BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 14/GD-ĐT | Hà Nội, ngày 03 tháng 8 năm 1996 |
CHỈ THỊ
VỀ NHIỆM VỤ NĂM HỌC 1996-1997 CỦA CÁC NGÀNH HỌC, BẬC HỌC: GIÁO DỤC MẦN NON, GIÁO DỤC PHỔ THÔNG, GIÁO DỤC CHUYÊN NGHIỆP, GIÁO DỤC THƯỜNG XUYÊN.
Năm học 1995-1996, năm thứ ba thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) về "tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo", đã hoàn thành thắng lợi.
Cùng với sự ổn định về chính trị xã hội và tăng trưởng kinh tế, sự nghiệp giáo dục và đào tạo có bước phát triển mới. Tốc độ phổ cập giáo dục và xoá mù chữ tăng nhanh hơn nhiều so với những năm học trước. Quy mô giáo dục ở các cấp học, bậc học, ngành học mở rộng rõ rệt, đặc biệt số học sinh THCS tăng nhanh ở tất cả các địa phương. Chất lượng giáo dục có chuyển biến đáng khích lệ; tỷ lệ lưu ban, bỏ học giảm; hiệu quả đào tạo ở các cấp học, bậc học tăng. Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học được cải thiện; các tỉnh và nhiều huyện miền núi có trường nội trú cho con em người dân tộc. Các cấp lãnh đạo Đảng, Chính quyền ngày càng quan tâm hơn, các đoàn thể và nhân dân ngày càng tham gia tích cực vào việc phát triển giáo dục, góp phần huy động các lực lượng xã hội đóng góp nguồn lực cho giáo dục.
Tuy nhiên, trong công tác giáo dục và đào tạo vẫn tồn tại nhiều yếu kém, nhiều vấn đề bức xúc liên quan đến chất lượng giáo dục đạo đức trong nhà trường; các hiện tượng tiêu cực trong dạy thêm, thi và cấp văn bằng; sự phân hoá về điều kiện học trong các tầng lớp nhân dân v.v...
Năm học 1996 - 1997, năm học đầu tiên thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, là năm học tiếp tục đổi mới theo phương hướng được xác định qua các Đại hội VI, Đại hội VII, Đại hội VIII, và Hội nghị Trung ương 4 (Khoá VII) là năm học đầu tiên triển khai thực hiện Nghị quyết TW2 (Khoá VII) về giáo dục - đào tạo, sẽ tiến hành sắp tới. "Phướng hướng chung của lĩnh vực giáo dục, đào tạo trong 5 năm tới là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên, có việc làm; khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo" (Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VII tại Hội nghị VIII của Đảng). Phương hướng đó đã được cụ thể hoá trong chương trình 7 - Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo trong Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 1996 - 2000.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII, xuất phát từ hiện trạng thành công và yếu kém của sự nghiệp GD-ĐT sau 10 năm đổi mới, nhất là trong năm học 1995 - 1996 vừa qua, nhiệm vụ chung và cụ thể của giáo dục năm học 1996 - 1997 là:
I. NHIỆM VỤ CHUNG:
Năm học 1996 - 1997 là năm học rất quan trọng, nhiệm vụ của ngành ta là huy động lực lượng toàn ngành, phát huy trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, các cấp Chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp, khơi dậy trong nhân dân tinh thần hiếu học và ý chí tiến thủ, vượt qua khó khăn và thách thức, phấn đấu đạt và vượt mục tiêu được đề ra cho các bậc học trong năm học: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả đi đôi với khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo, cải thiện điều kiện đi học của con em các gia đình chính sách, gia đình nghèo, nâng cao năng lực của hệ thống quản lý giáo dục, tạo tiền đề cho việc hoàn thành thắng lợi các mục tiêu của chương trình phát triển giáo dục và đào tạo ở những năm tiếp theo.
Việc thực hiện nhiệm vụ chung nêu trên đòi hỏi phải thấu suốt các tư tưởng chỉ đạo dưới đây:
1. Thực hiện đồng thời ba mục tiêu về giáo dục: nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Xây dựng các phương thức thích hợp và có hiệu quả cho việc thực hiện từng mục trên. Tạo chuyển biến rõ rệt trong việc đào tạo bồi dưỡng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. Kết hợp đồng bộ việc phát triển sự nghiệp giáo dục với việc tập trung giải quyết những tiêu cực nhằm tạo được chuyển biến rõ nét về trật tự kỷ cương trong hoạt động giáo dục. Củng cố, triển khai và tiếp tục đề xuất các giải pháp hữu hiệu nhằm giải quyết tốt hơn vấn đề công bằng xã hội trong giáo dục.
3. Huy động nguồn lực kết hợp với sử dụng nguồn lực một cách tiết kiệm, hợp lý và hiệu quả để phát triển sự nghiệp giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hoá giáo dục, động viên các lực lượng kinh tế và xã hội đóng góp cho giáo dục tham gia xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, phát động thành phong trào người người học tập, người người tham gia xây dựng sự nghiệp giáo dục.
4. Tiếp tục đẩy mạnh đa dạng hoá và dân chủ hoá giáo dục, đi đôi với việc ngăn chặn những ảnh hưởng tiêu cực gây ra bởi mặt trái của cơ chế thị trường. Tiến tới xây dựng một chuẩn kiến thức và một chuẩn đánh giá thống nhất cho mọi loại hình giáo dục. Có chính sách giúp đỡ hướng dẫn phát triển và quản lý tốt các trường, lớp bán công, dân lập, tư thục. Tiếp tục thúc đẩy cuộc vận động "Kỷ cương, tình thương, trách nhiệm".
5. Xây dựng phương pháp kế hoạch hoá giáo dục theo dự báo, kết hợp mở rộng quy mô với bảo đảm cơ cấu hợp lý: cơ cấu giữa các bậc học phù hợp với yêu cầu nâng cao mặt bằng dân trí; cơ cấu giữa các ngành học nhằm đáp ứng nhu cầu về nhân lực theo các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, theo các địa chỉ và hợp đồng đào tạo; cơ cấu giữa các vùng nhằm vừa phát huy được lợi thế, hạn chế sự yếu kém của từng vùng, vừa tránh chênh lệch quá xa về nhịp độ phát triển giáo dục giữa các vùng. Tích cực xây dựng hệ thống trường chất lượng cao các bậc học.
6. Đổi mới mạnh mẽ công tác quản lý giáo dục - đào tạo. Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm quản lý Nhà nước công tác giáo dục và đào tạo trong toàn quốc. UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW chịu trách nhiệm trực tiếp về sự nghiệp giáo dục và đào tạo tại địa phương mình.
Đẩy mạnh công tác thanh tra chuyên môn và thanh tra quản lý. Xây dựng nền nếp quản lý ngành từ Bộ đến từng trường theo Nghị quyết 38/CP ngày 4/5/1994 của Chính phủ về cải cách một bước thủ tục hành chính.
Cải cánh chế độ thi và cấp phát văn bằng nhằm đảm bảo công bằng, khách quan, chính xác, khắc phục các phiền hà và tiêu cực.
7. Trên cơ sở tổng kết 10 năm đổi mới giáo dục và đào tạo, đúc rút các bài học kinh nghiệm để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo; khẩn trương đào tạo đội ngũ giáo viên đủ về số lượng và đạt chuẩn về chất lượng; đẩy nhanh tốc độ xây dựng trường lớp, sớm xoá tình trạng học ca 3, tiêu chuẩn hoá trường học; tăng cường cơ sở vật chất, trang bị sách giáo khoa, bảo đảm kịp thời và đủ sách cho các vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Chăm lo cải thiện môi trường sư phạm trong nhà trường, đẩy mạnh trồng cây bảo đảm nhà trường sạch đẹp, chăm lo nước uống cho học sinh, củng cố và mở thêm các trường nội trú, bán trú, KTX nội trú bên các trường phổ thông để tạo điều kiện cho con em đồng bào dân tộc, học sinh diện chính sách, học sinh vùng sâu, vùng xa, vùng hẻo lánh, được đi học.
8. Xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và Luật giáo dục nhằm thể chế hoá tư tưởng chỉ đạo: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu", cùng các quan điểm, đường lối đổi mới giáo dục của Đảng và Nhà nước.
9. Coi trọng và đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền, thông qua các phương tiện thông tin đại chúng kịp thời giới thiệu những đổi mới và thành tựu trong công tác giáo dục và đào tạo, giúp các cấp, các ngành và nhân dân đánh giá đúng hiện trạng và thấu hiểu các chủ trương, tham gia xây dựng sự nghiệp GD-ĐT.
II. NHIỆM VỤ CỤ THỂ.
1. Giáo dục Mầm non
- Củng cố hệ thống nhà trẻ - mẫu giáo, trường mầm non hiện có, phát triển trường lớp của GDMN trên cơ sở bảo đảm CSVC nuôi dạy và đội ngũ giáo viên. Nâng dần tỷ lệ trẻ từ 3-5 tuổi được tới trường lớp, đặc biệt ưu tiên thu hút trẻ 5 tuổi. Phấn đấu có trên 30 tỉnh thành đạt trên 80% trẻ 5 tuổi đến lớp, các tỉnh còn lại trên 60%.
- Xã hội hoá mạnh mẽ GDMN, khuyến khích phát triển các loại hình trường lớp dân lập, tư thục, nhóm trẻ gia đình theo quy chế của Bộ.
- Mở rộng xây dựng trường trọng điểm có chất lượng cao cấp tỉnh, huyện.
- Bảo đảm các trường đều thực hiện đúng chương trình của Bộ đã ban hành. Thực hiện tốt các chuyên đề Bộ đang chỉ đạo thực hiện.
- Chính quyền các cấp quan tâm đầu tư xây dựng CSVC cho GDMN. Động viên các nguồn lực trong xã hội, các bậc cha mẹ xây dựng nhà trường, chăm sóc đời sống giáo viên và học sinh.
- Bộ tiếp tục trình Chính phủ có chính sách hỗ trợ đời sống cho giáo viên mầm non, nhất là các giáo viên mầm non ở vùng núi, vùng sâu, nông thôn. Trong lúc chờ đợi quyết định của Chính phủ, các Sở GD-ĐT cần tham mưu cho chính quyền địa phương hỗ trợ cho giáo viên mầm non.
- Động viên cán bộ giáo viên trong ngành tham gia cuộc thi tìm hiểu về GDMN, hưởng ứng các hoạt động Chào mừng 50 năm ra đời của bậc học GDMN, qua đó tuyên truyền trong nhân dân biết chăm sóc giáo dục trẻ.
2. Giáo dục phổ thông.
2.1. Bậc tiểu học.
- Xây dựng bậc tiểu học trên cơ sở quán triệt luật PCTH, Nghị định 338/HĐBT ngày 26/10/1991 của HĐBT nay là Chính phủ.
- Tổ chức và thực hiện có hiệu quả cao ngày toàn dân đưa trẻ đến trường 5-9-1996 nhằm huy động tỷ lệ cao nhất trẻ em 6 tuổi đi học lớp 1; huy động các trẻ em đã bỏ học trở lại lớp, trường; các trẻ em khuyết tật được học hoà nhập hay trường lớp chuyên biệt. Bảo đảm cho các trẻ em không có điều kiện tới trường lớp chính quy được học bằng nhiều hình thức phù hợp: lớp tình thương, lớp học gia đình.
- Tiếp tục chỉ đạo đẩy mạnh việc thực hiện hoàn thành PTGDTH. Kiểm tra rà soát lại hồ sơ phổ cập giao chỉ tiêu phấn đấu cụ thể cho từng địa phương, tập trung chỉ đạo những địa phương có khó khăn: vùng núi, vùng cao, vùng sâu. Phấn đấu năm học 1996 - 1997 có thêm 10 tỉnh đạt chuẩn quốc gia.
- Quan tâm đến chất lượng đại trà của giáo dục tiểu học, giảm nhanh tỷ lệ bỏ học và lưu ban, nâng cao hiệu quả đào tạo, các tỉnh đã hoàn thành PCTH phải củng cố kết quả đạt được, nâng cao tỷ lệ phổ cập đúng độ tuổi.
Chỉ đạo chặt chẽ dạy đủ các môn học, coi trọng giáo dục đạo đức và rèn luyện thể chất, nâng cao hiệu quả giờ dạy trên lớp.
Có kế hoạch để chuyển dần sang học 2 buổi/ngày. Năm học này tối thiểu mỗi huyện phải có ít nhất 1 trường và chuẩn bị về CSVC và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên cho những trường sẽ chuyển sang dạy 2 buổi/ngày trong năm học 1997 - 1998.
Khuyến khích mở các trường dân lập bán trú, tích cực xây dựng hệ thống trường trọng điểm chất lượng cao, xây dựng trường tiểu học theo chuẩn.
Có kế hoạch cụ thể giải quyết tình trạng thiếu giáo viên tiểu học. Các Sở GD-ĐT cần có kế hoạch đầu tư kinh phí ưu tiên đào tạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên tiểu học.
- Khuyến khích các trường có điều kiện, thực hiện "công nghệ giáo dục", tiếp tục củng cố, nâng cao chất lượng. Tổ chức khảo sát hiệu quả của CNGD ở các địa phương để đánh giá rõ ràng, để có chủ trương dứt khoát.
- Bước đầu triển khai quản lý việc thực hiện PCGDTH theo hướng tin học hoá.
- Không được mở trường chuyên, lớp chuyên ở bậc tiểu học.
- Xúc tiến các công việc chuẩn bị cho bậc tiểu học sau năm 2000 như: thiết kế mục tiêu, kế hoạch; xây dựng chương trình và biên soạn sách, tài liệu, tiến hành thực nghiệm.
2.2. Bậc trung học.
Tiếp tục củng cố và xây dựng mạng lưới trường trung học nhằm phát triển qui mô và nâng cao chất lượng giáo dục.
Quan tâm chỉ đạo cấp THCS nhằm giảm tỷ lệ lưu ban và bỏ học. Khuyến khích và tạo điều kiện cho giáo viên THCS được nâng cao trình độ lên bậc đại học.
Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có điều kiện và yêu cầu. Tham mưu với Nhà nước ban hành chính sách hỗ trợ các trường ngoài công lập nhất là ở những nơi còn gặp khó khăn.
- Tiếp tục thí điểm trung học chuyên ban theo kết luận của Hội nghị tổng kết 3 năm thí điểm.
- Có kế hoạch chỉ đạo thực hiện thống nhất việc phổ cập THCS.
- Tiếp tục củng cố và mở rộng mạng lưới trường chuyên, trường trọng điểm chất lượng cao. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng 3 trường PTTH trọng điểm chất lượng cao ở Huế, Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Củng cố và xây dựng hệ thống trường PTDTNT của Trung ương, tỉnh, huyện trở thành trường trọng điểm có chất lượng cao của các dân tộc. Có kế hoạch đào tạo và sử dụng tất cả học sinh tốt nghiệp THCS và THPT ở các trường PTDTNT tỉnh, huyện. Mở rộng hệ thống các trường, khoa DBĐH để tiếp tục đào tạo học sinh tốt nghiệp PTTH ở các trường PTDTNT và học sinh diện chính sách chưa vào được trường ĐH, CĐ, THCN.
- Đẩy mạnh công tác xây dựng các Trung tâm KTTH - HN, đồng thời giao nhiệm vụ cho các trung tâm dạy nghề, các trường nghề của địa phương thực hiện việc hướng nghiệp - dạy nghề phổ thông cho học sinh nhất là học sinh THCB.
- Đẩy mạnh phong trào đổi mới phương pháp dạy học, phong trào phấn đấu trở thành giáo viên dạy giỏi. Tăng cường thanh tra kiểm tra chuyên môn giáo viên và trường PTTH.
- Quan tâm hơn đến chất lượng đại trà của bậc trung học trước hết là chất lượng chính trị đạo đức, thực hiện dạy đủ và có chất lượng các môn học, phấn đấu phủ kín môn ngoại ngữ ở cấp PTTH, mở rộng dạy tin học, môn giáo dục quốc phòng và giáo dục thể chất cho học sinh. Tiếp tục đổi mới việc xếp loại, kiểm tra, đánh giá, thi cử sử dụng một phần kết quả học tập và thi tốt nghiệp vào chuyển cấp và thi tuyển vào ĐH, CĐ.
- Xây dựng Đội, Đoàn trong nhà trường để học sinh tự rèn luyện. Khuyến khích thực hiện chế độ giám thị trong các trường phổ thông (theo mô hình phối hợp với Đoàn như Thành phố Hồ Chí Minh đã làm).
3. Giáo dục chuyên nghiệp.
- Phối hợp với các Bộ, Ban, ngành ở TW, các tỉnh cần sắp xếp lại mạng lưới các trường chuyên nghiệp trên địa bàn để đầu tư có trọng điểm.
- Bộ sẽ trình Chính phủ về chiến lược đào tạo nhân lực chung trong cả nước nhằm đạt chỉ tiêu 23 - 25% lao động được đào tạo vào năm 2000.
- Mỗi tỉnh cần xây dựng đề án đào tạo nhân lực của địa phương nhằm đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhu cầu nhân lực kỹ thuật cao cho các khu công nghiệp tập trung thực hiện CNH, HĐH ở từng địa phương.
- Các Sở GD-ĐT tham mưu với UBND tỉnh về sắp xếp mạng lưới trường THCN. Thực hiện triệt để quản lý nhà nước giáo dục chuyên nghiệp trên địa bàn. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức kinh tế, các cá nhân trong và ngoài nước mở trường lớp dạy nghề.
- Tăng cường quan hệ quốc tế để phát triển ngành GDCN.
- Liên kết giáo dục GDCN với giáo dục phổ thông để thực hiện chương trình thí điểm THCB và dạy nghề phổ thông cho học sinh.
- Tích cực tìm nguồn kinh phí để xây dựng một số trường trọng điểm, xây dựng chương trình đào tạo và chuẩn đánh giá một số ngành mũi nhọn.
4. Giáo dục thường xuyên (GDTX).
Đẩy mạnh tốc độ xoá mù chữ, đặc biệt là ở vùng ĐBSCL và miền núi. Tiếp tục chỉ đạo thực hiện những kết luận đã nêu ở 2 hội nghị chuyên đề về XMC ở Tuyên Quang và Tiền Giang. Bộ phối hợp với Ban KGTW và UBQG xoá mù chữ giao chỉ tiêu phấn đấu cho UBND các tỉnh chưa đạt chuẩn để thực hiện NQTW4 đề ra là hoàn thành XMC vào năm 2000.
Năm học 1996 - 1997 phấn đấu có thêm 10 tỉnh đạt chuẩn quốc gia về PCGDTH và CMC.
Tiếp tục phát triển các lớp sau XMC các lớp bổ túc văn hoá THCS và PTTH, mở rộng các hình thức học tập để góp phần tích cực vào phổ cập THCS. Củng cố và mở rộng trung tâm GDTX cấp tỉnh và huyện đáp ứng nhu cầu học tập đa dạng về văn hoá, nghiệp vụ của nhân dân và công nhân, viên chức.
Quản lý chặt chẽ các trung tâm ngoại ngữ, tin học, các lớp học đại học tại chức để đảm bảo chất lượng đào tạo. Các Sở GD-ĐT cần từng bước quản lý thống nhất việc thi ngoại ngữ, tin học tại trung tâm trong địa phương. Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc dạy và học ở các trung tâm bảo đảm chế độ thi cử nghiêm túc, cấp chứng chỉ và văn bằng đúng với các quy chế hiện hành của Bộ.
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo trân trọng đề nghị:
- Các Ông (Bà) Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TW chịu trách nhiệm triển khai, chỉ đạo, kiểm tra UBND Huyện (Quận) và các ngành thuộc quyền, đảm bảo thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ giáo dục và đào tạo năm học 1996 - 1997 ở mỗi địa phương.
- Các Ông (Bà) Giám đốc Sở GD-ĐT chịu trách nhiệm quản lý, tổ chức thực hiện, kiểm tra các cấp quản lý giáo dục các cơ sở giáo dục đào tạo trên địa bàn, thực hiện nhiệm vụ năm học dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, chỉ đạo của HĐND, UBND và sự phối hợp với các Ban, Ngành, Đoàn thể.
- Các Ông (Bà) Vụ trưởng và Thủ trưởng các đơn vị thuộc Bộ có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra và thanh tra chuyên môn để thực hiện chỉ thị này theo đúng chức năng và nhiệm vụ đã được Bộ giao.
Chỉ thị này được quán triệt trong toàn Ngành từ cơ quan Bộ đến trường, các cơ sở giáo dục và đào tạo trong cả nước, được tuyên truyền phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng, các cuộc hội nghị, hội thảo và toàn dân để mọi người đều biết và tích cực tham gia xây dựng và phát triển giáo dục.
| Trần Hồng Quân (Đã ký) |
Chỉ thị 14/GD-ĐT năm 1996 về nhiệm vụ năm học 1996-1997 của các ngành học, bậc học: Giáo dục mần non, giáo dục phổ thông; giáo dục chuyên nghiệp, giáo dục thường xuyên do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành
- Số hiệu: 14/GD-ĐT
- Loại văn bản: Chỉ thị
- Ngày ban hành: 03/08/1996
- Nơi ban hành: Bộ Giáo dục và Đào tạo
- Người ký: Trần Hồng Quân
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 03/08/1996
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định