số 1057-LN/QĐ ngày 25-7-1974 của Tổng cục Lâm nghiệp)
Nhằm quán triệt hơn nữa nguyên tắc phân phối theo lao động, khuyến khích công nhân làm vịêc hăng say và sáng tạo để tăng năng suất lao động, bảo đảm chất lượng sản phẩm, góp phần hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước, trên cơ sở đó vừa tăng thêm tích lũy cho Nhà nước, vừa tăng thu nhập cho công nhân; căn cứ Quyết định số 235-CP ngày 09-12-1970 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư số 08-LĐ/TT ngày 26-5-1971 của Bộ Lao động về việc củng cố và phát triển chế độ tiền lương trả theo sản phẩm; dựa vào những kinh nghiệm đã đúc kết được và tình hình thực tế của ngành Tổng cục ban hành Điều lệ này để quy định và hướng dẫn các vấn đề cụ thể nhằm đảm bảo việc thực hiện chế độ tiền lương trả theo sản phẩm được sát hợp với tình hình, đặc điểm sản xuất của ngành và đạt được các yêu cầu đã nêu trong Quyết định số 235-CP ngày 09-12-1970 của Hội đồng Chính phủ.
Thủ trưởng các đơn vị phải kết hợp chặt chẽ với Ban chấp hành Công đoàn cùng cấp để sớm tổ chức thực hiện, tích cực mở rộng để mau chóng đưa chế độ tiền lương trả theo sản phẩm thành hình thức trả lương chủ yếu trong các đơn vị sản xuất của ngành, từng bước củng cố và nâng cao chất lượng nhằm đem lại hiệu qua kinh tế thiết thực, toàn diện và ngày càng cao.
- Làm tốt công tác chuẩn bị và bảo đảm các điều kiện vật chất – kỹ thuật (chú ý các việc: có nhiệm vụ sản xuất cụ thể và đầy đủ, có đủ phương tiện và công cụ sản xuất cần thiết, nguyên nhiên vật liệu, quy định rõ các yêu cầu về kỹ thuật và quy cách, chất lượng sản phẩm) để công nhân sản xuất liện tục, có năng suất lao động cao, bảo đảm các yêu cầu kỹ thuật, quy cách , chất lượng sản phẩm an toàn lao động và an toàn thiết bị, máy móc .
- Xây dựng định mức lao động chính xác, quy định cấp bậc công việc đúng đắn để có đơn giá trả lương hợp lý.
- Tổ chức nghiệm thu chặt chẽ, chính xác để trả lương đúng theo số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra.
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch tác nghiệp ở các đội trạm, phân xường để bảo đảm sản xuất được cân đối và liên tục; tổ chức, bố trí và sử dụng lao động hợp lý; thống kê chính xác ngày công và kết quả sản xuất của từng tổ, từng người; bảo đảm trả lương chính xác, đúng thời hạn đến tận tay người công nhân.
- Kết hợp chặt chẽ giữa khuyến khích lợi ích vật chất với giáo dục chính trị nhằm nâng vao giác ngộ xã hội chủ nghĩa và tin thần làm chủ tập thể của công nhân; giữa nâng cao năng suất lao động với bảo đảm quy cách chất lượng sản phẩm, tiết kiệm nguyên, nhiện, vật liệu, bảo đảm an toàn thiết thị, máy móc và an toàn lao động; giữa đẩy mạnh sản xuất với chănm lo đời sống và bảo vệ sức khỏe cho cán bộ công nhân.
a)Trong trồng rừng: trả lương cho tổ sản xuất theo số lượng cây con đạt tiêu chuẩn và theo số cây trồng sống của từng lô rừng.
b) Trong chăm sóc, tu bổ rừng: trả lương cho tổ sản xuất theo diện tích của từng lô rừng sau khi đã chăm sóc, tu bổ đúng theo các yêu cầu kỹ thuật đã quy định.
c) Trong khai thác lâm sản: trả lương cho tổ sản xuất theo số số lượng sản phẩm đã đưa ra bãi I, trên cơ sở có giao rừng trước khi khai thác và nghiệm thu rừng sau khi khai thác đối với từng lô một, công nhân phải bảo đảm quy cách chất lượng sản phẩm làm ra và bảo đảm các yêu cầu về tái sinh, bảo vệ rừng nơi đã khai thác.
d) Trong vận chuyển lâm sản: trả lương theo đầu xe (đối với ô tô) và theo tổ hoặc nhóm công nhân xuôi bè theo khối lượng hàng hóa vận chuyển được, với điều kiện bảo đảm an toàn cho ngừơi, phương tiện và không để mất hoặc thiếu hụt hàng hóa vận chuyển.
(Sẽ có văn bản hướng dẫn cụ thể và chi tiết về các hình thức lương sản phẩm áp dụng cho các việc và dây chuyền sản xuất kể trên).
Còn đối với các công việc và dây chuyền sản xuất khác sẽ vận dụng các hình thức lương sản phẩm đã hướng dẫn tại điểm 2, mục II của Thông tư số 08-LĐ/TT ngày 26-5-1971 của Bộ Lao động.
ĐỊNH MỨC LAO ĐỘNG, CẤP BẬC CÔNG VIỆC ĐƠN GIÁ SẢN PHẨM
Phải xuất phát từ tình hình thực tế từng nơi, từng lúc mà chấn chỉnh tổ chức sản xuất và tổ chức lao động cho hợp lý, áp dụng các phương pháp và kinh nhiệm sản xuất tiên tiến, trên cơ sở đó dùng phương pháp quan sát và phân tích việc sử dụng thời gian lao động, thời gian sử dụng thiết bị máy móc để xây dựng định mức lao động đúng đắn, sát với thực tế, không được dùng phương pháp định mức theo lối ước lượng thiếu căn cứ khoa hoc thực tế.
Trước mắt, các đơn vị phải kịp thời sửa đổi các định mức không còn phù hợp với thực tế. Phải tổ chức cho công nhân tham gia ý kiến vào việc xây dựng và bàn biện pháp thực hiện những định mức lao động đề trả lương theo sản phẩm.
Những công việc đã có tiêu chuẩn định mức của ngành, của Nhà nước thì các đơn vị phải tổ chức áp dụng cho sát thực tế sản xuất ở đơn vị mình những định mức nội bộ sẽ do giám đốc lâm trường, công ty, xí nghiệp Quyết định cho thi hành, sau khi đã có sự tham gia của Ban chấp hành công đoàn cơ sở.
Điều 6. – Thời hạn sử dụng các định mức lao động để trả lương theo sản phẩm được quy định như sau.
Khi tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, thiết bị máy móc, dụng cụ sản xuất, quy cách chất lượng sản phẩm, quy định công nghệ và đối tượng lao động có thay đổi, thì phải kịp thời có sửa đổi định mức cho phù hợp với thực tế sản xuất, không phụ thuộc vào định kỳ thay đổi định mức.
Nếu không có sự thay đổi trên, thì những định mức lần đầu chưa có kinh nghiệm, phải theo dõi chặt chẽ để điều chình kịp thời và sau không quá 3 tháng, phải công bố thành định mức chính xác. Các định mức chính thức thì sau 6 tháng phải xem xét, nếu không còn thích hợp thì phải kịp thời sửa đổi. Mỗi lần sửa đổi định đổi mức lao động phải công bố và phân tích cho công nhân biết rõ lý do trước khi thực hiện định mức mới; đồng thời phải đi sát giúp đỡ và tạo điều kiện cho công nhân phấn đấu đạt và vượt các định mức đó.
Đối với công việc đã có cấp bậc công việc thống nhất của ngành, của Nhà nước thì các đơn vị phải thực hiện theo các quy định và hướng dẫn thống nhất đó. Đối với những công việc chưa có quy định về cấp bậc công việc thống nhất thì các đơn vị căn cứ vào các phương pháp đã hướng dẫn để xây dựng và đề nghị Tổng cục xét duyệt cho áp dụng tạm thời.
Điều 9. – Đơn giá sản phẩm (G) là số tiền lương phải trả cho một đơn vị sản phẩm.
Mức lương dùng làm cơ sở tình đơn giá sản phẩm bao gồm: lương cấp bậc công việc (LCBCV), phụ cấp khu vực (PCKV) và tỷ lệ khuyến khích lương sản phẩm (KKLSP). Các loại phụ cấp khác sẽ tính tra riêng cho công nhân, không được tính vào đơn giá sản phẩm.
Đơn giá sản phẩm đựơc tính theo công thức sau đây:
a) Trường hợp định mức sản phẩm (ĐMSL),
G = | LCBCV + PCKV (nếu có) + KKLSP (nếu có) |
ĐMSP |
Ví dụ: Công việc khái thác nứa được xác định cấp bậc công việc là bậc 3, nơi có 20% phụ cấp khu vực, không có tỷ khuyến khích lương sản phẩm, định mức sản phẩm cho vịêc khai thác nứa đưa ra bãi I là 150 cấy/công; tính đơn giá 1 cây nứa tại bãi I là:
55,20đ + (55,20x 20%) | = 0,017đ/cây |
26 ngày x 150 cây/công |
b) Trường hợp định mức thời gian (ĐMTG), G =[LCBCV + PCKV (nếu có) + KKLSP (nếu có)] x ĐMTG
Ví dụ: Công việc luỗng rừng đựơc xác định cấp bậc công việc là bậc 3 +2, nơi có 20% phụ cấp khu vực, không có tỷ lệ khuyến khích lương sản phẩm, định mức thời gian cho vệc luỗng rừng là 14 công/ha; tính đơn giá luỗng một hécta là:
[48,80 + (48,80 x 20%)] x 14 công/ha | = 31,53đ/ha |
26 ngày |
NGHIỆM THU SẢN PHẨM VÀ NHỮNG ĐIỀU KHOẢN VỀ THANH TOÁN TRẢ LƯƠNG THEO SẢN PHẨM CHO CÔNG NHÂN.
Phiếu nghiệm thu phải cóp chữ ký của công nhân là bên giao, của thủ kho hoặc nhân viên nghiệm thu là bên nhận, của cán bộ kỹ thuật ở đội, phân xưởng xác nhận việc bảo đảm quy cách, chất lượng sản phẩm và các yêu cầu kỹ thuật khác, cuối cùng có chữ ký của đội trưỏng quản đốc phân xưởng xác nhận toàn bộ kết quả nghiệm thu.
Tuy nhiên, khi xảy ra vượt hoặc hụt mức nhiều, các đơn vị phải xem xét lại ngay: nếu thấy định mức vẫn sát đúng nhưng công nhân chưa đạt thì cần phải phân tích rõ và có biện pháp giúp đỡ công nhân phấn đấu đạt các định mức đó, nếu thấy định mức chưa sát đúng thì kịp thời sửa đổi cho thích hợp.
Đối với công nhân được điều đông hẳn sang nghề mới, các đơn vị phải giúp họ nằm được kỹ thuật sản xuất ở công việc mới rồi mới áp dụng chế độ trả lương theo sản phẩm; trong tháng đầu thực hiện lương sản phẩm, nếu bị hụt và mức hụt lương thì được trả chênh lệch cho bằng lương cũ; sau đó phần chênh lệnh giữa lương cơ bản cũ và mới (trường hợp lương cũ cao hơn lương ở công việc mới) sẽ được tính trả riêng cho đến hết thời gian theo chế độ quy định; phần còn lại thì hưởng theo lương sản phẩm như những công nhân khác, dù tiền lương theo sản phẩm có tăng hay giảm thì số tiền chênh lệch đó vẫn giũ nguyên, không thay đổi.
- Nếu còn sử dụng được thi trả lương theo đơn giá thấp hơn, tương đối đúng với quy cách, chất lượng thực tế so với sản phẩm tốt.
- Nếu không còn sử dụng được thì không trả lương và còn xét bắt bồi thường thiệt hại về nguyên vật liệu đã dùng để làm ra những sản phẩm đó.
Việc xử lý trong trường hợp này sẽ áp dụng theo cá quy định vá hướng dẫn trong Thông tư số 97-TTG ngày 29-9-1962 của Thủ tướng Chính phủ về chế độ trả lương khi làm hàng hỏng, hàng xấu hoặcc công trìnmh sai phạm kỹ thuật .
Việc giải quyết trong trường hợp này phải do giám đốc lâm trường, công ty, xí nghiệp quyết định sau khi trao đổi nhất trí với Ban chấp hành công đoàn cung cấp; nếu phải bồi hoàn thì trừ dần vào lương hàng tháng và không quá 30% tiền lương hàng tháng, sau đó nếu người phạm lỗi có sửa chữa tốt thì có thể xét miễn hoặc giảm số tiền còn lại phải bồi hoàn. Trường hợp công nhân do thiếu tinh thần trách nhiệm mà gây hư hỏng, thiêt bị, máy móc, dụng cụ, vật liệu hoặc rơi mất sản phẩm (vận chuyển) gây thiệt hại cho tài sản Nhà nước thì phải bồi thường thiệt hại theo chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên chức đối với tài sản của Nhà nước ban hành kèm theo Nghị định số 49-CP ngày 09-4-1968 của Hội đồng Chính phủ và Thông tư hướng dẫn số 128-TT/LB ngày 24-7-1968 của Liên Bộ Tài chính Lao động – Tổng công đoàn
Trường hợp do đặc điểm sản xuất ở một số công việc dây chuyền sản xuất như: trồng rừng, tu bổ rừng, xây dựng cơ bản, v.v… nếu đến kỳ phát lương chưa có sản phẩm hoàn thành để có thể thanh toán dứt khóat tiền lương trả theo sản phẩm được thì vẫn phải nghiệm thu khối lượng và chất lượng phần công việc đã làm được để tạm ứng trước cho công nhân từ 80% đến 90% số tiền lương theo đơn giá của khối lượng công việc thực tế đã làm trong kỳ,số còn lại sẽ thanh tóan đầy đủ theo đơn giá quy định khi sản phẩm hoặc công việc đã hoàn thành và được nghiệm thu chính thức. Việc tạm ứng trước tiền lương trong trường hợp này cũng phải bảo đảm kịp thời và đúng kỳ hạn trả lương hàng tháng theo quy định như đối với công nhân hưởng theo thời gian.
Việc trả lương trong trường hợp này như sau:
- Chủ yếu là trả lương theo sản phẩm do công việc mới được bố trí. Công nhân phải phấn đâu để bảo đảm đạt mức lương cũ. Trường hợp công nhân đã cố gắng phấn đấu nhưng do lương công việc mới thấp hơn lương cũ thì được trả thấp nhất bằng 85% lương cũ, nếu công việc mới nặng nhọc hơn thì được trả thấp nhất bằng 90% lương cũ.
- Sau khi đã có những biện pháp tích cực mà vẫn không bố trí được việc làm khác cho công nhân, nếu giám đốc lâm trường, công ty, xí nghiệp quyết định cho ngừng việc (hoặc xác nhận trong trường hợp không trực tiếp quyết định) thì số người phải ngừng việc được hưởng 70% lương của số giớ thực tế bị ngừng việc; riêng người đó phạm lỗi mà gây ra ngừng việc và người được phân công việc khác nhưng không chịu làm thì không được trả lương.
Điều 22. – về nguyên tắc thì tiền lương sản phẩm phải trả trực tiếp cho từng công nhân.
Trường hợp định mức và giao việc cho cá nhân thì căn cứ vào phiếu nghiệm thu sản phẩm để tính lương cho từng người
Trường hợp giao việc và trả lương theo sản phẩm cho tập thể thì các đơn vị phải hướng dẫn việc chia lương cho hợp lý và đúng nguyên tắc phân phối theo lao động, bảo đảm trả lương tận tay từng công nhân.
Các đơn vị sẽ tùy theo tình hình thực tế của từng khâu, từng công việc để áp dụng một trong ba phương pháp chia lương sau đây:
- Đối với công việc tuy lao động tập thể nhưng mọi người làm công việc như sau, cùng một cấp bậc công việc thì chủ yếu là căn cứ vào năng suất thực tế của từng người so với định mức được giao để quy ra điểm và chia lương theo điểm
- Đối với công việc nhiều người cùng làm, có nhiều cấp bậc công việc khác nhau cho từng phần việc, thì việc chia lương phải vừa căn cứ và năng suất, vừa căn cứ vào cấp bậc công việc của phần việc đã giao cho mỗi người. Cách tính toán để chia lương cụ thể như sau: chủ yếu là lấy năng suất thực tế của mỗi người so với định mức đã giao cho từng phần vừa được giao (không phải là cấp bậc lương thực tế của công nhân) để có điểm hệ số và chia lương cho từng công nhân theo điểm hệ số đó.
- Đối với công việc có nhiều người cùng làm, có nhiều cấp bậc khác nhau cho từng phần việc, song do đặc điểm của sản xuất dây chuyền hoặc do sự phân công trách nhiệm cho từng người đã rõ, mọi người buộc phải có sự cố gắng đồng đều để bảo đảm phần việc được giao và bảo đảm cho dây chuyền sản xuất được liên tục, thì việc chia lương cho từng người chủ yếu theo hệ số công (theo hệ số cấp bậc công việc của từng phần việc được giao và số ngày và thực tế của từng người)
Các đơn vị có trách nhiệm phổ biến rộng rãi cho công nhân thông suốt nội dung, điều kiện vá cách áp dụng mỗi phương pháp chia lương nói trên; liên hệ với tình hình thực tế để chọn phương pháp chia lương thích hợp cho từng khâu, từng việc, xây dựng tiêu chuẩn cho điểm cụ thể và có thể lập bảng điểm tính sẵn cho từng việc để hằng ngày dựa vào kết quả sản xuất của từng người mà tính toán, cho điểm được hợp lý và nhanh gọn.
Các bộ môn kế hoạch, thống kê, kế toán, kỹ thuật, nghiệm thu sản phẩm v.v… tùy theo chức năng, nhiệm vụ được giao, phải phối hợp với bộ môn lao động tiền lương để làm tốt công tác lương sản phẩm.
Từng đơn vị có những quy định cụ thể để áp dụng chế độ lương sản phẩm được sát hợp với đặc điểm sản xuất từng khâu, từng việc trong đơn vị mình, nhưng không được trái với những quy định trong điều lệ này.
- 1Thông tư liên bộ 128-TT/LB năm 1968 hướng dẫn thi hành chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên chức đối với tài sản của Nhà nước do Bộ Tài chính - Tổng công đòan - Bộ Lao động ban hành
- 2Thông tư 10-LĐ/TT năm 1961 hướng dẫn và giải thích phương hướng và biện pháp đẩy mạnh việc thực hiện chế độ lương theo sản phẩm và các chế độ tiền lương do Bộ Lao động ban hành
- 3Thông tư 04-LĐTL năm 1959 tạm thời ấn định nguyên tắc, nội dung và giải thích hướng dẫn thi hành chế độ lương theo sản phẩm do Bộ Lao Động ban hành.
- 4Nghị định 49-CP năm 1968 về chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân viên chức đối với tài sản của Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 1Thông tư liên bộ 128-TT/LB năm 1968 hướng dẫn thi hành chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân, viên chức đối với tài sản của Nhà nước do Bộ Tài chính - Tổng công đòan - Bộ Lao động ban hành
- 2Thông tư 10-LĐ/TT năm 1961 hướng dẫn và giải thích phương hướng và biện pháp đẩy mạnh việc thực hiện chế độ lương theo sản phẩm và các chế độ tiền lương do Bộ Lao động ban hành
- 3Nghị định 140-CP năm 1961 quy định nhiệm vụ quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Lâm nghiệp do Hội Đồng Chính Phủ ban hành
- 4Thông tư 04-LĐTL năm 1959 tạm thời ấn định nguyên tắc, nội dung và giải thích hướng dẫn thi hành chế độ lương theo sản phẩm do Bộ Lao Động ban hành.
- 5Nghị định 49-CP năm 1968 về chế độ trách nhiệm vật chất của công nhân viên chức đối với tài sản của Nhà nước do Hội đồng Chính phủ ban hành
Quyết định 1057-LN/QĐ năm 1974 ban hành Điều lệ về chế độ tiền lương trả theo sản phẩm trong nông lâm nghiệp do Tổng cục trưởng Tổng cục Lâm nghiệp ban bành
- Số hiệu: 1057-LN/QĐ
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 25/07/1974
- Nơi ban hành: Tổng cục Lâm nghiệp
- Người ký: Phạm Đình Sơn
- Ngày công báo: 31/08/1974
- Số công báo: Số 14
- Ngày hiệu lực: 25/07/1974
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định