Hệ thống pháp luật

QUỐC HỘI
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 14/2002/QH11

Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2002

NGHỊ QUYẾT

VỀ NHIỆM VỤ NĂM 2003

QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Căn cứ vào Điều 84 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Trên cơ sở xem xét Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo của các cơ quan của Quốc hội, các cơ quan hữu quan và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội;

QUYẾT NGHỊ

Quốc hội tán thành đánh giá tình hình thực hiện nhiệm vụ năm 2002, phương hướng nhiệm vụ năm 2003 với các chỉ tiêu, giải pháp được nêu trong báo cáo của Chính phủ và báo cáo của các cơ quan hữu quan; đồng thời nhấn mạnh một số vấn đề sau đây:

I- ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH NĂM 2002

Năm 2002, mặc dù có nhiều khó khăn, thách thức lớn, cả ở trong nước và ngoài nước, nhưng nền kinh tế nước ta vẫn tăng trưởng ở mức cao và đạt được kết quả khá toàn diện. Hầu hết các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra. Các nguồn lực được chú trọng phát huy. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch tích cực. Thu ngân sách nhà nước vượt dự toán. Công tác xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm đạt kết quả đáng khích lệ. Phong trào toàn dân chăm lo giáo dục được đẩy mạnh. Đời sống của nhân dân đã được cải thiện đáng kể. Chính trị-xã hội ổn định. Quốc phòng, an ninh được bảo đảm. Vị thế nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Đạt được những kết quả trên là do sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, sự điều hành năng động, có hiệu quả của Chính phủ, của các địa phương và các ngành, các cấp.

Tuy vậy, kinh tế-xã hội năm 2002 vẫn còn nhiều yếu kém. Một số chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư toàn xã hội, nhất là vốn đầu tư của Nhà nước chưa cao. Lĩnh vực xã hội vẫn tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Tai nạn giao thông xảy ra ngày càng nghiêm trọng. Một số nội dung về đổi mới trong lĩnh vực giáo dục đạt kết quả thấp. Cải cách hành chính triển khai chậm, hiệu quả còn hạn chế. Trật tự trị an có lúc, có nơi diễn biến phức tạp. Đời sống của nhân dân ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng thường bị thiên tai còn nhiều khó khăn.

II- MỤC TIÊU VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA NĂM 2003

1- Mục tiêu tổng quát:

Bảo đảm duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao và bền vững. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm có thị trường, có sức cạnh tranh cao. Huy động tối đa các nguồn lực, nhất là nguồn nội lực để phát triển kinh tế-xã hội. Chủ động thực hiện các cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đẩy mạnh xuất khẩu đi đôi với khai thác tốt thị trường trong nước. Tiếp tục thực hiện xoá đói, giảm nghèo. Giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội bức xúc, đặc biệt là tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông. Đẩy lùi tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí. Bảo đảm vững chắc an ninh, quốc phòng trong mọi tình huống. Mở rộng quan hệ đối ngoại.

2- Các chỉ tiêu chủ yếu:

- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng từ 7% đến 7,5%;

- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5%;

- Giá trị sản xuất công nghiệp tăng từ 14 % đến 14,5%;

- Giá trị các ngành dịch vụ tăng từ 7% đến 7,2%;

- Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 7,5% đến 8%;

- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội chiếm 35% GDP

- Chỉ số giá tiêu dùng tăng không quá 5%;

- Tạo việc làm mới cho 1,5 triệu người;

- Đào tạo nghề cho trên 1 triệu người;

- Giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 12,5%;

- Giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn 28%;

- Giảm tỷ lệ sinh 0,04%.

III- CÁC NHIỆM VỤ VÀ GIẢI PHÁP CHÍNH

1- Rà soát, bổ sung, điều chỉnh kịp thời quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội. Nâng cao chất lượng quy hoạch, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế, tăng chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Gắn quy hoạch phát triển ngành, vùng lãnh thổ với thị trường, bảo đảm khai thác tiềm năng, thế mạnh của từng vùng và có sự thống nhất từ trung ương đến địa phương.

Hoàn chỉnh quy hoạch sử dụng đất đai và mặt nước theo hướng bảo đảm an toàn lương thực quốc gia trên cơ sở áp dụng giống mới, thâm canh, tăng năng suất và sản lượng. Tăng thêm diện tích trồng cây công nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển chăn nuôi, tạo ra nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ. Tiếp tục chấn chỉnh và đổi mới hoạt động tín dụng - ngân hàng, đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho nông dân trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển giao công nghệ, phát triển và tạo vùng nguyên liệu ổn định, lâu dài cho công nghiệp chế biến. Chỉ đạo, kiểm tra để chính sách hỗ trợ tín dụng trực tiếp đến với nông dân. Nâng cao hiệu quả công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.

Tiếp tục hoàn chỉnh quy hoạch phát triển ngành và sản phẩm công nghiệp trọng yếu để tạo điều kiện thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu công nghiệp; coi trọng nâng cao chất lượng đi đôi với giảm giá thành sản phẩm. Đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm là nguyên liệu, vật liệu, cơ khí, các mặt hàng có thị trường tiêu thụ và có khả năng cạnh tranh.

Đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu các ngành dịch vụ theo hướng khuyến khích đầu tư phát triển các ngành có khả năng thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước.

2- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh. Tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Sơ kết thí điểm để rút kinh nghiệm và có phương án thích hợp nhân rộng việc thực hiện chuyển đổi một số Tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ-công ty con.

Chính phủ khẩn trương ban hành Nghị định về việc giao đất không thu tiền và đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hợp tác xã nông nghiệp. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển theo Luật doanh nghiệp. Thực hiện tốt cơ chế hậu kiểm. Kiên quyết xử lý những hoạt động kinh doanh trái pháp luật.

3- Huy động tối đa các nguồn lực và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn, đặc biệt là nguồn vốn nhà nước cho đầu tư phát triển. Tập trung vốn cho những công trình quan trọng có tác động chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là các công trình đã được Quốc hội quyết định. Đầu tư phát triển mạnh hơn dịch vụ du lịch, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông, dịch vụ kỹ thuật...để tạo được sự phát triển nhanh, có hiệu quả của nền kinh tế.

Quốc hội giao Chính phủ chịu trách nhiệm tiếp tục chỉ đạo tổ chức, triển khai xây dựng cụm khí-điện-đạm Cà Mau.

Đổi mới công tác quản lý đầu tư và xây dựng, bảo đảm đầu tư tập trung, khắc phục tình trạng dàn trải, chú trọng tính hiệu quả và chất lượng công trình. Thực hiện phân cấp quản lý đầu tư trên cơ sở gắn trách nhiệm với quyền hạn, nghĩa vụ với quyền lợi. Tăng cường kiểm tra, giám sát, kiên quyết chống lãng phí, thất thoát, tiêu cực trong đầu tư, xây dựng, đấu thầu và giải phóng mặt bằng, kịp thời xử lý nghiêm minh những vi phạm pháp luật.

4- Thực hiện có hiệu quả các cam kết và lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Kịp thời ban hành, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách tạo động lực thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Có giải pháp mạnh, đồng bộ và kiên quyết để kiểm soát chặt chẽ việc nhập khẩu và cơ cấu hàng nhập khẩu, giảm nhập siêu, nhất là các mặt hàng trong nước đã sản xuất được. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại, tiếp tay, bao che cho buôn lậu và các vi phạm pháp luật về việc hoàn thuế giá trị gia tăng.

Phát triển mạnh thị trường trong nước. Xây dựng các trung tâm thương mại với quy mô thích hợp ở thành phố; hình thành các cơ sở thương nghiệp tập trung vừa và nhỏ ở vùng ven đô, vùng nông thôn đồng bằng, miền núi, ven biển và hải đảo. Tiếp tục thực hiện các giải pháp kích cầu đầu tư và tiêu dùng, mở rộng các hình thức kinh doanh như đại lý, uỷ thác, mua hàng trả chậm, trả góp...Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp và nông dân tiếp cận trực tiếp với thị trường. Đầu tư phát triển hệ thống kho tàng, bến bãi, chợ bán buôn nông sản để tiêu thụ nông sản hàng hoá.

5- Khuyến khích và tạo điều kiện để mọi tổ chức, cá nhân, hộ gia đình tự tạo việc làm và tạo việc làm cho người khác; thành lập các trung tâm thông tin về việc làm đi đôi với kiểm tra, giám sát chặt chẽ, khắc phục tình trạng lộn xộn trong lĩnh vực dịch vụ việc làm. Mở rộng các hình thức đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn, bộ đội xuất ngũ, đẩy mạnh xuất khẩu lao động. Hoàn thiện chính sách đưa lực lượng sinh viên mới tốt nghiệp về làm việc ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Thực hiện tốt việc giải quyết lao động dôi dư trong quá trình cổ phần hoá, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước.

Chính phủ sớm trình Quốc hội đề án cải cách chính sách tiền lương. Điều chỉnh mức lương tối thiểu vào đầu năm 2003. Giải quyết tốt hơn nữa chính sách ưu đãi người có công với cách mạng, thanh niên xung phong trong thời kỳ kháng chiến, người bị nhiễm chất độc da cam.

Thực hiện tốt chương trình xoá đói, giảm nghèo, chống tái nghèo, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn.

Tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế-xã hội ở các vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Nâng cao hiệu quả việc thực hiện chương trình 135 đã được lồng ghép với các chương trình, dự án có liên quan. Có biện pháp hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm và trợ giá, trợ cước cho đồng bào miền núi.

Tăng dần mức đầu tư cho công tác y tế, hình thành một số trung tâm y tế chuyên sâu ở các khu vực. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và có các biện pháp bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm; phòng ngừa dịch bệnh, phòng chống HIV/ AIDS; tập trung chỉ đạo thanh toán một số bệnh dịch nguy hiểm. Tiếp tục thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia về y tế. Tăng cường hoạt động chăm sóc sức khoẻ và sức khoẻ sinh sản, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, các xã nghèo, các đối tượng là bà mẹ và trẻ em. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực y tế. Nâng cao hiệu quả của bảo hiểm y tế, bảo đảm để người nghèo có thẻ bảo hiểm y tế hoặc được khám, chữa bệnh miễn phí.

Phát huy sự đóng góp trí tuệ của cán bộ nghỉ hưu. Thực hiện tốt chính sách chăm sóc đối với người cao tuổi.

Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các biện pháp phòng, chống các tệ nạn ma tuý, mại dâm...

6- Tạo bước chuyển biến về chất lượng giáo dục và đào tạo. Cải tiến công tác tuyển sinh vào các bậc học và cấp học. Điều chỉnh quy mô và cơ cấu đào tạo, khắc phục dần sự bất hợp lý về cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Khắc phục những sai sót trong sách giáo khoa lớp 1, lớp 6 và chuẩn bị tốt sách giáo khoa lớp 2, lớp 7, việc chuẩn bị phải bảo đảm yêu cầu để triển khai vào năm học 2003-2004. Bảo đảm đủ thiết bị, đồ dùng dạy học phục vụ đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Chú trọng xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục. Tập trung phát triển hệ thống trung học chuyên nghiệp, dạy nghề và có cơ chế, chính sách mở rộng quy mô đào tạo công nhân kỹ thuật, bồi dưỡng công nhân lành nghề, công nhân bậc cao. Tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục kết hợp với các nguồn đầu tư của Nhà nước trong việc thực hiện chương trình kiên cố hoá trường học theo yêu cầu chuẩn hoá, quan tâm hơn đến các vùng đặc biệt khó khăn, vùng thường xảy ra thiên tai.

Nâng cao chất lượng trường phổ thông dân tộc nội trú. Tổ chức dạy nghề cho học sinh tốt nghiệp trường dân tộc nội trú để đi vào lao động xã hội.

7- Thực hiện tốt chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá. Tăng cường đầu tư cho các hoạt động sáng tạo văn hoá-nghệ thuật. Tổ chức, sắp xếp lại và nâng cao hiệu quả quản lý các cơ sở dịch vụ văn hoá. Đẩy mạnh cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá, nhất là ở cơ sở. Tiếp tục thực hiện chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình; tăng nhanh tỷ lệ phủ sóng ở vùng sâu, vùng xa, ưu tiên cho Tây Nguyên, vùng núi phía Bắc.

Triển khai rộng khắp các hoạt động thể dục, thể thao quần chúng, nâng cao sức khoẻ cộng đồng. Chuẩn bị tốt các điều kiện để tổ chức thành công SEA Games 22.

8- Tập trung đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ; đổi mới thiết bị, công nghệ để tạo ra sản phẩm có sức cạnh tranh cao, nhất là giống cây trồng, vật nuôi và công nghệ chế biến hiện đại.

Tiếp tục đổi mới cơ chế tổ chức và hoạt động khoa học, công nghệ theo hướng gắn kết chặt chẽ giữa nghiên cứu, đào tạo với sản xuất, kinh doanh. Giám sát chặt chẽ tình hình thực hiện các công trình quan trọng quốc gia.

Tăng cường đầu tư cho lĩnh vực bảo vệ môi trường và kiện toàn hệ thống quản lý môi trường. Đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền bảo vệ môi trường đi đôi với xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về môi trường để góp phần bảo đảm đất nước phát triển bền vững.

9- Nắm chắc tình hình, chủ động phát hiện và xử lý kịp thời những diễn biến có thể gây mất ổn định chính trị, xã hội, nhất là ở các địa bàn trọng điểm. Tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Củng cố tổ chức, nâng cao chất lượng, khả năng hoàn thành nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân. Kết hợp phát triển kinh tế với củng cố quốc phòng, an ninh; ưu tiên và đẩy nhanh tiến độ xây dựng các khu kinh tế- quốc phòng đã được phê duyệt. Tăng cường công tác quản lý nhà nước về biên giới, biển, đảo.

Chính phủ sớm triển khai cuộc vận động "Toàn dân tham gia giữ gìn trật tự an toàn giao thông"- lấy năm 2003 là năm thiết lập trật tự an toàn giao thông trên phạm vi cả nước, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động ở tất cả các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở và toàn xã hội. Tập trung khắc phục những mặt yếu kém, đồng thời có những giải pháp đồng bộ vừa mang tính cấp bách vừa đáp ứng yêu cầu cơ bản, lâu dài, phù hợp với tình hình thực tiễn để ngăn chặn và đẩy lùi tai nạn giao thông, chống ùn tắc giao thông đường bộ ở các tuyến giao thông chính, các đô thị lớn, nhất là thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Chủ động phòng chống thiên tai, hoả hoạn.

10- Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ và cùng có lợi. Không ngừng nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực; tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài. Chú trọng công tác dự báo chiến lược, chủ động và kịp thời đề ra chính sách thích hợp trước những diễn biến của tình hình mới.

11- Tiếp tục thực hiện một số nhiệm vụ trọng tâm về công tác tư pháp. Củng cố tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của các cơ quan tư pháp phù hợp với chức năng, nhiệm vụ mới được điều chỉnh theo quy định của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước. Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử án hình sự, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Kiên quyết xử lý nghiêm minh các hành vi tham nhũng. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, hành chính. Củng cố và tăng cường công tác thi hành án, có biện pháp khắc phục tình trạng để tồn đọng nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành.

Tăng cường công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của các cơ quan tư pháp, đồng thời đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm sát, giám sát nhằm khắc phục kịp thời những tồn tại, khuyết điểm, đề cao trách nhiệm của cán bộ, công chức các cơ quan tư pháp trước nhân dân.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, kiên quyết xoá bỏ những thủ tục phiền hà; phân công, phân cấp rành mạch, rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa các ngành ở trung ương, giữa trung ương với địa phương theo hướng phân cấp mạnh cho địa phương và quy định rõ trách nhiệm cá nhân. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính, sắp xếp tổ chức, tinh giản biên chế hành chính, sự nghiệp.

12- Đẩy mạnh công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Tập trung giải quyết có hiệu quả các vụ khiếu nại, tố cáo tồn đọng, phức tạp và đông người, các vụ khiếu nại gay gắt, kéo dài. Tăng cường kỷ luật, kỷ cương, kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhất là việc lợi dụng khiếu nại, tố cáo để gây rối. Thường xuyên giám sát, kiểm tra, đôn đốc các cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Xử lý nghiêm những người thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Thực hiện tốt qui chế dân chủ và công tác hoà giải ở cơ sở. Coi trọng công tác dân vận trong giải quyết khiếu nại, tố cáo.

IV- TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ và các giải pháp chính của năm 2003, Chính phủ, các ngành, các cấp cần tăng cường chỉ đạo điều hành và cải tiến phương pháp tổ chức thực hiện.

Khi tình hình thế giới có những diễn biến phức tạp, tác động đến nước ta, Chính phủ kịp thời báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội để có thể điều chỉnh một số chỉ tiêu trên cơ sở bảo đảm các mục tiêu cơ bản về phát triển kinh tế-xã hội; giữ vững ổn định chính trị trong mọi tình huống; đồng thời báo cáo Quốc hội tại kỳ họp gần nhất.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội giám sát chặt chẽ việc thực hiện Nghị quyết này.

Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận động viên mọi tầng lớp nhân dân thực hiện tốt Nghị quyết của Quốc hội.

Quốc hội kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài nêu cao tinh thần thi đua yêu nước, đoàn kết, động viên mọi nguồn lực, vượt qua khó khăn, thử thách, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2003.

Nghị quyết này được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ hai thông qua ngày 16 tháng 12 năm 2002.

Nguyễn Văn An

(Đã ký)

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Nghị quyết số 14/2002/QH11 về nhiệm vụ năm 2003 do Quốc hội ban hành

  • Số hiệu: 14/2002/QH11
  • Loại văn bản: Nghị quyết
  • Ngày ban hành: 16/12/2002
  • Nơi ban hành: Quốc hội
  • Người ký: Nguyễn Văn An
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 16/12/2002
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản