- 1Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007
- 2Nghị định 64/2008/NĐ-CP về việc vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo
- 3Luật bảo hiểm y tế 2008
- 4Quyết định 75/2009/QĐ-TTg quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5Quyết định 73/2011/QĐ-TTg Quy định chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Quyết định 122/QĐ-TTg năm 2013 phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 7Quyết định 125/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt Đề án Đầu tư xây dựng mới 05 bệnh viện, viện tuyến trung ương và tuyến cuối đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 8Nghị định 117/2014/NĐ-CP về Y tế xã, phường, thị trấn
- 9Nghị quyết 93/NQ-CP năm 2014 về một số cơ chế, chính sách phát triển y tế do Chính phủ ban hành
- 10Quyết định 59/2015/QĐ-TTg về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 11Thông tư 37/2016/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 12Nghị định 146/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật bảo hiểm y tế
- 13Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 14Nghị quyết 20/NQ-TW năm 2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 15Nghị định 34/2019/NĐ-CP sửa đổi quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố
- 16Quyết định 219/QĐ-BYT năm 2020 bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (nCov) gây ra vào danh mục bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 do Bộ Y tế ban hành
- 17Quyết định 879/QĐ-BYT năm 2020 về "Hướng dẫn cách ly y tế tại nhà, nơi lưu trú phòng chống dịch COVID-19" do Bộ Y tế ban hành
- 18Quyết định 878/QĐ-BYT năm 2020 về "Hướng dẫn cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung phòng chống dịch COVID-19" do Bộ Y tế ban hành
- 19Quyết định 904/QĐ-BYT năm 2020 về "Sổ tay Hướng dẫn tổ chức thực hiện cách ly y tế vùng có dịch COVID-19" do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 20Quyết định 1246/QĐ-BYT năm 2020 về "Hướng dẫn tạm thời cách ly y tế tập trung tại khách sạn trong phòng, chống dịch COVID-19 do người được cách ly tự nguyện chi trả" do Bộ Y tế ban hành
- 21Chỉ thị 14/CT-TTg năm 2020 về chính sách hỗ trợ xã An toàn khu, vùng An toàn khu cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 22Nghị quyết 37/NQ-CP năm 2020 về chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 23Quyết định 3088/QĐ-BYT năm 2020 về Bộ Tiêu chí Bệnh viện an toàn phòng chống dịch COVID-19 và các dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 24Quyết định 4999/QĐ-BYT năm 2020 về Bộ Tiêu chí Phòng khám an toàn phòng chống dịch COVID-19 và dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 25Nghị quyết 16/NQ-CP năm 2021 về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 26Nghị quyết 21/NQ-CP năm 2021 về mua và sử dụng vắc xin phòng COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 27Công văn 3775/BYT-KCB năm 2021 về tăng cường phòng, chống dịch COVID-19 trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do Bộ Y tế ban hành
- 28Thông tư 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Y tế ban hành
- 29Thông báo 137/TB-VPCP năm 2021 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp trực tuyến toàn quốc về công tác phòng, chống dịch Covid-19 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 30Quyết định 861/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 31Quyết định 3355/QĐ-BYT năm 2021 về Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 năm 2021-2022 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 32Công văn 604/TTrB-P1 năm 2021 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong phòng chống dịch COVID-19 do Thanh tra Bộ Y tế ban hành
- 33Công văn 5741/BYT-KCB năm 2021 củng cố hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh để bảo đảm công tác cấp cứu, điều trị người bệnh COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
- 34Nghị quyết 30/2021/QH15 về kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV
- 35Nghị quyết 86/NQ-CP năm 2021 về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết 30/2021/QH15 do Chính phủ ban hành
- 36Thông tư 11/2021/TT-BYT hướng dẫn đăng ký lưu hành vắc xin phòng Covid-19 trong trường hợp cấp bách do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 37Công văn 746/TTrB-P1 năm 2021 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong phòng chống dịch và tiêm vắc xin phòng Covid-19 do Thanh tra Bộ Y tế ban hành
- 38Quyết định 4111/QĐ-BYT năm 2021 về tài liệu Hướng dẫn thiết lập cơ sở thu dung, điều trị COVID-19 theo mô hình tháp 3 tầng do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 39Nghị quyết 01/2021/UBTVQH15 quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
- 40Công văn 7952/BYT-TTrB năm 2021 về tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về phòng, chống dịch COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
- 41Công văn 8151/BYT-TTrB năm 2021 về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
- 42Nghị quyết 128/NQ-CP năm 2021 quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19" do Chính phủ ban hành
- 43Quyết định 4800/QĐ-BYT năm 2021 hướng dẫn tạm thời về chuyên môn y tế thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP quy định tạm thời Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
BỘ Y TẾ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 9157/BYT-VPB1 | Hà Nội, ngày 27 tháng 10 năm 2021 |
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội TP Hải Phòng
Bộ Y tế nhận được công văn số 227/BDN ngày 30 tháng 8 năm 2021 của Ban Dân nguyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc chuyển kiến nghị của cử tri gửi tới Quốc hội sau kỳ họp thứ 1, Quốc hội Khóa XV, trong đó có kiến nghị của cử tri địa phương tỉnh/thành phố.
Bộ Y tế xin gửi kèm theo các nội dung trả lời đối với các kiến nghị của cử tri địa phương về những vấn đề thuộc thẩm quyền giải quyết của Bộ Y tế. Kính đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội xem xét và trả lời, thông tin tới cử tri.
Xin trân trọng cảm ơn./.
| BỘ TRƯỞNG |
TRẢ LỜI KIẾN NGHỊ CỦA CỬ TRI SAU KỲ HỌP THỨ 1, QUỐC HỘI KHÓA XV THUỘC LĨNH VỰC BỘ Y TẾ
(Kèm theo công văn số 9157/BYT-VPB1 ngày 21/10/2021)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Bộ Y tế đã xác định được tầm quan trọng của vắc xin phòng COVID-19 ngay từ khi dịch COVID-19 xuất hiện tại Vũ Hán, Trung Quốc. Do các điều kiện mua bán vắc xin mà các nhà sản xuất vắc xin đưa ra có nhiều vướng mắc so với pháp luật Việt Nam, Chính phủ đã chủ động báo cáo Bộ Chính trị đã có ý kiến chỉ đạo, tháo gỡ những vướng mắc về mặt pháp lý để thúc đẩy việc đàm phán, mua bán vắc xin với các nhà sản xuất trong trường hợp cấp bách.
Ngày 26/02/2021, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 21/NQ-CP về mua và sử dụng vắc xin phòng COVID-19, trong đó “Giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với các Bộ, cơ quan, địa phương có liên quan thực hiện việc mua, nhập khẩu, tiếp nhận viện trợ, tài trợ, quản lý và sử dụng vắc xin phòng COVID-19 trong năm 2021 cho người từ 18 tuổi trở lên” với số lượng khoảng 150 triệu liều. Bộ Y tế đã chủ động tiếp cận các nguồn vắc xin trên Thế giới, tổ chức hàng trăm cuộc họp để kêu gọi tài trợ, vận động và tổ chức mua vắc xin. Quá trình mua vắc xin được thực hiện công khai, minh bạch; có sự tham gia của các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Công an, Ngoại giao, Công Thương.
Việc cung ứng vắc xin còn chậm do các nguyên nhân khách quan và chủ quan: i) do tình trạng khan hiếm vắc xin trên toàn cầu; ii) tiến độ giao vắc xin phụ thuộc hoàn toàn vào nhà sản xuất, cung ứng; iii) vắc xin trong Chương trình COVAX được ưu tiên cung ứng cho các nước có tình hình dịch bệnh nghiêm trọng (trong khi Việt Nam được đánh giá là chống dịch tốt thời gian đầu); iv) điều kiện mua vắc xin rất khắt khe, chưa có trong tiền lệ và còn một số vướng mắc trong pháp luật Việt Nam.
Tính đến ngày 22/10/2021, Bộ Y tế cấp phép sử dụng cho 8 loại vắc-xin phòng COVID-19, gồm: AstraZeneca, Sputnik V, Vero Cell, Pfizer, Moderna, Janssen, Hayat-Vax và Abdala. Ngoài ra còn có 03 vắc xin đã nộp hồ sơ và đang trong quá trình xem xét, phê duyệt, bao gồm: Covaxin (Ấn độ), sputnik Light (Liên Bang Nga) và EpiVac Corona (Liên Bang Nga). Các loại vắc xin phòng COVID-19 Việt Nam đang nhập khẩu, nhận tài trợ đều đã được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cấp chứng nhận hoặc hoặc cơ quan quản lý dược của các nước trong danh sách SRA (Cơ quan quản lý dược chặt chẽ) phê duyệt sử dụng.
Tính đến ngày 05/11/2021, tổng số vắc xin đã có hợp đồng mua, cam kết viện trợ và tài trợ là 198,8 triệu liều, đã tiếp nhận 124,7 triệu liều vắc xin và phân bổ vắc xin theo địa bàn trọng điển là những nơi đang có dịch bùng phát mạnh, nguy cơ bùng phát cao, nhiều khu công nghiệp, giao thông huyết mạch…; thực hiện ưu tiên tiêm cho các đối tượng người già, người có nguy cơ cao, mở rộng chỉ định tiêm cho một số đối tượng như phụ nữ mang thai trên 13 tuần, trẻ em, mở rộng mạng lưới tiêm chủng bao gồm cố định và lưu động. Hiện đã phân bổ hơn 110 triệu liều vắc xin cho các đơn vị, địa phương để tiêm chủng cho toàn bộ người dân từ 18 tuổi trở lên và một số trẻ em từ 12 đến 17 tuổi1.
(3) Đẩy mạnh chuyển giao công nghệ nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước, về nghiên cứu, sản xuất vắc xin, hiện nay có 02 vắc xin đang nghiên cứu để sản xuất trong nước (Nanocovax, Covivax) và phối hợp chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin từ các nước như Anh, Nhật, Đức, Tây Ban Nha, Nga, Cu Ba.... Các vắc xin sản xuất trong nước (bao gồm cả vắc xin gia công, chuyển giao công nghệ) chưa có đủ dữ liệu lâm sàng và chưa đánh giá hiệu quả bảo vệ của vắc xin theo quy định. Riêng vắc xin Nanocovax, Bộ Y tế đã triển khai tham vấn các tổ chức trong và ngoài nước, xây dựng hướng dẫn đánh giá kết quả giữa kỳ giai đoạn 3 về tính an toàn và hiệu quả của vắc xin phòng COVID-19 sản xuất trong nước, làm việc với Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học quốc gia và Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc để có căn cứ xem xét và cấp phép lưu hành. Tập đoàn VinGroup đã đàm phán với Nhà sản xuất Hoa Kỳ về điều kiện chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin COVID-19 từ tinh chất mRNA. Công ty TNHH MTV vắc xin và Sinh phẩm số 1 (VABIOTECH) đã ký thỏa thuận với Quỹ đầu tư trực tiếp của Liên bang Nga về việc đóng ống vắc xin Sputnik-V.
(4) Thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp với Bộ Ngoại giao bám sát, đôn đốc các nhà sản xuất, cung ứng, nhất là đối với các hợp đồng đã được ký kết để đẩy nhanh tiến độ bàn giao vắc xin về Việt Nam nhanh nhất, sớm nhất; hỗ trợ tích cực công tác nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước để sớm chủ động nguồn vắc xin; thông qua đó tăng lượng vắc xin sẵn có, tạo điều kiện cho mọi người dân được tiêm chủng đầy đủ kiểm soát tốt dịch bệnh. Tiếp tục trao đổi, đàm phán để tiếp cận các nguồn vắc xin COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về đề nghị khôi phục chức danh Y tá thôn để chăm sóc sức khỏe cho người dân
Ngày 11/5/2009, Bộ Y tế đã tham mưu trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 75/2009/QĐ-TTg quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn bản; theo đó tại khoản 1 Điều 1 quy định “Mỗi thôn, bản được bố trí từ 01 đến 02 nhân viên y tế, căn cứ vào quy mô dân số và địa bàn hoạt động”, Điều 2 quy định “Trong thời gian công tác, nhân viên y tế thôn, bản được hưởng phụ cấp hàng tháng; mức phụ cấp bằng 0,5 và 0,3 so với mức lương tối thiểu chung’’. Đây là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng làm cơ sở cho các địa phương triển khai thực hiện có hiệu quả Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày 10/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn đến năm 2030, trong đó có quy định “Chỉ tiêu cụ thể về tỷ lệ thôn bản có nhân viên y tế hoạt động: Đạt 90% vào năm 2015 và trên 90% vào năm 2020”
Tuy nhiên, ngày 24/4/2019, Chính phủ ban hành Nghị định số 34/2019/NĐ-CP quy định “Người hoạt động không chuyên trách ở thôn, tổ dân phố có không quá 03 người, được hưởng phụ cấp hàng tháng từ ngân sách nhà nước và chỉ áp dụng đối với 03 chức danh gồm Bí thư Chi bộ, Trưởng thôn hoặc Tổ trưởng tổ dân phố, Trưởng Ban công tác mặt trận; người tham gia công việc ở thôn, tổ dân phố ngoài 03 chức danh nêu trên không hưởng phụ cấp hàng tháng mà được hưởng bồi dưỡng khi trực tiếp tham gia vào công việc của thôn, tổ dân phố từ đoàn phí, hội phí khoán cho các đoàn thể và từ các nguồn quỹ khác (nếu có)”; dẫn đến việc triển khai thực hiện có khác nhau ở mỗi địa phương trên phạm vi toàn quốc.
Hiện tại, Bộ Y tế đang trình Chính phủ dự thảo Nghị quyết về giải pháp thực hiện chính sách đối với đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản; bao gồm 02 nội dung chính: (1) Duy trì, ổn định đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản đã được đào tạo để hoạt động phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế ở địa phương; (2) Thực hiện chính sách bồi dưỡng hằng tháng đối với đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, cô đỡ thôn bản; mức bồi dưỡng hàng tháng do địa phương quyết định từ nguồn ngân sách nhà nước (trung ương và địa phương) và các nguồn kinh phí hợp pháp khác làm cơ sở pháp lý giúp các địa phương thống nhất triển khai thực hiện nhằm duy trì, ổn định đội ngũ nhân viên y tế thôn bản, phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tế của địa phương.
2. Về tăng kinh phí chi thường xuyên cho hoạt động của trạm Y tế xã, vì hiện nay mức kinh phí chi cho y tế là 1.500.000 đồng là quá thấp
(1) Ngày 01/9/2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 01/2021/UBTVQH15 quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022, trong đó giao các Bộ, cơ quan, địa phương theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được giao, triển khai thực hiện Nghị quyết theo quy định; giao Bộ Tài chính khẩn trương hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành định mức phân bổ chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 trình Thủ tướng Chính phủ quyết định; quy định Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ khả năng ngân sách địa phương, quyết định phân bổ cho y tế dự phòng đạt tối thiểu 30% ngân sách y tế, ưu tiên cho y tế cơ sở, bệnh viện ở vùng khó khăn, biên giới, hải đảo, các lĩnh vực phong, lao, tâm thần và các lĩnh vực khác theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/217 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới.
(2) Bộ Y tế đã có Công văn số 4607/BYT-KHTC ngày 08/6/2021, Công văn số 8160/BYT-KHTC ngày 29/9/2021 gửi Bộ Tài chính đề nghị báo cáo Thủ tướng Chính phủ quy định trong Quyết định của Thủ tướng Chính phủ ban hành định mức phân bổ chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 nội dung các địa phương dành 40% ngân sách y tế cho y tế cơ sở để phân bổ cho Trạm y tế xã để triển khai các hoạt động, bao gồm cả công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình. Số kinh phí này được phân bổ cho các Trạm Y tế theo định mức phân bổ do địa phương quyết định. Bộ Y tế đề nghị cử tri có ý kiến với Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh trong quá trình phân bổ ngân sách chi sự nghiệp y tế.
Và Câu 5: Đề nghị sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện chế độ chính sách về Bảo hiểm y tế cho nhân dân xã vùng An toàn khu (ATK) theo Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 24/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ xã ATK, vùng ATK cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ; và đối với người nghèo, người dân tộc thiểu số tại các xã vùng I và các xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới theo Quyết định 861/QĐ-TTg ngày 04/6/2021 của Thủ tướng Chính phủ, vì thực tế hiện nay các xã thuộc vùng I và xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới vẫn còn rất nhiều cá nhân và hộ gia đình có điều kiện kinh tế rất khó khăn (Hòa Bình).
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Ngày 24/3/2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 14/CT- TTg về chính sách hỗ trợ xã an toàn khu, vùng an toàn khu cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, trong đó giao Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành có liên quan nghiên cứu sửa đổi bổ sung Nghị định số 146/2018/NĐ-CP ngày 17/10/2018 trong đó có chính sách hỗ trợ thẻ bảo hiểm y tế cho nhân dân các xã an toàn khu cách mạng. Theo quy định tại khoản 9 Điều 3 Nghị định số 146/2018/NĐ-CP các đối tượng chính sách, trong đó có những người sinh sống trong vùng ATK đã được hưởng chính sách bảo hiểm y tế, gồm:
“Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo và một số đối tượng khác, cụ thể:
a) Người thuộc hộ gia đình nghèo theo tiêu chí về thu nhập, người thuộc hộ nghèo đa chiều có thiếu hụt về bảo hiểm y tế quy định tại Quyết định số 59/2015/QĐ-TTg ngày 19 tháng 11 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020 và các quyết định khác của cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế chuẩn nghèo áp dụng cho từng giai đoạn;
b) Người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
c) Người đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;
d) Người đang sinh sống tại xã đảo, huyện đảo theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ;”
Tuy nhiên, ngày 04/6/2021, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 861/QĐ-TTg trong đó tại Điều 3, các xã khu vực III, khu vực II nếu được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới sẽ được xác định là xã khu vực I và thôi hưởng các chính sách áp dụng đối với xã khu vực III, khu vực II kể từ ngày Quyết định của cấp có thẩm quyền công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới có hiệu lực. Như vậy, đối với người sinh sống trong các xã an toàn khu cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ không thuộc đối tượng được Ngân sách nhà nước đóng bảo hiểm y tế (trừ những đối tượng đã tham gia bảo hiểm y tế theo quy định của pháp luật).
(2) Để có cơ sở thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với người sinh sống trong các xã an toàn khu cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Bộ Y tế đã có văn bản số 5934/BYT-BH ngày 24/7/2021 gửi Bảo hiểm xã hội Việt Nam thống nhất nội dung đề nghị mua thẻ bảo hiểm y tế cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó để tháo gỡ khó khăn đối với những đối tượng người sinh sống trong khu vực an toàn khu không được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo Quyết định số 861/QĐ-TTg. Ngày 26/7/2021, Bộ Y tế đã có văn bản số 5976/BYT-BH gửi Văn phòng Chính phủ để báo cáo, thống nhất với đề nghị của Bảo hiểm xã hội Việt Nam về đề nghị mua thẻ cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó để tháo gỡ khó khăn đối với những đối tượng người sinh sống trong khu vực an toàn khu không được hưởng chế độ bảo hiểm y tế theo Quyết định số 161/QĐ-TTg. Trên cơ sở đó, ngày 27/7/2021, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có văn bản số 2236/BHXH-TST báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Như vậy, việc triển khai thực hiện chính sách bảo hiểm y tế đối với người dân tộc thiểu số sinh sống ở miền núi, trong đó có các xã an toàn khu cách mạng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ đã được Bộ Y tế phối hợp với các Bộ, ngành đề xuất, báo cáo Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Hiện đang chờ ý kiến kết luận, chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Ngày 08/12/2014, Bộ Y tế đã tham mưu, trình Chính phủ ban hành Nghị định số 117/2014/NĐ-CP quy định về y tế xã, phường, thị trấn; tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 117 quy định “ Tổ chức y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh ” để bảo đảm tính thống nhất, tính khả thi trong việc thực hiện chương trình cải cách hành chính của Chính phủ. Vì Trạm y tế không phải là đơn vị sự nghiệp hoàn chỉnh (chỉ bố trí các chức danh chuyên môn) nên phải thuộc đơn vị sự nghiệp hoàn chỉnh là Trung tâm Y tế huyện để bảo đảm trong công tác quản lý chung; nếu quy định trạm y tế là đơn vị sự nghiệp hoàn chỉnh sẽ tăng tổ chức, tăng số lượng người làm việc ở bộ phận hành chính
Ngày 25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XII ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập đã nêu “Thực hiện thống nhất mô hình mỗi cấp huyện chỉ có một Trung tâm Y tế đa chức năng, bao gồm y tế dự phòng, dân số, khám bệnh, chữa bệnh, phục hồi chức năng và các dịch vụ y tế khác; Trung tâm trực tiếp quản lý trạm y tế xã và phòng khám đa khoa khu vực (nếu có)” đã khẳng định việc quy định “Trạm y tế là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện cấp huyện ” đã hoàn toàn phù hợp và bảo đảm tính thực tiễn.
(2) Ngày 27/5/2021, Bộ Y tế ban hành Thông tư số 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương (thay thế Thông tư số 37/2016/TT-BYT ngày 25/10/2016); trong đó xác định các đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện có: (i) Trạm y tế xã, phường, thị trấn, (ii) Phòng khám đa khoa khu vực, Nhà hộ sinh (nếu có); đồng thời xác định trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh “Chỉ đạo Ủy ban nhân dân cấp huyện chịu trách nhiệm đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất đối với các đơn vị y tế trên địa bàn theo phân công, phân cấp và phối hợp với Sở Y tế tăng cường công tác y tế, dân số trên địa bàn”. Đến thời điểm hiện tại, 62/63 tỉnh, thành phố quy định Trạm y tế xã, phường, thị trấn là đơn vị y tế thuộc Trung tâm Y tế huyện (tỉnh Quảng Ninh thực hiện thí điểm giao Phòng Y tế quản lý Trạm y tế xã từ năm 2016).
(3) Những văn bản nêu trên là cơ sở pháp lý quan trọng, kết quả thực hiện trên phạm vi toàn quốc là cơ sở thực tiễn khẳng định vị trí của Trạm y tế trong hệ thống, bảo đảm tính thống nhất trong quản lý chung đối với Trạm y tế trên cơ sở nội dung công việc cũng như quản lý các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) theo quy định của pháp luật và phân cấp hiện nay.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Ngày 08/7/2021, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3355/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 năm 2021- 2022. Đây là chiến dịch tiêm chủng vắc xin COVID-19 với quy mô lớn nhất trong lịch sử tiêm chủng tại Việt Nam, có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ: Y tế, Quốc phòng, Công an, Thông tin và Truyền thông, Giao thông Vận tải và Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; kế hoạch tổ chức triển khai trên quan điểm thống nhất “Tiêm nhanh nhất, nhiều nhất, rộng nhất, đảm bảo an toàn, hiệu quả, công bằng và công khai” với các giải pháp:
(1) Huy động lực lượng, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết triển khai chiến dịch tiêm chủng toàn quốc: Bộ Y tế đã chỉ đạo toàn ngành rà soát tất cả các cán bộ, lực lượng y tế hiện đang làm việc từ tuyến y tế cấp xã trở lên, thống kê và tổ chức tập huấn cho chiến dịch tiêm chủng với quy mô lớn nhất trong lịch sử. Chỉ đạo các trường y, dược trên cả nước, rà soát tất cả sinh viên năm cuối tham gia vào công tác tiêm phòng cho người dân. Bộ Y tế cũng chỉ đạo thống kê các lực lượng y tế đã về hưu, nếu có đủ điều kiện sức khỏe, để tham gia tập huấn và triển khai chiến dịch này. Kết quả đã huy động được hàng vạn cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, gồm cả lực lượng dân y và quân y, cả công lập và tư nhân tham gia vào chiến dịch. Tổ chức, bố trí nhiều điểm tiêm (Trạm Y tế cấp xã, Bệnh viện, Bệnh xá, cơ sở y tế thuộc các Bộ, ngành, cơ sở tiêm chủng dịch vụ...) và một số cơ sở tiêm khác (Trạm y tế lưu động, các trường học, nhà văn hóa ...).
(2) Bộ Y tế đã xây dựng các tài liệu và tổ chức tập huấn về việc triển khai công tác tiêm chủng, hướng dẫn khám sàng lọc, xử trí tai biến nặng sau tiếm chủng; đảm bảo an toàn tiêm chủng. Chỉ đạo các Bệnh viện trung ương, tỉnh, thành phố, Bệnh viện và Trung tâm y tế cấp huyện tổ chức các đội cấp cứu tại đơn vị và hỗ trợ cho các điểm tiên chủng, đặc biệt là các xã ở các vùng đi lại khó khăn, ít nhất 01 đội cấp cứu lưu động tại mỗi cụm 3-4 điểm tiêm chủng. Trong thời gian triển khai tiêm chủng COVID-19, các bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố phải dự phòng một số giường bệnh hồi sức tích cực nhất định (để trong tối thiểu 5 giường/Bệnh viện) để sẵn sàng xử trí trường hợp phản ứng nặng sau tiêm chủng.
(3) Chuẩn bị đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ, vật tư tiêu hao cho tiêm chủng, biểu mẫu tiêm chủng, phương tiện xử trí cấp cứu tại chỗ và phương án cụ thể để hỗ trợ cấp cứu trong trường hợp cần thiết. Bộ Y tế chỉ đạo các cơ sở y tế đảm bảo tiêm đến đâu an toàn đến đó, hướng dẫn các cơ sở tiêm chủng bố trí tiêm theo khung giờ, chia thành nhiều bàn, điểm tiêm chủng bảo đảm giãn cách phòng, chống dịch; sử dụng tối đa công nghệ thông tin trong tiêm chủng, bố trí cán bộ hỗ trợ sử dụng công nghệ thông tin trong việc triển khai tiêm chủng. Triển khai ứng dụng Sổ sức khỏe điện tử để quản lý quá trình tiêm chủng của từng người dân.
(4) Tính đến ngày 04/11/2021, cả nước đã tiêm được 86,4 triệu liều; đã có trên 32,5 triệu người tiêm 1 liều vắc xin và trên 26,9 triệu người tiêm đủ 2 liều vắc xin. Tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin là 81,2% và tỷ lệ tiêm đủ 02 liều vắc xin là 37,34% dân số từ 18 tuổi trở lên; vào ngày cao điểm cả nước tiêm được trên 2 triệu liều vắc xin/ngày. Có 13 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 95%; có 11 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ đủ 02 mũi vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 50%. Riêng các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã tiêm được 94,1% mũi 1 và 48,7% mũi 2 cho người từ 18 tuổi trở lên. Đối với trẻ em từ 12 - 17 tuổi, đã tiêm được hơn 900.000 liều vắc xin Pfizer tại 12 tỉnh/thành phố (TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Lạng Sơn, Lào Cai, Đồng Nai), theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Về cơ sở thực tiễn thực hiện biện pháp cách ly y tế
Dịch COVID-19 là bệnh truyền nhiễm nguy hiểm mới nổi lây truyền qua đường hô hấp, bệnh có khả năng lây truyền rất nhanh, phát tán rộng và tỷ lệ tử vong cao. Nguyên tắc để kiểm soát dịch bệnh truyền nhiễm là cắt đứt nguồn lầy nhiễm, không để người đã nhiễm bệnh tiếp xúc với người chưa nhiễm bệnh; do đó việc cách ly, khoanh vùng những người nhiễm bệnh (F0) hoặc tiếp xúc gần là rất cần thiết, thực hiện càng sớm càng tốt nhằm ngăn chặn lây nhiễm, loại trừ tác nhân gây bệnh, cắt đứt đường lây, bùng phát dịch bệnh trong cộng đồng.
Biện pháp cách ly y tế đã được chứng minh hiệu quả trong đối phó với dịch bệnh truyền nhiễm. Trong đợt dịch COVID-19 tại Thành phố Vũ Hán (Trung Quốc), việc cách ly nghiêm ngặt đã góp phần kiểm soát được dịch trong thời gian ngắn, ngay cả khi số lượng người cách ly rất đông (khoảng 100 triệu người). Tổ chức Y tế thế giới cũng khuyến cáo thực hiện biện pháp cách ly trong phòng, chống bệnh truyền nhiễm và hầu hết các nước trên thế giới đã áp dụng để phòng chống dịch COVID-19, góp phần khống chế dịch mỗi khi có đợt bùng phát dịch.
Đặc biệt với biến thể vi rút Delta nguy hiểm, lây lan nhanh gây nhiều khó khăn cho hoạt động kiểm soát dịch bệnh; biện pháp cách ly y tế càng được chú trọng, thực hiện càng sớm, càng triệt để càng tốt nhằm kiểm soát được tỷ lệ mắc, tử vong và hạn chế lây lan ra cộng đồng. Hiện nay, nhiều nước vẫn áp dụng các biện pháp cách ly, khoanh vùng, thậm chí phong tỏa toàn thành phố (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapore, Pháp, Mỹ,... ) mỗi khi có các đợt dịch bùng phát.
(2) Các biện pháp cách ly và hướng dẫn của Bộ Y tế
Việt Nam đã áp dụng chiến lược “Ngăn chặn - Phát hiện - Cách ly - Khoanh vùng dập dịch và Điều trị tích cực” ngay từ khi dịch COVID-19 được ghi nhận trên thế giới nhằm chủ động kiểm soát dịch ngay từ biên giới, cửa khẩu, hạn chế tối đa sự xâm nhập, lây lan của dịch và cách ly, khoanh vùng, xử lý nhanh, điều trị hiệu quả khi phát hiện những trường hợp nhiễm, nghi nhiễm SARS-CoV-2 trong nước. Chiến lược này đã được thực hiện xuyên suốt từ đầu năm 2020 đến nay và nhất quán, từ các văn bản chỉ đạo của Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia.
Ngay từ giai đoạn đầu của dịch COVID-19, Bộ Y tế đã ban hành kịp thời các văn bản hướng dẫn cách ly y tế2 để phòng chống lây nhiễm chéo trong khu cách ly tập trung, cách ly tại khách sạn, cách ly tại nhà...và quy định các biện pháp chuyên môn kỹ thuật cụ thể, bảo đảm phòng tránh lây nhiễm chéo trong các cơ sở cách ly (như: bố trí, sắp xếp trong cơ sở cách ly, trong đó phân rõ khu cực dành cho người cách ly, khu vực điều hành, lắp camera giám sát, giữ khoảng các giường cách nhau 2 mét, có tấm che giữa các giường, không sử dụng điều hòa trung tâm, thông thoáng khí,...). Đồng thời, ban hành các quy định cụ thể đối với người được cách ly, trong đó yêu cầu thực hiện các biện pháp vệ sinh cá nhân, đeo khẩu trang, thường xuyên rửa tay bằng xà phòng, không khạc nhổ bừa bãi, không được tụ tập nói chuyện, không ngồi ăn chung, không sử dụng chung các vật dụng cá nhân...
Các biện pháp tổ chức cách ly thường xuyên được điều chỉnh, cập nhật phù hợp theo diễn biến dịch bệnh và năng lực cách ly của từng địa bàn3. Mở rộng, thiết lập thêm các khu cách y tập trung tại các địa bàn trọng điểm dịch bệnh. Điều chỉnh thời gian cách ly tập trung phù hợp với diễn biến dịch. Nhiều biện pháp cách ly lần đầu tiên được triển khai trong phòng, chống dịch tại nước ta như: Cách ly F1 tại trạm y tế xã tại nhà, cơ sở sản xuất, doanh nghiệp; thực hiện cách ly tại chỗ, cách ly ngay tại các cơ sở sản xuất, khu công nghiệp; sử dụng camera giám sát cách ly4; đặc biệt, tổ chức triển khai thí điểm cách ly F0 tại nhà đối với các trường hợp không triệu chứng (bảo đảm các điều kiện cần thiết trong quá trình thực hiện cách ly) trong giai đoạn dịch tăng cao tại Thành phố Hồ Chí Minh...
Trong đợt dịch thứ 4, kết quả giám sát cho thấy tỷ lệ ca mắc phát hiện trong khu cách ly trong tổng số ca mắc COVID-19 chiếm tỷ lệ 16,7% (chủ yếu là tỷ lệ mắc phát hiện qua xét nghiệm sàng lọc cộng đồng là 42,0%, trong khu phong tỏa là 35,9%, sàng lọc bệnh viện là 5,4%). Nguyên nhân là do có nhiều trường hợp đã nhiễm vi rút từ trước khi vào khu cách ly và được phát hiện sau khi vào khu cách ly, đặc biệt có một số trường hợp, do thời gian ủ bệnh tương đối dài trên 14 ngày nên có thể sau khi hết thời gian cách ly vẫn có kết quả dương tính với COVID-19. Những trường hợp này nếu không được cách ly thì có thể đã lây lan cho nhiều người khác khi tiếp xúc trong cộng đồng.
(3) Tổ chức thực hiện
Căn cứ các hướng dẫn cách ly của Bộ Y tế, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện cách ly tập trung và đảm bảo các nguồn lực để thực hiện hiệu quả việc cách ly trên địa bàn; tạo điều kiện, hỗ trợ để người được cách ly yên tâm thực hiện việc cách ly trong suốt thời gian theo dõi; kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện cách ly. Bên cạnh đó, Ban Chỉ đạo Quốc gia phòng chống dịch COVID-19 và Bộ Y tế thường xuyên thành lập các đoàn kiểm tra liên ngành để kiểm tra công tác tổ chức cách ly tại các tỉnh, thành phố; qua đó để chấn chỉnh kịp thời những cơ sở cách ly không tuân thủ nghiêm hướng dẫn chuyên môn của Bộ Y tế.
Cách ly tập trung là một trong những giải pháp hiệu quả trong việc hạn chế lây lan dịch bệnh ra cộng đồng, góp phần kiểm soát tốt đại dịch COVID-19 tại Việt Nam trong các đợt dịch vừa qua. Để phòng chống việc lây nhiễm chéo COVID-19 tại các cơ sở cách ly tập trung không chỉ là trách nhiệm của cơ quan quản lý, chính quyền địa phương hay nhân viên y tế mà còn cần sự hợp tác của người dân đang thực hiện cách ly tập trung. Nếu tuân thủ đúng các quy định, việc phòng chống lây nhiễm chéo trong khu cách ly sẽ được đảm bảo.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
(1) Trong thời gian dịch COVID-19 vừa qua, công tác đảm bảo dịch vụ y tế vẫn thông suốt vừa đáp ứng công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân vừa đảm bảo công tác thu dung và điều trị bệnh nhân COVID-19. Bộ Y tế ban hành kịp thời các văn bản chỉ đạo hướng dẫn các bệnh viện, phòng khám chủ động ứng phó với COVID-19, tránh để COVID-19 xâm nhập vào bệnh viện nhờ đó tránh tối đa tình huống bệnh viện, phòng khám bị phong tỏa để bảo đảm hoạt động khám chữa bệnh được luôn thông suốt và an toàn5. Thực tế chỉ có một số bệnh viện bị phong tỏa, tuy nhiên đã nhanh chóng kịp thời kiểm soát dịch và mở lại dịch vụ khám chữa bệnh cho nhân dân; một vài trường hợp đơn lẻ không tiếp nhận cấp cứu bệnh nhân thông thường do dư luận phản ánh đã được Bộ Y tế, Sở Y tế ngay lập tức tổ chức thanh kiểm tra làm rõ nguyên nhân và xử lý nghiêm khắc các cá nhân, đơn vị có vi phạm.
(2) Bộ Y tế ban hành các văn bản hướng dẫn thành lập cơ sở thu dung điều trị bệnh nhân COVID-19 theo mô hình tháp 3 tầng6; chỉ đạo, đôn đốc các Sở Y tế, các bệnh viện chuẩn bị phương án, lựa chọn các bệnh viện sẵn sàng thiết lập bệnh viện dã chiến làm nơi thu dung, điều trị COVID-19 riêng biệt hoặc có khu điều trị riêng biệt với COVID-19 theo mô hình bệnh viện chia đôi, tăng cường khám chữa bệnh từ xa, quản lý hạn chế người nhà chăm sóc, thăm hỏi... để việc khám chữa bệnh thông thường vẫn đáp ứng song song với khám chữa bệnh COVID-19. Thực hiện cấp phát thuốc đầy đủ cho người bệnh trong 2-3 tháng thay vì hàng tháng để bảo đảm chất lượng điều trị và hạn chế lây lan trong giai đoạn dịch bùng phát.
(3) Về huy động nguồn nhân lực đảm bảo công tác phòng, chống dịch: Bộ Y tế đã chỉ đạo toàn ngành rà soát tất cả các cán bộ, lực lượng y tế hiện đang làm việc từ tuyến y tế cấp xã trở lên, thống kê và tổ chức tập huấn cho công tác phòng, chống dịch. Chỉ đạo các trường y, dược trên cả nước, rà soát tất cả sinh viên năm cuối tham gia vào công tác tiêm phòng, lấy mẫu xét nghiệm cho người dân. Bộ Y tế cũng chỉ đạo thống kê các lực lượng y tế đã về hưu, nếu có đủ điều kiện sức khỏe, để tham gia tập huấn và sẵn sàng hỗ trợ phòng, chống dịch. Kết quả đã huy động được hàng vạn cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, gồm cả lực lượng dân y và quân y, cả công lập và tư nhân tham gia phòng, chống dịch.
Trong đợt dịch lần thứ 4 xảy ra tập trung tại các tỉnh phía Nam, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng huy động, điều động một lực lượng lớn nhân lực của y tế, quân đội, công an với gần 300.000 lượt cán bộ của Trung ương và 34 địa phương hỗ trợ cho TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và các địa phương khác đang có dịch. Ngành Y tế đã huy động gần 20.000 cán bộ, lực lượng quân đội huy động hơn 133.000 cán bộ, lực lượng công an huy động hơn 126.000 cán bộ, chiến sỹ hỗ trợ, tham gia phòng chống dịch tại TP. Hồ Chí Minh và các địa phương; huy động lực lượng y tế trung ương và 12 tỉnh, thành phố hỗ trợ công tác phòng chống dịch TP. Hà Nội... lực lượng quân y đã hỗ trợ và triển khai 531 trạm y tế lưu động tại TP. Hồ Chí Minh... Các lực lượng hỗ trợ đã cùng với lực lượng tại chỗ phối hợp chặt chẽ, triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Theo Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025, Bộ Y tế đã đề nghị và được Quốc hội thông qua, trong đó có Dự án đầu tư cải tạo nâng cấp Bệnh viện Phong và Da liễu Quy Hòa thành Bệnh viện đa khoa khu vực Nam Trung Bộ với tổng mức đầu tư là 750 tỷ đồng quy mô 800 giường bệnh, hiện tại Bộ Y tế đang thực hiện các thủ tục chuẩn bị đầu tư để khởi công dự án trong năm 2022.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về tiếp tục chỉ đạo quyết liệt công tác phòng chống dịch bệnh COVID-19
Tổ chức Y tế Thế giới và các nhà khoa học, các quốc gia nhận định dịch COVID-19 chưa thể kiểm soát được trong năm 2021-2022, có thể xuất hiện các chủng mới nguy hiểm hơn làm cho dịch diễn biến phức tạp khó lường, số ca nhiễm vẫn có thể tăng nhanh ngay cả khi đã tiêm vắc xin nếu không tiếp tục thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch. Mặt khác, việc phòng, chống dịch bằng giãn cách xã hội kéo dài làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, tác động tiêu cực đến sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là đời sống, tâm lý người dân, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội. Vắc xin làm giảm tỷ lệ mắc và giảm ca nặng nên khi đạt độ bao phủ vắc xin không nhất thiết phải giãn cách kéo dài trên diện rộng và không có nguy cơ gây quá tải hệ thống y tế. Do vậy, đã có nhiều quốc gia thay đổi quan điểm ứng phó dịch bệnh từ cố gắng dập tắt dứt điểm sang sống chung an toàn với dịch bệnh.
Đối với Việt Nam, một số kinh nghiệm bước đầu được đúc kết từ thực tiễn phòng chống dịch; năng lực ứng phó của hệ thống y tế ngày một nâng lên; chiến lược vắc xin đã phát huy hiệu quả giúp chúng ta chủ động hơn trong việc chuyển hướng chiến lược phòng, chống dịch. Thời gian tới tiếp tục triển khai các nội dung trọng tâm sau:
(1) Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng; huy động cả hệ thống chính trị, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Làm tốt hơn nữa công tác dự báo; phát huy trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là ở cơ sở; đề cao trách nhiệm người đứng đầu. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với kiểm tra, giám sát và phát huy tính tự chủ, linh hoạt, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, địa phương và doanh nghiệp.
(2) Triển khai hiệu quả Chiến lược tổng thể về phòng, chống dịch COVID-19 để tạo điều kiện thuận lợi thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội. Các địa phương chủ động xây dựng kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 128/NQ-CP ngày 11/10/2021 của Chính phủ và Quyết định số 4800/QĐ-BYT ngày 12/10/2021 ban hành Hướng dẫn tạm thời về chuyên môn y tế “Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19”.
(3) Đẩy nhanh Chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 toàn quốc, thực hiện tiêm mũi tăng cường và triển khai kế hoạch tiêm vắc xin cho trẻ em thận trọng, an toàn, khoa học. Hướng tới tỷ lệ vắc xin bao phủ dân số trên 18 tuổi đạt 100% trong quý 4/2021 và đầu năm 2022. Từ Quý 4 năm 2021, Bộ Y tế tiếp tục triển khai tiêm cho trẻ em từ 12 đến 17 tuổi theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương với mục tiêu 100% trẻ trong độ tuổi này được tiêm đủ số mũi cơ bản; mở rộng tiêm cho trẻ em thuộc các nhóm tuổi khác có chỉ định sử dụng vắc xin, đảm bảo toàn bộ người dân bình đẳng, công bằng trong tiếp cận vắc xin phòng COVID-19.
(4) Tập trung đầu tư, từng bước hiện đại hóa, nâng cao năng lực hệ thống y tế, nhất là y tế dự phòng, y tế cơ sở. Bảo đảm an ninh y tế, chú trọng thúc đẩy nghiên cứu y sinh học, phát triển công nghiệp dược, vắc xin, sinh phẩm, thuốc điều trị, trang thiết bị y tế để chủ động trong phòng, chống dịch, kể cả đối với các loại dịch bệnh nguy hiểm, mới nổi.
Tiếp tục nhập khẩu vắc xin về thúc đẩy sản xuất vắc xin trong nước để từng bước chủ động nguồn cung, đáp ứng nhu cầu năm 2022 và các năm tiếp theo; khuyến khích huy động nguồn lực địa phương, doanh nghiệp để mua vắc xin.
Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách huy động nguồn lực cho phòng, chống dịch, thúc đẩy xã hội hóa, kết hợp công tư; tiếp tục đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho hệ thống y tế đáp ứng yêu cầu phòng, chống dịch; có chính sách đặc thù, đãi ngộ đối với lực lượng y tế, lực lượng tuyến đầu có nhiều đóng góp, hy sinh.
(5) Thực hiện việc kết nối, xác thực và liên thông các cơ sở dữ liệu trên nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về Dân cư. Đảm bảo an toàn, an ninh đối với các ứng dụng và cơ sở dữ liệu phục vụ phòng, chống dịch.
2. Xử lý nghiêm những vi phạm của tổ chức, cá nhân trong công tác phòng, chống dịch
Công tác thanh tra, kiểm tra về phòng, chống dịch thuộc thẩm quyền và trách nhiệm của nhiều cấp, nhiều ngành và của Ủy ban nhân dân các cấp. Thời gian vừa qua, Bộ Y tế đã phối hợp cùng các Bộ, ngành triển khai quyết liệt kiểm tra về công tác phòng, chống dịch COVID-19, cụ thể:
(1) Ban hành các văn bản chỉ đạo tăng cường kiểm tra, thanh tra7 liên quan đến công tác phòng chống dịch COVID-19. Tổ chức các Đoàn thanh tra, kiểm tra về công tác phòng, chống lịch bệnh COVID-19 tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương8. Kiểm tra việc sản xuất, nhập khẩu, mua sắm vật tư, trang thiết bị xét nghiệm, phòng hộ, khẩu trang y tế phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 tại một số đơn vị trên địa bàn Hà Nội9 và tại các địa phương10.
Kết quả kiểm tra cho thấy một số cơ sở chưa thực hiện việc công khai giá bán trang thiết bị y tế lên Cổng thông tin điện tử của Bộ Y tế11, chưa có công bố đủ điều kiện sản xuất trang thiết bị12. Một số sản phẩm thiết bị y tế ghi thiếu thông tin số đăng ký lưu hành, thông tin về số lô sản xuất, ngày sản xuất, nơi sản xuất, hạn sử dụng của sản phẩm13. Ngoài ra, ở một số địa phương còn lúng túng, chưa ứng phó kịp thời trong công tác phòng, chống dịch như chưa thực hiện tốt nguyên tắc 5K, tập trung đông người tại cơ sở tiêm chủng và xét nghiệm COVID-19; nhờ đăng ký tiêm vắc xin cho người thân, đưa thông tin sai lệch về tiêm vắc xin; sản xuất kinh doanh thực phẩm bảo vệ sức khoẻ không đúng quy định...
(2) Bộ Y tế chỉ đạo Thanh tra Sở Y tế tỉnh, thành phố phối hợp với các cơ quan liên quan trên địa bàn kiểm tra, xem xét xử lý sau khi có kết quả xác minh đối với một số cơ sở vi phạm. Phối hợp với Cục Cảnh sát phòng, chống tội phạm về môi trường, Bộ Công an để chuyển hồ sơ xử lý. Tiến hành xử phạt hành chính đối với 17 cơ sở với tổng tiền phạt trên 945 triệu đồng. Chuyển hồ sơ sang Thanh tra Bộ Thông tin và Truyền thông xử phạt 01 trường hợp với số tiền 25 triệu đồng.
(3) Trong thời gian tới, Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, các tỉnh, thành phố để tăng cường hơn nữa công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, cũng như các hành vi vi phạm pháp luật trong phòng chống dịch nói riêng để đảm bảo sức khỏe cho nhân dân.
3. Về triển khai nhanh chóng việc tiêm vắc xin cho toàn dân để hướng đến miễn dịch cộng đồng
(1) Tổ chức triển khai chiến dịch tiêm chủng toàn quốc kịp thời, an toàn, khoa học, hiệu quả: Ngày 08/7/2021, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3355/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 năm 2021-2022. Đây là chiến dịch tiêm chủng vắc xin COVID-19 với quy mô lớn nhất trong lịch sử tiêm chủng tại Việt Nam, có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ: Y tế, Quốc phòng, Công an, Thông tin và Truyền thông, Giao thông Vận tải và Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; kế hoạch tổ chức triển khai trên quan điểm thống nhất “Tiêm nhanh nhất, nhiều nhất, rộng nhất, đảm bảo an toàn, hiệu quả, công bằng và công khai”.
(2) Huy động lực lượng, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết triển khai chiến dịch tiêm chủng toàn quốc: Bộ Y tế đã chỉ đạo toàn ngành rà soát tất cả các cán bộ, lực lượng y tế hiện đang làm việc từ tuyến y tế cấp xã trở lên, thống kê và tổ chức tập huấn cho chiến dịch tiêm chủng với quy mô lớn nhất trong lịch sử. Chỉ đạo các trường y, dược trên cả nước, rà soát tất cả sinh viên năm cuối tham gia vào công tác tiêm phòng cho người dân. Bộ Y tế cũng chỉ đạo thống kê các lực lượng y tế đã về hưu, nếu có đủ điều kiện sức khỏe, để tham gia tập huấn và triển khai chiến dịch này. Kết quả đã huy động được hàng vạn cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, gồm cả lực lượng dân y và quân y, cả công lập và tư nhân tham gia vào chiến dịch. Tổ chức, bố trí nhiều điểm tiêm (Trạm Y tế cấp xã, Bệnh viện, Bệnh xá, cơ sở y tế thuộc các Bộ, ngành, cơ sở tiêm chủng dịch vụ...) và một số cơ sở tiêm khác (Trạm y tế lưu động, các trường học, nhà văn hóa ...).
- Bộ Y tế đã xây dựng các tài liệu và tổ chức tập huấn về việc triển khai công tác tiêm chủng, hướng dẫn khám sàng lọc, xử trí tai biến nặng sau tiêm chủng; đảm bảo an toàn tiêm chủng. Chỉ đạo các Bệnh viện trung ương, tỉnh, thành phố, Bệnh viện và Trung tâm y tế cấp huyện tổ chức các đội cấp cứu tại đơn vị và hỗ trợ cho các điểm tiêm chủng, đặc biệt là các xã ở các vùng đi lại khó khăn, ít nhất 01 đội cấp cứu lưu động tại mỗi cụm 3-4 điểm tiêm chủng. Trong thời gian triển khai tiêm chủng COVID-19, các bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố phải dự phòng một số giường bệnh hồi sức tích cực nhất định (để trống tối thiểu 5 giường/Bệnh viện) để sẵn sàng xử trí trường hợp phản ứng nặng sau tiêm chủng.
- Các điểm tiêm chủng chuẩn bị đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ, vật tư tiêu hao cho tiêm chủng, biểu mẫu tiêm chủng, phương tiện xử trí cấp cứu tại chỗ và phương án cụ thể để hỗ trợ cấp cứu trong trường hợp cần thiết. Bộ Y tế chỉ đạo các cơ sở y tế đảm bảo tiêm đến đâu an toàn đến đó, hướng dẫn các cơ sở tiêm chủng bố trí tiêm theo khung giờ, chia thành nhiều bàn, điểm tiêm chủng bảo đảm giãn cách phòng, chống dịch; sử dụng tối đa công nghệ thông tin trong tiêm chủng, bố trí cán bộ hồ rợ sử dụng công nghệ thông tin trong việc triển khai tiêm chủng. Triển khai ứng dụng sổ sức khỏe điện tử để quản lý quá trình tiêm chủng của từng người dân.
(3) Tính đến ngày 04/11/2021 cả nước đã tiêm được 86,4 triệu liều; đã có trên 32,5 triệu người tiêm 1 liều vắc xin và trên 26,9 triệu người tiêm đủ 2 liều vắc xin. Tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin là 81,2% và tỷ lệ tiêm đủ 02 liều vắc xin là 37,34% dân số từ 18 tuổi trở lên; vào ngày cao điểm cả nước tiêm được trên 2 triệu liều vắc xin/ngày. Có 13 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 95%; có 11 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ đủ 02 mũi vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 50%. Riêng các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã tiêm được 94,1% mũi 1 và 48,7% mũi 2 cho người từ 18 tuổi trở lên. Đối với trẻ em từ 12 - 17 tuổi, đã tiêm được hơn 900.000 liều vắc xin Pfizer tại 12 tỉnh/thành phố (TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Lạng Sơn, Lào Cai, Đồng Nai), theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương.
4. Về đưa chi phí xét nhiệm và điều trị bệnh COVID-19 vào danh mục thanh toán bảo hiểm y tế
Theo quy định tại khoản 2 Điều 48 Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm số 03/2007/QH12 ngày 21/11/2007: “...Người mắc bệnh dịch thuộc nhóm A được khám và điều trị miễn phí”.
Ngày 29/01/2020, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 219/QĐ-BYT về việc bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (nCov) gây ra vào danh mục các bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định tại điểm a, khoản 1 và khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007. Các hoạt động phòng, chống bệnh viêm đường hô hấp cấp do nCoV được thực hiện theo quy định đối với bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007.
Như vậy, theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm thì chi phí xét nghiệm và điều trị bệnh COVID-19 được ngân sách nhà nước chi trả.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 13 Luật Bảo hiểm y tế hiện hành, đối tượng học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế được xác định theo thứ tự quy định tại điều 12 của Luật Bảo hiểm y tế, được ngân sách nhà nước hỗ trợ tối thiểu 30% mức đóng bảo hiểm y tế. Học sinh, sinh viên tham gia bảo hiểm y tế theo Nhóm đối tượng 4 sẽ không tham gia bảo hiểm y tế ở nhóm 5 là nhóm Hộ gia đình.
Bộ Y tế đang xây dựng Luật Bảo hiểm y tế sửa đổi, dự kiến trình Quốc hội vào kì họp thứ 4, tháng 10 năm 2022 và thông qua Luật Bảo hiểm y tế vào kì họp thứ 5, tháng 5 năm 2023.
Và Câu 13: Cử tri và Nhân dân rất lo lắng trước tình hình dịch bệnh Covid-19 trong nước và trên thế giới vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp, số lượng ca mắc mới và tử vong vẫn tăng ở nhiều nước. Kiến nghị Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành đảm bảo tiến độ sản xuất Vaccine trong nước và làm chủ Vaccine; mặt khác, đảm bảo đủ số lượng Vaccine đã ký kết hợp tác với các nước để đạt được mục tiêu tiêm chủng cho 70% đối tượng từ 18 tuổi trở lên (Sóc Trăng, Bà Rịa Vũng Tàu)
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về việc đảm bảo tiến độ sản xuất vắc xin trong nước và làm chủ vắc xin
(1) Về nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia và Bộ Y tế luôn nhất quán quan điểm ủng hộ tối đa, tạo mọi điều kiện thuận lợi và thúc đẩy việc nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước, nhưng đảm bảo tuân thủ các quy trình về chuyên môn, bám sát cơ sở khoa học. Đến nay, Việt Nam là một trong số ít nước trong khu vực đã chủ động nghiên cứu vắc xin và có 3 vắc xin đang được thử nghiệm lâm sàng và là nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 314.
Bộ Y tế đã khẩn trương báo cáo Chính phủ, Quốc hội để hoàn thiện quy định pháp lý để cấp giấy đăng ký lưu hành có điều kiện cho vắc xin sản xuất trong nước đã có kết quả đánh giá giữa kỳ giai đoạn 3 dựa trên tính sinh miễn dịch; giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, để tạo điều kiện nhất cho doanh nghiệp rút ngắn thời gian cấp phép (Thường vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 và Nghị quyết số 86/NQ-CP. Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 11/2021/TT-BYT Hướng dẫn đăng ký lưu hành vắc xin trong trường hợp khẩn cấp).
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước xây dựng đề cương, đẩy nhanh tiến độ thử nghiệm lâm sàng và chuẩn bị hồ sơ cấp phép theo quy định.
- Hiện nay, Bộ Y tế đã triển khai tham vấn các tổ chức trong và ngoài nước, khẩn trương xây dựng hướng dẫn đánh giá kết quả giữa kỳ giai đoạn 3 về tính an toàn và hiệu quả của vắc xin phòng Covid-19 sản xuất trong nước để có căn cứ xem xét cấp phép lưu hành trong trường hợp cấp bách, dự kiến hoàn thành vào giữa tháng 11/2021.
(2) Về chuyển giao công nghệ vắc xin COVID-19: Bộ Y tế đã thành lập Ban chỉ đạo nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất vắc xin phòng COVID-19 và thúc đẩy hợp tác với một số quốc gia như Mỹ, Nga, Cuba, Trung Quốc trong chuyển giao công nghệ.15
2. Sớm hoàn thành chiến dịch tiêm chủng vắc-xin phòng Covid-19 toàn dân, phấn đấu đạt mục tiêu cuối năm 2021 hoặc đầu năm 2022 có thể đạt miễn dịch cộng đồng
(1) Tính đến ngày 05/11/2021, tổng số vắc xin đã có hợp đồng mua, cam kết viện trợ và tài trợ là 198,8 triệu liều, đã tiếp nhận 124,7 triệu liều vắc xin và phân bố vắc xin theo địa bàn trọng điểm là những nơi đang có dịch bùng phát mạnh, nguy cơ bùng phát cao, nhiều khu công nghiệp, giao thông huyết mạch...; thực hiện ưu tiên tiêm cho các đối tượng người già, người có nguy cơ cao, mở rộng chỉ định tiêm cho một số đối tượng như phụ nữ mang thai trên 13 tuần, trẻ em, mở rộng mạng lưới tiêm chủng bao gồm cố định và lưu động. Hiện đã phân bổ hơn 110 triệu liều vắc xin cho các đơn vị, địa phương để tiêm chủng cho toàn bộ người dân từ 18 tuổi trở lên và một số trẻ em từ 12 đến 17 tuổi.
Tính đến ngày 04/11/2021, cả nước đã tiêm được 86,4 triệu liều; đã có trên 32,5 triệu người tiêm 1 liều vắc xin và trên 26,9 triệu người tiêm đủ 2 liều vắc xin. Tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin là 81,2% và tỷ lệ tiêm đủ 02 liều vắc xin là 37,34% dân số từ 18 tuổi trở lên; vào ngày cao điểm cả nước tiêm được trên 2 triệu liều vắc xin/ngày. Có 13 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 95%; có 11 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ đủ 02 mũi vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 50%. Riêng các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã tiêm được 94,1% mũi 1 và 48,7% mũi 2 cho người từ 18 tuổi trở lên. Đối với trẻ em từ 12 - 17 tuổi, đã tiêm được hơn 900.000 liều vắc xin Pfizer tại 12 tỉnh/thành phố16, theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương.
(2) Thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp với Bộ Ngoại giao bám sát, đôn đốc các nhà sản xuất, cung ứng, nhất là đối với các hợp đồng đã được ký kết để đẩy nhanh tiến độ bàn giao vắc xin về Việt Nam nhanh nhất, sớm nhất; hỗ trợ tích cực công tác nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước để sớm chủ động nguồn vắc xin; thông qua đó tăng lượng vắc xin sẵn có, tạo điều kiện cho mọi người dân được tiêm chủng đầy đủ để kiểm soát tốt dịch bệnh. Tiếp tục trao đổi, đàm phán để tiếp cận các nguồn vắc xin COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về cơ chế, chính sách và bố trí nguồn lực thỏa đáng cho công tác nghiên cứu, phát triển, chuyển giao công nghệ, tổ chức sản xuất vắc xin
(1) Sử dụng ngân sách Nhà nước, Quỹ vắc xin phòng chống COVID-19 Việt Nam (sau đây viết tắt là Quỹ vắc xin) và các nguồn hợp pháp để hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin, bao gồm cả việc mua bảo hiểm cho người tham gia thử nghiệm lâm sàng, thực hiện thử nghiệm lâm sàng ở nước ngoài và chấp nhận rủi ro đối với phần kinh phí mà ngân sách Nhà nước, Quỹ vắc xin đã hỗ trợ nếu nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin không thành công.
Áp dụng mức và thời hạn ưu đãi đặc biệt theo quy định pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp và pháp luật về đất đai; thực hiện các hình thức hỗ trợ đầu tư cần thiết về hệ thống kết cấu hạ tầng, tín dụng, khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ đối với các dự án nghiên cứu, sản xuất hoặc chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin. Có cơ chế, chính sách để tập hợp, thu hút các nhà khoa học; động viên, khen thưởng phù hợp, kịp thời để các nhà khoa học trong và ngoài nước tham gia, đóng góp cho việc nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, sản xuất vắc xin.
(2) Bộ Y tế đã quan tâm đẩy mạnh cho nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong phòng, chống dịch và đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận như: Việt Nam là 1 trong 4 nước đầu tiên trên thế giới phân lập được vi rút; nghiên cứu, sản xuất sinh phẩm chẩn đoán, một số trang thiết bị y tế; đảm bảo được trang thiết bị phòng hộ phòng, chống dịch COVID-19... về nghiên cứu, sản xuất vắc xin, hiện nay có 02 vắc xin đang nghiên cứu để sản xuất trong nước (Nanocovax, Covivax) và phối hợp chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin từ các nước như Anh, Nhật, Đức, Tây Ban Nha, Nga, Cu Ba.... Các vắc xin sản xuất trong nước (bao gồm cả vắc xin gia công, chuyển giao công nghệ) chưa có đủ dữ liệu lâm sàng và chưa đánh giá hiệu quả bảo vệ của vắc xin theo quy định. Riêng vắc xin Nanocovax, Bộ Y tế đã triển khai tham vấn các tổ chức trong và ngoài nước, xây dựng hướng dẫn đánh giá kết quả giữa kỳ giai đoạn 3 về tính an toàn và hiệu quả của vắc xin phòng COVID-19 sản xuất trong nước, làm việc với Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học quốc gia và Hội đồng tư vấn cấp giấy đăng ký lưu hành thuốc, nguyên liệu làm thuốc để có căn cứ xem xét và cấp phép lưu hành. Tập đoàn VinGroup đã đàm phán với Nhà sản xuất Hoa Kỳ về điều kiện chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin COVID-19 từ tinh chất mRNA. Công ty TNHH MTV vắc xin và Sinh phẩm số 1 (VABIOTECH) đã ký thỏa thuận với Quỹ đầu tư trực tiếp của Liên bang Nga về việc đóng ống vắc xin Sputnik-V.
Thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục phối hợp với Bộ Ngoại giao bám sát, đôn đốc các nhà sản xuất, cung ứng, nhất là đối với các hợp đồng đã được ký kết để đây nhanh tiến độ bàn giao vắc xin về Việt Nam nhanh nhất, sớm nhất; hỗ trợ tích cực công tác nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước để sớm chủ động nguồn vắc xin; thông qua đó tăng lượng vắc xin sẵn có, tạo điều kiện cho mọi người dân được tiêm chủng đầy đủ để kiểm soát tốt dịch bệnh. Tiếp tục trao đổi, đàm phán để tiếp cận các nguồn vắc xin COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng.
2. Về tổ chức sản xuất thuốc điều trị bệnh nhân mắc COVID-19
(1) Ngay từ khi dịch bệnh bùng phát, Bộ Y tế đã chủ động đưa ra các hướng dẫn điều trị và triển khai các giải pháp đảm bảo nguồn cung cho các thuốc điều trị COVID-19. Do vậy nhu cầu về thuốc điều trị đã đáp ứng đủ và kịp thời trong cả 4 giai đoạn dịch bệnh vừa qua.
(2) Thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV và Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 của Chính phủ, Bộ Y tế đã tập trung nguồn lực, cắt giảm tối đa thủ tục hành chính, qua đó rút ngắn thời gian cấp đăng ký lưu hành lưu hành, giấy phép nhập khẩu thuốc điều trị COVID-19.
(3) Bộ Y tế đã chỉ đạo, thúc đẩy, tạo điều kiện cho việc sản xuất thuốc điều trị COVID-19 tại Việt Nam (đến nay Viện Hóa sinh biển thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tổng hợp được hoạt chất Molnupiravir quy mô pilot, đang tiếp tục nghiên cứu sản xuất với quy mô lớn hơn); tăng cường trao đổi hợp tác, chuyển giao công nghệ sản xuất thuốc điều trị COVID-19 với một số quốc gia...góp phần đảm bảo nguồn cung thuốc điều trị cho chống dịch.
(4) Thời gian gần đây, có một số liệu pháp mới, hiệu quả vượt trội trong điều trị bệnh nhân COVID-19 như sử dụng các thuốc kháng virus (Remdesivir, Favipiravir, Molnupiravir), các kháng thể đơn dòng. Bộ Y tế đã tiếp cận để nhập khẩu thành phẩm, nhập khẩu nguyên liệu để nghiên cứu và sản xuất, kịp thời phục vụ điều trị17.
(5) Giải pháp tiếp tục triển khai trong thời gian tới
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về dược để tạo cơ chế pháp lý thuận lợi cho việc nhập khẩu, sản xuất thuốc, vắc xin;
- Làm việc với các doanh nghiệp nước ngoài để hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam về việc nhượng quyền tự nguyện để sản xuất thuốc Molnupiravir tại Việt Nam; chủ động hướng dẫn, hỗ trợ, các đơn vị nghiên cứu, các nhà sản xuất trong nước triển khai nghiên cứu, hoàn thiện hồ sơ nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng, hồ sơ đăng ký lưu hành thuốc điều trị COVID-19.
- Xây dựng các mức dự trù sử dụng, trong đó chấp nhận mua thuốc với số lượng đáp ứng nhu cầu cho kịch bản dịch có diễn tiến xấu vì khả năng dư thừa thuốc khi dịch được kiểm soát tốt.
- Tăng cường thúc đẩy việc nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng, chuyển giao công nghệ và sản xuất thuốc điều trị COVID-19 và các vắc xin dự phòng COVID-19; Ưu tiên xử lý, thẩm định, nhanh các hồ sơ đăng ký thuốc điều trị COVID-19.
Bộ Y tế xin trả lời như sau:
1. Về tăng cường, tập trung các nguồn lực, có biện pháp kịp thời, quyết liệt để sớm kiểm soát tình hình dịch COVID-19 trên cả nước
1.1. Về tăng cường, tập trung các nguồn lực phòng, chống dịch COVID-19
a. Về huy động nguồn nhân lực
(1) Bộ Y tế đã chỉ đạo toàn ngành rà soát tất cả các cán bộ, lực lượng y tế hiện đang làm việc từ tuyến y tế cấp xã trở lên, thống kê và tổ chức tập huấn cho công tác phòng, chống dịch. Chỉ đạo các trường y, dược trên cả nước, rà soát tất cả sinh viên năm cuối tham gia vào công tác tiêm phòng, lấy mẫu xét nghiệm cho người dân. Bộ Y tế cũng chỉ đạo thống kê các lực lượng y tế đã về hưu, nếu có đủ điều kiện sức khỏe, để tham gia tập huấn và sẵn sàng hỗ trợ phòng, chống dịch. Kết quả đã huy động được hàng vạn cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, gồm cả lực lượng dân y và quân y, cả công lập và tư nhân tham gia vào chiến dịch
(2) Trong đợt dịch lần thứ 4 xảy ra tập trung tại các tỉnh phía Nam, Bộ Y tế đã phối hợp với Bộ Công an, Bộ Quốc phòng huy động, điều động một lực lượng lớn nhân lực của y tế, quân đội, công an với gần 300.000 lượt cán bộ của Trung ương và 34 địa phương hỗ trợ cho TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và các địa phương khác đang có dịch. Ngành Y tế đã huy động gần 20.000 cán bộ, lực lượng quân đội huy động hơn 133.000 cán bộ, lực lượng công an huy động hơn 126.000 cán bộ, chiến sỹ hỗ trợ, tham gia phòng chống dịch tại TP. Hồ Chí Minh và các địa phương; huy động lực lượng y tế trung ương và 12 tỉnh, thành phố hỗ trợ công tác phòng chống dịch TP. Hà Nội... lực lượng quân y đã hỗ trợ và triển khai 531 trạm y tế lưu động tại TP. Hồ Chí Minh... Các lực lượng hỗ trợ đã cùng với lực lượng tại chỗ phối hợp chặt chẽ, triển khai đồng bộ các biện pháp phòng, chống dịch.
b. Về cung ứng trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm, thuốc điều trị COVID-19
Để chủ động nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm phục vụ khám chữa bệnh và phòng chống dịch COVID-19, Bộ Y tế đã triển khai đồng bộ nhiều giải pháp cơ bản bảo đảm nguồn cung trang thiết bị y tế, sinh phẩm xét nghiệm, cụ thể: (1)Tổng hợp, rà soát đánh giá và khảo sát nhu cầu trong nước; đề nghị các đơn vị sản xuất, nhập khẩu, cung ứng trang thiết bị y tế; chủ động tìm kiếm nguồn hàng, chuẩn bị nguyên liệu phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh đảm bảo cung ứng trang thiết bị, vật tư, sinh phẩm y tế phục vụ công tác phòng, chống dịch COVID-19 năm 2022; (2) Thúc đẩy sản xuất trong nước, đề nghị các doanh nghiệp chủ động, nhanh chóng tìm kiếm các nguồn hàng có chất lượng, có khả năng cung ứng để kịp thời tiếp cận đưa các sản phẩm về thị trường Việt Nam theo hướng tiếp cận với các nhà sản xuất có uy tín từ Châu Âu, Mỹ và thực hiện theo hình thức chuyển giao công nghệ, gia công để rút ngắn quá trình sản xuất và tiến tới làm chủ công nghệ sản xuất tại Việt Nam, đặc biệt ưu tiên mặt hàng phòng chống dịch COVID-19: các sản phẩm test xét nghiệm SARS-CoV-2, máy thở, máy oxy dòng cao 18... (3) Đẩy mạnh thủ tục cấp phép trang thiết bị y tế để đảm bảo nguồn cung19, cấp phép nhập khẩu thuốc điều trị COVID-1920.
C. Về cung ứng vắc xin phòng COVID-19
Bộ Y tế đã chủ động tiếp cận các nguồn vắc xin trên Thế giới, tổ chức hàng trăm cuộc họp để kêu gọi tài trợ, vận động và tổ chức mua vắc xin.
Tính đến ngày 22/10/2021, Bộ Y tế cấp phép sử dụng cho 8 loại vắc-xin phòng COVID-19, gồm: AstraZemca, Sputnik V, Vero Cell, Pfizer, Modema, Janssen, Hayat-Vax và Abdala. Ngoài ra còn có 03 vắc xin đã nộp hồ sơ và đang trong quá trình xem xét, phê duyệt, bao gồm: Covaxin (Ấn độ), Sputnik Light (Liên Bang Nga) và EpiVac Corona (Liên Bang Nga). Các loại vắc xin phòng COVID-19 Việt Nam đang nhập khẩu, nhận tài trợ đều đã được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cấp chứng nhận hoặc cơ quan quản lý dược của các nước trong danh sách SRA (Cơ quan quản lý dược chặt chẽ) phê duyệt sử dụng.
Tính đến ngày 05/11/2021, tổng số vắc xin đã có hợp đồng mua, cam kết viện trợ và tài trợ là 198,8 triệu liều, đã tiếp nhận 124,7 triệu liều vắc xin và phân bổ vắc xin theo địa bàn trọng điểm là những nơi đang có dịch bùng phát mạnh, nguy cơ bùng phát cao, nhiều khu công nghiệp, giao thông huyết mạch...
d. Về huy động nguồn kinh phí
Trước tình hình dịch bệnh COVID-19 trên thế giới có những diễn biến mới phức tạp; Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý và giao Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động cuộc vận động toàn dân ủng hộ phòng, chống dịch COVID-19. Theo đó, nguồn kinh phí ủng hộ công tác phòng chống dịch hiện nay do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam theo dõi, quản lý và thực hiện phân bổ theo Nghị định số 64/NĐ-CP21.
Đối với một số nguồn lực hỗ trợ là trang thiết bị, thuốc, vật tư y tế: Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Y tế tiếp nhận và phân bổ hỗ trợ các Bộ, các tỉnh, thành phố để chủ động sử dụng cho nhiệm vụ phòng, chống dịch COVID-19. Ngoài ra, Bộ Y tế đã nhận được nhiều khoản viện trợ không hoàn lại về vắc xin, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế cho công tác phòng chống dịch COVID-19 từ các cá nhân, tổ chức quốc tế và các nước22. Trong quá trình tiếp nhận, bảo quản, phân phối đều thực hiện theo quy trình chặt chẽ, tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng và kịp thời cho công tác phòng, chống dịch.
1.2. Về có biện pháp kịp thời, quyết liệt để sớm kiểm soát tình hình dịch COVID-19 trên cả nước
Kể từ khi có dịch, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, các bộ, ngành, địa phương và mọi người dân đã thực hiện quyết liệt, đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch và đã đạt được nhiều kết quả quan trọng; trong đó đã kiểm soát thành công 3 đợt dịch đầu tiên. Đợt dịch thứ 4 với biến chủng nhanh, nguy hiểm; với sự nỗ lực, đoàn kết và quyết tâm cao của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, triển khai nhiều chủ trương, biện pháp với tinh thần trách nhiệm cao, quyết liệt, nghiêm ngặt nên đã từng bước khống chế được dịch bệnh tại TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam, không để dịch bệnh lan rộng ra toàn quốc.
Các biện pháp phòng, chống dịch cho đến nay cơ bản là kịp thời, đúng hướng và hiệu quả. Nhiều biện pháp chuyên môn chưa có tiền lệ, lần đầu tiên được áp dụng để đáp ứng với diễn biến của dịch bệnh và biến chủng Delta. Bộ Y tế đã thành lập các Bộ phận thường trực đặc biệt tại địa phương để trực tiếp chỉ đạo, hướng dẫn, hỗ trợ phòng, chống dịch. Xây dựng và cập nhật các hướng dẫn chuyên môn kỹ thuật về truy vết, khoanh vùng, các phương án cách ly, các chiến lược xét nghiệm, đánh giá nguy cơ, phòng, chống dịch tại khu công nghiệp; chỉ đạo các địa phương chuẩn bị sẵn sàng các kịch bản, tình huống xấu và chủ động nâng cao năng lực phòng, chống dịch. Thời gian tới, các cấp, ngành, địa phương tiếp tục triển khai các biện pháp nghiêm ngặt, “thần tốc” hơn nữa trong phòng, chống dịch COVID-19, cụ thể:
(1) Công tác cách ly, truy vết cần được chú trọng triển khai đồng bộ, khẩn trương nhằm phát hiện sớm, ngăn ngừa lây lan dịch bệnh. Tiếp tục ứng dụng các biện pháp công nghệ; phát huy vai trò của Tổ COVID-19 cộng đồng, phối hợp giữa các lực lượng tiến hành truy vết nhanh, triệt để người tiếp xúc gần, người nhiễm bệnh, tổ chức cách ly nghiêm ngặt, kịp thời.
(2) Nâng cao năng lực công tác xét nghiệm, lấy mẫu, huy động sự tham gia của nhiều lực lượng (quân đội, công an, y tế, tình nguyện viên) và lực lượng từ các địa phương lân cận; tổ chức xét nghiệm lưu động. Kết hợp hiệu quả phương pháp xét nghiệm kháng nguyên nhanh, RT-PCR, hướng dẫn người dân tự lấy mẫu xét nghiệm; thực hiện việc gộp mẫu (gộp 5, gộp 10...) để tăng tốc độ xét nghiệm, giảm chi phí; chủ động tầm soát lấy mẫu xét nghiệm tại các khu vực nguy cơ cao, cơ sở y tế, khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh. Việc tổ chức xét nghiệm thần tốc để sớm phát hiện F0 nhằm cách ly nguồn lây làm giảm sự lây nhiễm; được cách ly, chăm sóc kịp thời từ đó làm giảm các trường hợp diễn biến nặng và tử vong.
(3) Chủ động các phương án, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để đưa vào vận hành ngay các cơ sở điều trị khi số mắc tăng cao; điều trị sớm để giảm bệnh tăng nặng và giảm tử vong. Tổ chức việc phân tầng điều trị theo mô hình tháp 3 tầng để tiếp nhận điều trị hiệu quả các trường hợp nhiễm COVID-19 theo các mức độ của bệnh.
(4) Đẩy nhanh Chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng COVID-19 toàn quốc, thực hiện tiêm mũi tăng cường và triển khai kế hoạch tiêm vắc xin cho trẻ em thận trọng, an toàn, khoa học. Hướng tới tỷ lệ vắc xin bao phủ dân số trên 18 tuổi đạt 100% trong quý 4/2021 và đầu năm 2022. Trong năm 2022, Bộ Y tế sẽ triển khai tiêm cho trẻ em tù 12 đến 17 tuổi theo lộ trình (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương với mục tiêu 100% trẻ trong độ tuổi này được tiêm đủ số mũi cơ bản; đảm bảo toàn bộ người dân sẽ được tiêm chủng tiếp cận bình đẳng vắc xin phòng COVID-19.
(5) Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền nâng cao nhận thức, tinh thần tự giác, chủ động, tích cực của các cơ quan, đơn vị, địa phương, doanh nghiệp và người dân trong thực hiện nghiêm các biện pháp phòng, chống dịch theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng, chống dịch COVID-19.
2. Đẩy nhanh tiến độ tiêm vaccine COVID-19, trong đó cần quản lý, công khai và minh bạch trong việc phân phối vaccine COVID-19, tạo sự bình đẳng trong việc tiếp cận vaccine COVID-19; sớm tiếp cận các nguồn vaccine COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng
2.1. Về việc đẩy nhanh tiến độ tiêm vaccine COVID-19
(1) Tổ chức triển khai chiến dịch tiêm chủng toàn quốc kịp thời, an toàn, khoa học, hiệu quả: Ngày 08/7/2( 21, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 3355/QĐ-BYT phê duyệt Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 năm 2021-2022. Đây là chiến dịch tiêm chủng vắc xin COVID-19 với quy mô lớn nhất trong lịch sử tiêm chủng tại Việt Nam, có sự phối hợp chặt chẽ của các Bộ: Y tế, Quốc phòng, Công an, Thông tin và Truyền thông, Giao thông Vận tải và Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh; kế hoạch tổ chức triển khai trên quan điểm thống nhất “Tiêm nhanh nhất, nhiều nhất, rộng nhất, đảm bảo an toàn, hiệu quả, công bằng và công khai”.
(2) Huy động lực lượng, chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết triển khai chiến dịch tiêm chủng toàn quốc: Bộ Y tế đã chỉ đạo toàn ngành rà soát tất cả các cán bộ, lực lượng y tế hiện đang làm việc từ tuyến y tế cấp xã trở lên, thống kê và tổ chức tập huấn cho chiến dịch tiêm chủng với quy mô lớn nhất trong lịch sử. Chỉ đạo các trường y, dược trên cả nước, rà soát tất cả sinh viên năm cuối tham gia vào công tác tiêm phòng cho người dân. Bộ Y tế cũng chỉ đạo thống kê các lực lượng y tế đã về hưu, nếu có đủ điều kiện sức khỏe, để tham gia tập huấn và triển khai chiến dịch này. Kết quả đã huy động được hàng vạn cán bộ y tế từ trung ương đến địa phương, gồm cả lực lượng dân y và quân y, cả công lập và tư nhân tham gia vào chiến dịch. Tổ chức, bố trí nhiều điểm tiêm (Trạm Y tế cấp xã, Bệnh viện, Bệnh xá, cơ sở y tế thuộc các Bộ, ngành, cơ sở tiêm chủng dịch vụ,..) và một số cơ sở tiêm khác (Trạm y tế lưu động, các trường học, nhà văn hóa ...).
- Bộ Y tế đã xây dựng các tài liệu và tổ chức tập huấn về việc triển khai công tác tiêm chủng, hướng dẫn khám sàng lọc, xử trí tai biến nặng sau tiêm chủng; đảm bảo an toàn tiêm chủng. Chỉ đạo các Bệnh viện trung ương, tỉnh, thành phố, Bệnh viện và Trung tâm y tế cấp huyện tổ chức các đội cấp cứu tại đơn vị và hỗ trợ cho các điểm tiêm chủng, đặc biệt là các xã ở các vùng đi lại khó khăn, ít nhất 01 đội cấp cứu lưu động tại mỗi cụm 3-4 điểm tiêm chủng. Trong thời gian triển khai tiêm chủng COVID-19, các bệnh viện đa khoa tỉnh, thành phố phải dự phòng một số giường bệnh hồi sức tích cực nhất định (để trống tối thiểu 5 giường/Bệnh viện) để sẵn sàng xử trí trường hợp phản ứng nặng sau tiêm chủng.
- Các điểm tiêm chủng chuẩn bị đầy đủ các trang thiết bị, dụng cụ, vật tư tiêu hao cho tiêm chủng, biểu mẫu tiêm chủng, phương tiện xử trí cấp cứu tại chỗ và phương án cụ thể để hỗ trợ cấp cứu trong trường hợp cần thiết. Bộ Y tế chỉ đạo các cơ sở y tế đảm bảo tiêm đến đâu an toàn đến đó, hướng dẫn các cơ sở tiêm chủng bố trí tiêm theo khung giờ, chia thành nhiều bàn, điểm tiêm chủng bảo đảm giãn cách phòng, chống dịch; sử dụng tối đa công nghệ thông tin trong tiêm chủng, bố trí cán bộ hỗ trợ sử dụng công nghệ thông tin trong việc triển khai tiêm chủng. Triển khai ứng dụng sổ sức khỏe điện tử để quản lý quá trình tiêm chủng của từng người dân.
(3) Tính đến ngày 04/11/2021, cả nước đã tiêm được 86,4 triệu liều; đã có trên 32,5 triệu người tiêm 1 liều vắc xin và trên 26,9 triệu người tiêm đủ 2 liều vắc xin. Tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin là 81,2% và tỷ lệ tiêm đủ 02 liều vắc xin là 37,34% dân số từ 18 tuổi trở lên; vào ngày cao điểm cả nước tiêm được trên 2 triệu liều vắc xin/ngày. Có 13 tỉnh, thành phố có tỷ lệ tiêm ít nhất 01 liều vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 95%; có 11 tỉnh, thành phố có tỷ lệ bao phủ đủ 02 mũi vắc xin cho dân số từ 18 tuổi trở lên đạt trên 50%. Riêng các tỉnh, thành phố khu vực phía Nam đã tiêm được 94,1% mũi 1 và 48,7% mũi 2 cho người từ 18 tuổi trở lên. Đối với trẻ em từ 12 - 17 tuổi, đã tiêm được hơn 900.000 liều vắc xin Pfizer tại 12 tỉnh/thành phố (TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Lạng Sơn, Lào Cai, Đồng Nai), theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương.
2.2. Về quản lý, công khai và minh bạch trong việc phân phối vắc xin phòng, chống COVID-19, tạo sự bình đẳng trong việc tiếp cận vaccine COVID-19
Việc phân bổ vắc xin được thực hiện theo: (1) Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 26/02/2021 của Chính phủ về mua và sử dụng vắc xin; (2) Quyết định số 3355/QĐ-BYT ngày 08/7/2021 của Bộ Y tế về Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 năm 2021-2022; (3) Dựa trên diễn biến tình hình dịch bệnh trên cả nước. Tiêu chí phân bổ vắc xin:
(1) Theo địa bàn tỉnh, thành phố, ưu tiên các tỉnh, thành phố đang có dịch; trong tỉnh, thành phố ưu tiên tiêm chủng trước cho các đối tượng ở vùng đang có dịch; các tỉnh, thành phố thuộc vùng kinh tế trọng điểm hoặc có thực hiện thí điểm các đề án phát triển kinh tế của Chính phủ; tỉnh, thành phố có nhiều khu công nghiệp, cụm công nghiệp, đông công nhân và dân cư; tỉnh, thành phố có biên giới, giao lưu đi lại lớn, có cửa khẩu quốc tế.
(2) Theo đối tượng tiêm chủng, toàn bộ người dân trong độ tuổi có chỉ định sử dụng vắc xin theo khuyến cáo của nhà sản xuất, trong đó ưu tiên cho lực lượng tuyến đầu phòng chống dịch và lực lượng tuyến đầu trong thúc đẩy, phát triển kinh tế như: Người làm việc trong các cơ sở y tế, ngành y tế (bao gồm y tế công lập và tư nhân); Người tham gia phòng chống dịch (Thành viên Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch các cấp, người làm việc ở các khu cách ly, làm nhiệm vụ truy vết, điều tra dịch tễ, tổ COVID dựa vào cộng đồng, tình nguyện viên, phóng viên...); lực lượng quân đội, công an; nhân viên, cán bộ ngoại giao của Việt Nam và thân nhân được cử đi nước ngoài; người làm việc trong các cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự, các tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam23; hải quan, cán bộ làm công tác xuất nhập cảnh; người cung cấp dịch vụ thiết yếu: hàng không, vận tải, du lịch; cung cấp dịch vụ điện, nước; giáo viên, người làm việc, học sinh, sinh viên tại các cơ sở giáo dục, đào tạo; lực lượng bác sỹ trẻ; người làm việc tại các cơ quan, đơn vị hành chính và các tổ chức hành nghề luật sư, công chứng, đấu giá... thường xuyên tiếp xúc với nhiều người; người mắc các bệnh mạn tính; người trên 50 tuổi; người sinh sống tại các vùng có dịch; người nghèo, các đối tượng chính sách xã hội; người được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cử đi công tác, học tập, lao động ở nước ngoài hoặc có nhu cầu xuất cảnh để công tác, học tập và lao động ở nước ngoài; chuyên gia nước ngoài làm việc tại Việt Nam; các đối tượng là người lao động và thân nhân người lao động đang làm việc tại các doanh nghiệp24 (bao gồm cả doanh nghiệp trong khu công nghiệp, khu chế xuất, doanh nghiệp kinh doanh vận tải, tín dụng, du lịch...), cơ sở kinh doanh dịch vụ thiết yếu như các cơ sở lưu trú, ăn uống, ngân hàng, chăm sóc sức khỏe, dược, vật tư y tế... cơ sở bán lẻ, bán buôn, chợ công trình xây dựng, người dân ở vùng, khu du lịch; Các chức sắc, chức việc các tôn giáo; người lao động tự do; các đối tượng khác theo Quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế hoặc Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và đề xuất của các đơn vị viện trợ vắc xin.
Trong đợt dịch thứ 4, Bộ Y tế đã ưu tiên phân bổ vắc xin cho một số địa phương có dịch bệnh diễn biến phức tạp như tại Bắc Ninh, Bắc Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Long An... để sớm kiểm soát dịch bệnh, giảm số mắc và tử vong do COVID-19. Quá trình phân bổ được đánh giá là công khai, minh bạch, công bằng, bình đẳng và hiệu quả.
2.3. Việc sớm tiếp cận các nguồn vaccine COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng
Thời gian tới, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Ngoại giao sẽ tiếp tục bám sát, đôn đốc các nhà sản xuất, cung ứng, nhất là đối với các hợp đồng đã được ký kết để đẩy nhanh tiến độ bàn giao vắc xin về Việt Nam nhanh nhất, sớm nhất; hỗ trợ tích cực công tác nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước để sớm chủ động nguồn vắc xin; thông qua đó tăng lượng vắc xin sẵn có, tạo điều kiện cho mọi người dân được tiêm chủng đầy đủ để kiểm soát tốt dịch bệnh. Tiếp tục trao đổi, đàm phán để tiếp cận các nguồn vaccine COVID-19 tiêm chủng cho người dưới 18 tuổi để bảo đảm sự miễn dịch trong cộng đồng.
3. Về việc đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu, thử nghiệm để sớm đưa vaccine do Việt Nam nghiên cứu vào sử dụng, nhằm chủ động nguồn vaccine phòng COVID-19
(1) Về nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Ban Chỉ đạo Quốc gia và Bộ Y tế luôn nhất quán quan điểm ủng hộ tối đa, tạo mọi điều kiện thuận lợi và thúc đẩy việc nghiên cứu, sản xuất vắc xin trong nước, nhưng đảm bảo tuân thủ các quy trình về chuyên môn, bám sát cơ sở khoa học. Đến nay, Việt Nam là một trong số ít nước trong khu vực đã chủ động nghiên cứu vắc xin; là một trong số ít nước có 3 vắc xin đang được thử nghiệm lâm sàng và là nước đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 325.
Bộ Y tế đã khẩn trương báo cáo Chính phủ, Quốc hội để hoàn thiện quy định pháp lý để cấp giấy đăng ký lưu hành có điều kiện cho vắc xin sản xuất trong nước đã có kết quả đánh giá giữa kỳ giai đoạn 3 dựa trên tính sinh miễn dịch; giảm thiểu tối đa thủ tục hành chính, để tạo điều kiện nhất cho doanh nghiệp rút ngắn thời gian cấp phép (Thường Vụ Quốc hội, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 30/2021/QH15 và Nghị quyết số 86/NQ-CP. Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 11/2021/TT-BYT Hướng dẫn đăng ký lưu hành vắc xin trong trường hợp khẩn cấp).
- Hỗ trợ doanh nghiệp trong nước xây dựng đề cương, đẩy nhanh tiến độ thử nghiệm lâm sàng và chuẩn bị hồ sơ cấp phép theo quy định.
- Hiện nay, Bộ Y tế đã triển khai tham vấn các tổ chức trong và ngoài nước, khẩn trương xây dựng hướng dẫn đánh giá kết quả giữa kỳ giai đoạn 3 về tính an toàn và hiệu quả của vắc xin phòng Covid-19 sản xuất trong nước để có căn cứ xem xét cấp phép lưu hành trong trường hợp cấp bách, dự kiến hoàn thành vào giữa tháng 11/2021. Theo báo cáo của cơ sở sản xuất vắc xin Nanocovac có thể sản xuất và cung ứng từ khoảng 10-15 triệu liều/tháng.
(2) Về chuyển giao công nghệ vắc xin COVID-19: Bộ Y tế đã thành lập Ban chỉ đạo nghiên cứu chuyển giao công nghệ và sản xuất vắc xin phòng COVID-19 và thúc đẩy hợp tác với một số quốc gia như Mỹ, Nga, Cuba, Trung Quốc trong chuyển giao công nghệ.26
4. Về quan tâm, chủ động đầu tư, xây dựng các bệnh viện các tuyến đảm bảo tiêu chuẩn điều trị bệnh nhân
(1) Trong những năm qua, Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho y tế, ngoài ngân sách nhà nước, một số bệnh viện tuyến tỉnh, huyện đã được đầu tư từ nguồn trái phiếu Chính phủ, ODA, nguồn chương trình mục tiêu đầu tư phát triển hệ thống y tế địa phương, chương trình mục tiêu y tế dân số và các nguồn vốn hợp pháp khác (xã hội hoá, hợp tác công tư,...). Năm 2014, Bộ Y tế đã tham mưu, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 125/QĐ-TTg ngày 16/01/2014 phê duyệt Đề án xây dựng mới 5 bệnh viện, viện tuyến trung ương, tuyến cuối tại thành phố Hồ Chí Minh nhằm góp phần giảm tải cho các bệnh viện tuyến trên. Đến nay, nhiều bệnh viện tuyến dưới được đầu tư, cải tạo, sửa chữa, xây dựng mới, bổ sung trang thiết bị y tế hiện đại và được chuyển giao các kỹ thuật chuyên môn từ các bệnh viện tuyến trên nên đã thực hiện được các kỹ thuật cao, góp phần giảm quá tải cho các bệnh viện tuyến trung ương, đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho người dân ngay trên địa bàn, người bệnh được thụ hưởng nhiều dịch vụ hơn27.
Thời gian tới, Bộ Y tế tiếp tục đề xuất Chính phủ, Quốc hội tăng bổ sung Kế hoạch đầu tư công trung hạn nguồn Ngân sách nhà nước giai đoạn 2021- 2025 để tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, cung cấp trang thiết bị y tế cho các cơ sở y tế tuyến dưới với tổng mức đầu tư là 76.114,25 tỷ đồng, trong đó: (1) Vốn Ngân sách Trung ương trong nước: 23.165,23 tỷ đồng; (2) Vốn nước ngoài (ODA): 13.476,3 tỷ đồng; (3) Vốn Ngân sách địa phương: 39.472,72 tỷ đồng.
(2) Ngoài các nguồn vốn trên, trong điều kiện ngân sách cho y tế còn hạn hẹp, Chính phủ đã cho phép các cơ sở y tế được liên doanh, liên kết, huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách để đầu tư các Bệnh viện đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh theo Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 15/12/2014 của Chính phủ. Hiện Bộ Y tế đang phối hợp với Bộ Tư pháp hoàn thiện, trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về vay vốn, huy động vốn, liên doanh, liên kết, thuê tài sản, thuê đơn vị cung ứng dịch vụ đối với đơn vị sự nghiệp công lập thuộc lĩnh vực y tế- dân số trình Chính phủ. Nghị định được ban hành sẽ là cơ sở pháp lý cho các Bệnh viện thu hút các nguồn lực xã hội để cải thiện cơ sở hạ tầng bệnh viện, nâng cao chất lượng dịch vụ chuyên môn.
Nhu cầu đầu tư cho các bệnh viện của các địa phương còn rất lớn, nên rất cần sự quan tâm của các cấp ủy đảng, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các địa phương trong việc tăng cường đầu tư cho y tế địa phương để nâng cao chất lượng khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế, tạo điều kiện cho người dân tiếp cận được với dịch vụ khám chữa bệnh chất lượng cao ngay tại địa phương, dần từng bước xóa bỏ tình trạng quá tải ở bệnh viện tuyến trên.
5. Về chú trọng bảo vệ sức khỏe cho đội ngũ y tế và các lực lượng tham gia phòng chống dịch, nhất là ở các tỉnh phía Nam hiện nay
Thời gian vừa qua, trước tình hình dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, khó lường, nguy cơ xuất hiện biến chủng mới lây lan nhanh hơn, nguy hiểm hơn, Bộ Y tế đã có những giải pháp huy động nguồn lực để đảm bảo kịp thời phòng, chống dịch. Để đảm bảo sức khỏe và an toàn cho đội ngũ y tế và các lực lượng tham gia phòng, chống dịch, Bộ Y tế đã triển khai các giải pháp: (1) Tổ chức tập huấn, hướng dẫn chuyên môn phòng chống dịch và các biện pháp bảo vệ phòng chống lây nhiễm COVID-19 cho các cán bộ sẵn sàng tham gia công tác phòng, chống dịch. (2) Có kế hoạch luôn phiên cử các cán bộ tham gia công tác phòng, chống dịch; (3) Cấp kinh phí hỗ trợ mua đồ bảo hộ cho các cá nhân tham gia phòng chống dịch theo đúng quy định. (4) Phối hợp với các Đơn vị, sẵn sàng cung cấp bữa ăn, suất ăn bảo đảm dinh dưỡng cho đội ngũ y tế và các lực lượng tham gia phòng, chống dịch.
6. Về các chế độ, chính sách đối với lực lượng tham gia phòng chống dịch
(1) Đối với người làm công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm và người tham gia chống dịch, chế độ, chính sách đã được quy định tại Điều số 59 Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm (Luật số 03/2007/QH12 ngày 21/11/2007), cụ thể như sau:
“1. Người làm công tác phòng, chống bệnh truyền nhiễm được hưởng các chế độ phụ cấp nghề nghiệp và các chế độ ưu đãi khác.
2. Người tham gia chống dịch được hưởng chế độ phụ cấp chống dịch và được hưởng chế độ rủi ro nghề nghiệp khi bị lây nhiễm bệnh.
3. Trong quá trình chống dịch, khi người tham gia chống dịch dũng cảm cứu người mà bị chết hoặc bị thương thì được xem xét để công nhận là liệt sỹ hoặc thương binh, hưởng chính sách như thương binh theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng”
(2) Ngày 28/12/2011, Bộ Y tế đã trình Chính phủ ban hành Quyết định số 73/2011/QĐ-TTg quy định một số chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong các cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch. Khi dịch COVID-19 xảy ra, để nâng cao chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức, viên chức tham gia chống dịch, Bộ Y tế đã tham mưu với Chính phủ ban hành các Nghị quyết:
- Nghị quyết số 37/NQ-CP ngày 29/3/2020 về một số chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19;
- Nghị quyết số 16/NQ-CP ngày 08/02/2021 về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh, và một số chế độ đặc thu trong phòng, chống dịch COVID-19;
- Nghị quyết số 86/NQ-CP ngày 06/8/2021 về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28/7/2021 của Quốc hội khóa XV;
(3) Ngày 04/9/2021, Bộ Y tế đã có Tờ trình số 1311/TTr-BYT trình Thủ tướng Chính phủ cho chủ trương nhất trí xem xét, xác nhận liệt sĩ và cấp Bằng “Tổ quốc ghi công” đối với cán bộ, viên chức ngành Y tế (bao gồm cả học sinh, sinh viên của các cơ sở giáo dục đào tạo khối ngành sức khỏe) đã dũng cảm hy sinh trong khi trực tiếp tham gia các hoạt động phòng, chống dịch bệnh COVID-19 tại các cơ sở thu dung, chăm sóc, điều trị người bệnh COVID-19 và tại cộng đồng theo đề nghị của các bộ, ngành, địa phương. Hiện nay, Bộ Y tế đang dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về một số cơ chế, chính sách, giải pháp trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19.
Ngoài ra, để hỗ trợ cho các bác sỹ, nhân viên y tế tuyến đầu phòng, chống dịch COVID-19 không may bị nhiễm bệnh, tử vong, ngày 13/8/2020 Bộ Y tế và Công ty TNHH Bảo hiểm nhân thọ AIA tại Việt Nam đã ký bản thỏa thuận tài trợ hỗ trợ tài chính với tổng giá trị là 23 tỷ đồng, cụ thể hỗ trợ một lần 10 triệu đồng đối với mỗi nhân viên y tế được chẩn đoán dương tính với SARS-CoV-2 và 100 triệu đồng đối với mỗi nhân viên y tế bị tử vong do nhiễm SARS-CoV-2./.
1 Tính đến ngày 04/11/2021, cả nước đã tiêm được 86,4 triệu liều; đã có trên 32,5 triệu người tiêm 1 liều vắc xin và trên 26,9 triệu người tiêm đủ 2 liều vắc xin. Đối với trẻ em từ 12 - 17 tuổi, đã tiêm được hơn 900.000 liều vắc xin Pfizer tại 12 tỉnh/thành phố (TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Lạng Sơn, Lào Cai, Đồng Nai), theo lộ trình từ lứa tuổi cao đến thấp (tiêm trước cho lứa tuổi từ 16 - 17 tuổi và hạ dần độ tuổi) theo tiến độ cung ứng vắc xin và tình hình dịch tại địa phương.
2 Quyết định số 878/QĐ-BYT ngày 12/3/2020 hướng dẫn cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung phòng, chống dịch COVID-19; Quyết định số 879/QĐ-BYT ngày 12/3/2020 hướng dẫn cách ly y tế tại nhà, nơi lưu trú phòng, chống dịch COVID-19; Quyết định số 904/QĐ-BYT ngày 16/3/2020 ban hành “Sổ tay hướng dẫn tổ chức thực hiện cách ly y tế vùng có dịch COVID-19; Quyết định số 1246/QĐ-BYT ngày 20/3/2020 hướng dẫn tạm thời cách ly y tế tập trung tại khách sạn trong phòng, chống dịch COVID-19 do người được cách ly tự nguyện chi trả.
3 Bộ Y tế đã hướng dẫn tỉnh Bắc Giang nhanh chóng phong tỏa ngay các khu dân cư tập trung đông công nhân có nguy cơ cao. Đồng thời tăng cường giám sát chặt chẽ tại các khu cách ly tập trung với sự tham gia của các lực lượng quân đội, công an, y tế và lắp đặt camera giám sát. Thực hiện cách ly nghiêm ngặt để kiểm soát chặt chẽ nguồn lây. Bên cạnh đó, tổ chức kéo dãn, rút giảm mật độ công nhân, dân cư tại những “điểm nóng” có mật độ cao để làm giảm nguy cơ lây lan trong ổ dịch (đây cũng là bài học kinh nghiệm được áp dụng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương...).
4 Hệ thống giám sát đã kết nối 1.076 điểm cách ly với 12.992 camera tại 62 tỉnh/thành phố.
5 Quyết định số 3088/QĐ-BYT ngày 16/7/2020 và Quyết định số 4999/QĐ-BYT ngày 01/12/2020
6 Quyết định số 4111/QĐ-BYT ngày 26/8/2021, công văn số 3775/BYT-KCB tăng cường phòng chống COVID-19 trong cơ sở khám chữa bệnh, công văn 5741/BYT-KCB củng cố hệ thống cơ sở khám chữa bệnh bảo đảm công tác cấp cứu, điều trị người bệnh COVID-19.
7 Công văn số 8151/BYT-TTrB ngày 28/8/2021 vì phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19; công văn số 7952/BYT-TTrB ngày 23/9/2021 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kịp thời chấn chỉnh và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về phòng, chống dịch COVID-19; Công văn số 307/TTrB-P1 ngày 27/4/2021 và 604/TTrB-P1 ngày 13/7/2021 về đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra về phòng, chống dịch COVID-19; Công văn số 746/TTrB-P1 ngày 24/8/2021 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong phòng chống dịch và tiêm vắc xin phòng COVID-19; Công văn số 778/TTrB-P3 ngày 01/9/2021 về tăng cường thanh tra, kiểm tra việc kinh doanh thuốc được quảng cáo phòng, điều trị COVID-19 không đúng quy định.
8 Hà Nội, Hải Dương, Thái Nguyên, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Phú Thọ, Lào Cai, Bà Rịa Vũng Tàu, Bình Phước, Tây Ninh, Thừa Thiên Huế; kiểm tra công tác tiếp nhận, bảo quản, tiêm vắc xin COVID-19 của: Bệnh viện E, Bệnh viện Phổi TW, Bệnh viện Nhi TW, Bệnh viện Hữu Nghị, BV Đại học Y Hà Nội, Viện Y học dự phòng - Đại học Y Hà Nội, Viện Vệ sinh dịch tễ TW, Bệnh viện Bạch Mai, Viện Kiểm định quốc gia vắc xin và sinh phẩm y tế, Bệnh viện Nội tiết TW, Bệnh viện Lão khoa TW.
9 Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng TW, Bệnh viện Nhi TW, Bệnh viện K, Bệnh viện Phổi TW.
10 Từ tháng 8-10/2021, kiểm tra tại 143 cơ sở trên địa bàn 13 tỉnh, thành phố trên cả nước gồm: Các cơ sở y tế công lập, tư nhân làm dịch vụ xét nghiệm, doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh thuốc, dược liệu, trang thiết bị y tế.
11 Công ty TNHH sản xuất thương mại và dịch vụ Gold Pharma, Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Newera Global.
12 Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Newera Global
13 Sản phẩm khẩu trang y tế và găng tay y tế của Công ty cổ phần vật tư y tế Khang Nguyên có địa chỉ trụ sở chính tại số 137, đường Nguyễn Du, phường Đông Kinh, TP. Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn.
14 Vắc xin Nanocovax của Công ty cổ phần Công nghệ sinh học Dược Nanogen đã nghiệm thu kết quả thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1 vào tháng 8/2021; hoàn thành việc tiêm vắc xin cả 2 liều của giai đoạn 2 và giai đoạn 3, đang tiếp tục thu thập dữ liệu đánh giá tính an toàn, tính sinh miễn dịch và hiệu quả bảo vệ của vắc xin theo đề cương nghiên cứu đảm bảo an toàn, hiệu quả.
- Vắc xin Covivac của Viện vắc xin và sinh phẩm Nha Trang đã đánh giá kết quả giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1, hoàn thành tiêm liều 1, liều 2 (vào tháng 9/2021) của thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 2. Sau khi có kết quả đánh giá tính an toàn và tính sinh miễn dịch ở giai đoạn 2 để xác định được liều tối ưu dự kiến tháng 12/2021 sẽ bắt đầu triển khai thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3.
15 Vắc xin ARCT-154 của Công ty Acturus - Hoa Kỳ được Tập đoàn VinGroup đàm phán để chuyển giao công nghệ về Việt Nam, đã hoàn thành tiêm mũi 1 của thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1. Dự kiến đến tháng 12/2021 sẽ có kết quả đánh giá giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 để phục vụ xem xét cấp giấy đăng ký lưu hành trong trường hợp cấp bách.
- Công ty TNHH MTV vắc xin và sinh phẩm số 1 (VABIOTECH) và Công ty DS-Bio đã ký thỏa thuận với Quỹ đầu tư trực tiếp của Liên bang Nga về việc đóng ống vắc xin Sputnik-V từ bán thành phẩm. VABIOTECH đã tiến hành đóng ống và gửi mẫu sang Liên bang Nga để kiểm định chất lượng, kết quả phía Nga trả lời đã đạt các tiêu chuẩn chất lượng theo yêu cầu.
- Công ty Cổ phần tiến bộ quốc tế (AIC) và VABIOTECH đã ký thỏa thuận bảo mật thông tin với Công ty Shionogi -Nhật Bản để tiếp cận hồ sơ chuẩn bị triển khai thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 tại Việt Nam và chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin Recombinant SAR-CoV-2 Spike Protein.
- Bộ Y tế đã ký thỏa thuận bảo mật thông tin với đối tác Cu Ba và giao Công ty TNHH MTV vắc xin Pasteur Đà Lạt thảo luận với đối tác Cu Ba về các điều khoản trong dự thảo Hợp đồng chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin Abdala và lập kế hoạch làm việc với đoàn chuyên gia của Cu Ba sang khảo sát tại Việt Nam.
- Bộ Y tế cũng đang hỗ trợ các đơn vị đàm phán nhận chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin COVID-19 từ các đối tác của các quốc gia khác (Ấn Độ, Tây Ban Nha...).
16 TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương, Kiên Giang, Vĩnh Long, Sóc Trăng, Cà Mau, Đà Nẵng, Quảng Ninh, Ninh Bình, Lạng Sơn, Lào Cai, Đồng Nai.
17 Bộ Y tế đã cấp phép nhập khẩu Remdesivir 2.204.830 lọ (đã nhập khẩu 2.178.336 lọ); Favipiravir 2.000.000 viên (đã nhập khẩu 2.000.000 viên); Molnupiravir 9.508.000 viên cho mục đích thử lâm sàng (đã bàn giao 8.948.000 viên để thử nghiệm); Kháng thể đơn dòng: 109.000 hộp thuốc Tolicizumab; 16.500 hộp thuốc Casirivimab and Imdevimab; 18.100 bơm tiêm thuốc Levilimab; cấp 78 đơn hàng nguyên liệu Molnupiravir cho 34 công ty, 55 đơn hàng nguyên liệu Favipiravir cho 26 công ty để phục vụ nhu cầu nghiên cứu sản xuất thuốc.
18 Trong giai đoạn dịch COVID-19 vừa qua, đã có nhiều doanh nghiệp nghiên cứu, phát triển và sản xuất máy thở, kit xét nghiệm SARS-CoV-2, khẩu trang, trang phục phòng chống dịch, găng tay trong thời gian ngắn đáp ứng tốt với yêu cầu cấp bách phòng chống dịch của Việt Nam. Đến nay đã có 07 doanh nghiệp sản xuất được cấp số lưu hành cho 14 test xét nghiệm SARS-CoV-2 cho cả 3 loại xét nghiệm với khả năng cung ứng: Xét nghiệm Vật liệu di truyền (PCR, LAMP): 05 công ty sản xuất 07 test với tổng khả năng cung ứng 33 triệu test/ tháng; Xét nghiệm kháng nguyên: 02 công ty sản xuất 03 test với tổng khả năng cung ứng là 33 triệu test/ tháng; Xét nghiệm kháng thể: 02 công ty sản xuất 04 test với tổng khả năng cung ứng là 33 triệu test/ tháng.
19 Tính đến hết ngày 31/10/2021, Bộ Y tế đã cấp 131 sản phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 trong đó có 43 test PCR, 60 test xét nghiệm kháng nguyên (50 test nhanh và 07 test dùng cùng máy), 28 test kháng thể (4 test nhanh và 24 test dùng cùng máy) với khả năng cung cứng: test xét nghiệm (PCR, LAMP): 80 triệu test/tháng, xét nghiệm kháng nguyên: 500 triệu test/tháng, xét nghiệm kháng kháng thể: >8 triệu test/tháng.
20 Bộ Y tế đã cấp phép nhập khẩu Remdesivir 2.204.830 lọ (đã nhập khẩu 2.178.336 lọ); Favipiravir 2.000.000 viên (đã nhập khẩu 2.000.000 viên); Molnupiravir 9.508.000 viên cho mục đích thử lâm sàng (đã bàn giao 8.948.000 viên để thử nghiệm); Kháng thể đơn dòng: 109.000 hộp thuốc Tolicizumab; 16.500 hộp thuốc Casirivimab and Imdevimab; 18.100 bơm tiêm thuốc Levilimab; cấp 78 đơn hàng nguyên liệu Molnupiravir cho 34 công ty, 55 đơn hàng nguyên liệu Favipiravir cho 26 công ty để phục vụ nhu cầu nghiên cứu sản xuất thuốc.
21 Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Trung ương và các tỉnh, thành phố đã vận động được 21.248 tỷ đồng, riêng Quỹ vắc xin đã vận động được 8.794,9 tỷ đồng; thực hiện phân bổ 18.003,9 tỷ đồng (tương đương 84,7% tổng nguồn lực tiếp nhận).
22 Các nước, tổ chức quốc tế, cộng đồng doanh nghiệp, các đơn vị, cá nhân trong và ngoài nước đã có đóng góp lớn bằng tiền và hiện vật cho công tác phòng, chống dịch như: 1.774 máy thở chức năng cao; 3.700 máy thở sản xuất trong nước, 2.150 hệ thống ô xy dòng cao (HFNC); hơn 30 triệu sinh phẩm kháng nguyên nhanh và RT- PCR; hơn 200 triệu bơm kim tiêm; 15 triệu viên thuốc và hàng nghìn túi thuốc F0; 146 xe ô tô xét nghiệm, tiêm chủng lưu động; hỗ trợ việc thiết lập và vận hành các bệnh viện dã chiến và hỗ trợ cho nhiều hoạt động phòng, chống dịch khác tại các địa phương...
23 Thông báo số 47/TB-VPCP ngày 17/3/2021 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp về việc bổ sung đối tượng tiêm miễn phí vắc xin phòng COVID-19.
24 Thông báo số 137/TB-VPCP ngày 30/5/2020 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của Thủ tướng Chính phủ tại cuộc họp trực tuyến toàn quốc về công tác phòng, chống dịch COVID-19.
25 Vắc xin Nanocovax của Công ty cổ phần Công nghệ sinh học Dược Nanogen đang tiếp tục thu thập dữ liệu đánh giá tính an toàn, tính sinh miễn dịch và hiệu quả bảo vệ của vắc xin theo đề cương nghiên cứu đảm bảo an toàn, hiệu quả.
- Vắc xin Covivax của Viện Vắc xin và sinh phẩm Nha Trang dự kiến cuối năm 2021 sẽ bắt đầu triển khai thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3.
26 Vắc xin ARCT-154 của Công ty Acturus- Hoa Kỳ được Tập đoàn VinGroup đàm phán để chuyển giao công nghệ về Việt Nam, đã hoàn thành tiêm mũi 1 của thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 1. Dự kiến cuối năm 2021 sẽ có kết quả đánh giá giữa kỳ thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 để phục vụ xem xét cấp giấy đăng ký lưu hành trong trường hợp cấp bách.
- Công ty TNHH MTV vắc xin và sinh phẩm số 1 (VABIOTECH) và Công ty DS-Bio đã ký thỏa thuận với Quỹ đầu tư trực tiếp của Liên bang Nga về việc đóng ống vắc xin Sputnik-V từ bán thành phẩm. VABIOTECH đã tiến hành đóng ống và gửi mẫu sang Liên bang Nga để kiểm định chất lượng, kết quả phía Nga trả lời đã đạt các tiêu chuẩn chất lượng theo yêu cầu.
- Công ty Cổ phần tiến bộ quốc tế (AIC) và VABIOTECH đã ký thỏa thuận bảo mật thông tin với Công ty Shionogi -Nhật Bản để tiếp cận hồ sơ chuẩn bị triển khai thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 tại Việt Nam và chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin Recombinant SAR-CoV-2 Spike Protein.
- Bộ Y tế đã ký thỏa thuận bảo mật thông tin với đối tác Cu Ba và giao Công ty TNHH MTV vắc xin Pasteur Đà Lạt thảo luận với đối tác Cu Ba về các điều khoản trong dự thảo Hợp đồng chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin Abdala và lập kế hoạch làm việc với đoàn chuyên gia của Cu Ba sang khảo sát tại Việt Nam.
- Bộ Y tế cũng đang hỗ trợ các đơn vị đàm phán nhận chuyển giao công nghệ sản xuất vắc xin COVID-19 từ các đối tác của các quốc gia khác (Ấn Độ, Tây Ban Nha...).
27 Bộ Y tế chỉ đạo đầu tư cho một số bệnh viện đa khoa tỉnh phát triển, nâng cấp thành bệnh viện vùng, cụ thể: Bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ, tỉnh Nghệ An để được công nhận là bệnh viện tuyến cuối và tiếp tục đầu tư để trở thành bệnh viện vùng. Tiếp tục đầu tư các bệnh viện vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, giao cho các bệnh viện đầu ngành chịu trách nhiệm nâng cao năng lực.
- 1Công điện 286/CĐ-BYT năm 2022 về đảm bảo cung cấp trang thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 do Bộ Y tế điện
- 2Quyết định 796/QĐ-BYT năm 2022 sửa đổi Điều 1 Quyết định 3122/QĐ-BYT phê duyệt có điều kiện vắc xin cho nhu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 3Công văn 1882/BYT-KHTC năm 2022 về tăng cường quản lý nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
- 1Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm 2007
- 2Nghị định 64/2008/NĐ-CP về việc vận động, tiếp nhận, phân phối và sử dụng các nguồn đóng góp tự nguyện hỗ trợ nhân dân khắc phục khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, sự cố nghiêm trọng, các bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo
- 3Luật bảo hiểm y tế 2008
- 4Quyết định 75/2009/QĐ-TTg quy định chế độ phụ cấp đối với nhân viên y tế thôn, bản do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5Quyết định 73/2011/QĐ-TTg Quy định chế độ phụ cấp đặc thù đối với công chức, viên chức, người lao động trong cơ sở y tế công lập và chế độ phụ cấp chống dịch do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Quyết định 122/QĐ-TTg năm 2013 phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2011 - 2020, tầm nhìn đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 7Quyết định 125/QĐ-TTg năm 2014 phê duyệt Đề án Đầu tư xây dựng mới 05 bệnh viện, viện tuyến trung ương và tuyến cuối đặt tại Thành phố Hồ Chí Minh do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 8Nghị định 117/2014/NĐ-CP về Y tế xã, phường, thị trấn
- 9Nghị quyết 93/NQ-CP năm 2014 về một số cơ chế, chính sách phát triển y tế do Chính phủ ban hành
- 10Quyết định 59/2015/QĐ-TTg về chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016-2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 11Thông tư 37/2016/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm Y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 12Nghị định 146/2018/NĐ-CP hướng dẫn Luật bảo hiểm y tế
- 13Nghị quyết 19-NQ/TW năm 2017 về tiếp tục đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 14Nghị quyết 20/NQ-TW năm 2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
- 15Nghị định 34/2019/NĐ-CP sửa đổi quy định về cán bộ, công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, ở thôn, tổ dân phố
- 16Quyết định 219/QĐ-BYT năm 2020 bổ sung bệnh viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (nCov) gây ra vào danh mục bệnh truyền nhiễm nhóm A theo quy định tại Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007 do Bộ Y tế ban hành
- 17Quyết định 879/QĐ-BYT năm 2020 về "Hướng dẫn cách ly y tế tại nhà, nơi lưu trú phòng chống dịch COVID-19" do Bộ Y tế ban hành
- 18Quyết định 878/QĐ-BYT năm 2020 về "Hướng dẫn cách ly y tế tại cơ sở cách ly tập trung phòng chống dịch COVID-19" do Bộ Y tế ban hành
- 19Quyết định 904/QĐ-BYT năm 2020 về "Sổ tay Hướng dẫn tổ chức thực hiện cách ly y tế vùng có dịch COVID-19" do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 20Quyết định 1246/QĐ-BYT năm 2020 về "Hướng dẫn tạm thời cách ly y tế tập trung tại khách sạn trong phòng, chống dịch COVID-19 do người được cách ly tự nguyện chi trả" do Bộ Y tế ban hành
- 21Chỉ thị 14/CT-TTg năm 2020 về chính sách hỗ trợ xã An toàn khu, vùng An toàn khu cách mạng trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 22Nghị quyết 37/NQ-CP năm 2020 về chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 23Quyết định 3088/QĐ-BYT năm 2020 về Bộ Tiêu chí Bệnh viện an toàn phòng chống dịch COVID-19 và các dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 24Quyết định 4999/QĐ-BYT năm 2020 về Bộ Tiêu chí Phòng khám an toàn phòng chống dịch COVID-19 và dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 25Nghị quyết 16/NQ-CP năm 2021 về chi phí cách ly y tế, khám, chữa bệnh và chế độ đặc thù trong phòng, chống dịch COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 26Nghị quyết 21/NQ-CP năm 2021 về mua và sử dụng vắc xin phòng COVID-19 do Chính phủ ban hành
- 27Công văn 3775/BYT-KCB năm 2021 về tăng cường phòng, chống dịch COVID-19 trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh do Bộ Y tế ban hành
- 28Thông tư 07/2021/TT-BYT hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Trung tâm y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc Trung ương do Bộ Y tế ban hành
- 29Thông báo 137/TB-VPCP năm 2021 về kết luận của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại cuộc họp trực tuyến toàn quốc về công tác phòng, chống dịch Covid-19 do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 30Quyết định 861/QĐ-TTg năm 2021 phê duyệt danh sách các xã khu vực III, khu vực II, khu vực I thuộc vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 31Quyết định 3355/QĐ-BYT năm 2021 về Kế hoạch triển khai chiến dịch tiêm vắc xin phòng COVID-19 năm 2021-2022 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 32Công văn 604/TTrB-P1 năm 2021 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong phòng chống dịch COVID-19 do Thanh tra Bộ Y tế ban hành
- 33Công văn 5741/BYT-KCB năm 2021 củng cố hệ thống cơ sở khám, chữa bệnh để bảo đảm công tác cấp cứu, điều trị người bệnh COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
- 34Nghị quyết 30/2021/QH15 về kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV
- 35Nghị quyết 86/NQ-CP năm 2021 về các giải pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để thực hiện Nghị quyết 30/2021/QH15 do Chính phủ ban hành
- 36Thông tư 11/2021/TT-BYT hướng dẫn đăng ký lưu hành vắc xin phòng Covid-19 trong trường hợp cấp bách do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 37Công văn 746/TTrB-P1 năm 2021 về tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong phòng chống dịch và tiêm vắc xin phòng Covid-19 do Thanh tra Bộ Y tế ban hành
- 38Quyết định 4111/QĐ-BYT năm 2021 về tài liệu Hướng dẫn thiết lập cơ sở thu dung, điều trị COVID-19 theo mô hình tháp 3 tầng do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 39Nghị quyết 01/2021/UBTVQH15 quy định về nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ dự toán chi thường xuyên ngân sách nhà nước năm 2022 do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành
- 40Công văn 7952/BYT-TTrB năm 2021 về tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm về phòng, chống dịch COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
- 41Công văn 8151/BYT-TTrB năm 2021 về phòng chống tham nhũng, tiêu cực, lợi ích nhóm trong thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
- 42Nghị quyết 128/NQ-CP năm 2021 quy định tạm thời "Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19" do Chính phủ ban hành
- 43Quyết định 4800/QĐ-BYT năm 2021 hướng dẫn tạm thời về chuyên môn y tế thực hiện Nghị quyết 128/NQ-CP quy định tạm thời Thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch COVID-19 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 44Công điện 286/CĐ-BYT năm 2022 về đảm bảo cung cấp trang thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch COVID-19 do Bộ Y tế điện
- 45Quyết định 796/QĐ-BYT năm 2022 sửa đổi Điều 1 Quyết định 3122/QĐ-BYT phê duyệt có điều kiện vắc xin cho nhu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
- 46Công văn 1882/BYT-KHTC năm 2022 về tăng cường quản lý nguồn lực phục vụ công tác phòng, chống COVID-19 do Bộ Y tế ban hành
Công văn 9157/BYT-VPB1 năm 2021 về công tác y tế phòng chống Covid-19 do Bộ Y tế ban hành
- Số hiệu: 9157/BYT-VPB1
- Loại văn bản: Công văn
- Ngày ban hành: 27/10/2021
- Nơi ban hành: Bộ Y tế
- Người ký: Nguyễn Thanh Long
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 27/10/2021
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực