Hệ thống pháp luật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH THÁI BÌNH
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----------------

Số: 67/BC-UBND

Thái Bình, ngày 11 tháng 07 năm 2013

 

BÁO CÁO

TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM VÀ MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CHỦ YẾU 6 THÁNG CUỐI NĂM 2013

I. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM.

Sáu tháng đầu năm 2013, trong điều kiện khó khăn chung của cả nước và ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 8 năm 2012; được sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, sát sao của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực, cố gắng của các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh nên tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh duy trì ổn định và tăng trưởng, an sinh xã hội được đảm bảo, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

1. Về phát triển kinh tế.

Tổng sản phẩm GDP (theo giá so sánh) ước đạt 6.855,5 tỷ đồng, bằng 46% kế hoạch, tăng 6,16% so với cùng kỳ năm trước. Tổng giá trị sản xuất ước đạt 14.179,1 tỷ đồng, tăng 8,16%; trong đó: sản xuất nông, lâm, thủy sản giảm 0,54%, sản xuất công nghiệp - xây dựng tăng 12,15% (công nghiệp tăng 8,9%, xây dựng tăng 26,6%), dịch vụ tăng 10,05% so với cùng kỳ năm 2012.

1.1. Sản xuất nông, lâm, thủy sản và xây dựng nông thôn mới.

Do bị ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 8 năm 2012 nên giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản 6 tháng đầu năm giảm so với cùng kỳ năm trước. Tổng giá trị sản xuất toàn ngành ước đạt 3.671 tỷ đồng, bằng 52,1% kế hoạch, giảm 0,54%.

Sản xuất vụ đông 2012 - 2013 bị thiệt hại nặng do hậu quả cơn bão số 8 năm 2012 nên diện tích chỉ đạt 29.647 ha, giảm 6.525 ha so với năm trước, trong đó có 6.000 ha được phục hồi sau bão; giá trị đạt 684,4 tỷ đồng, giảm 155,5 tỷ đồng (giảm 18,2%). Diện tích cây màu xuân đạt 12.521 ha, giảm 399 ha; lúa xuân đạt 80.466 ha, giảm 678 ha so với năm trước (chủ yếu do thực hiện dồn điền đổi thửa, chỉnh trang đồng ruộng), trong đó lúa ngắn ngày chiếm 95,78%, lúa chất lượng cao chiếm 31,22% (tăng 1.253 ha so với vụ xuân năm trước). Lúa xuân năm nay tốt đồng đều, năng suất ước đạt 72,51 tạ/ha, tăng 0,89 tạ/ha so với năm trước. Diện tích cây màu hè đạt 6.730 ha, vượt 1.130 ha so với kế hoạch và gấp 2 lần (tăng 3.365ha) so với năm 2012. Giá trị sản xuất trồng trọt đạt 2.055,7 tỷ đồng, bằng 60,5% kế hoạch, giảm 6,11% so với cùng kỳ năm trước. Việc xây dựng và phát triển các cánh đồng mẫu đạt kết quả tích cực (ngoài 7 cánh đồng mẫu theo chỉ đạo của tỉnh, các địa phương đã xây dựng thêm 40 cánh đồng mẫu với tổng diện tích 2.400 ha).

Ủy ban nhân dân tỉnh đã sửa đổi bổ sung chính sách hỗ trợ mua máy nông nghiệp; ban hành chính sách hỗ trợ gieo sạ lúa, cây vụ đông, cây vụ hè; quyết định hỗ trợ kinh phí mua khoai tây giống, thuốc trừ cỏ, diệt chuột vụ xuân, mua vắcxin phòng bệnh ở đàn lợn và phòng chống dịch lợn tai xanh... Tổng kinh phí hỗ trợ cho sản xuất nông nghiệp 6 tháng đầu năm là 42,3 tỷ đồng.

Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển ổn định, Ủy ban nhân dân tỉnh công bố dịch tai xanh trên đàn lợn ở một số địa phương, chỉ đạo triển khai đồng bộ các biện pháp phòng chống dịch bệnh gia súc, gia cầm nên dịch chỉ phát sinh ở diện hẹp và nhanh chóng được khống chế, không ảnh hưởng lớn đến phát triển chăn nuôi. Trong những tháng đầu năm, giá thực phẩm giảm mạnh trong khi giá thức ăn chăn nuôi tăng cao đã ảnh hưởng đến việc tái đàn gia súc, gia cầm. Đến 01/4/2013, tổng đàn trâu bò đạt 52.233 con, giảm 5,31%; đàn lợn 1,032 triệu con, tăng 0,74%; đàn gia cầm 10,9 triệu con, tăng 4,91% so với cùng kỳ năm 2012. Toàn tỉnh hiện có 690 trang trại đạt tiêu chuẩn, trong đó 53 trang trại chăn nuôi quy mô lớn, tăng thêm 11 trang trại so với cùng kỳ 2012. Giá trị sản xuất chăn nuôi 6 tháng ước đạt 1.045 tỷ đồng, bằng 44,9% kế hoạch, tăng 6,23% so với cùng kỳ năm trước.

Nuôi trồng thủy sản đạt 14,5 nghìn ha, tăng 3,1% so với cùng kỳ; trong đó: diện tích nuôi ngao 2.318 ha, tăng 639 ha, nuôi tôm sú đạt 3.147 ha (tương đương năm 2012). Sản lượng nuôi trồng thủy sản 6 tháng đầu năm ước đạt 46.112 tấn, tăng 14,67% (riêng sản lượng ngao đạt 28,8 nghìn tấn, tăng 23,9%). Sản xuất giống thủy sản đạt kết quả khá tốt, nhất là sản xuất ngao giống (đạt 540 triệu ngao giống, gấp hơn 2 lần so với cùng kỳ). Sản lượng khai thác thủy sản 6 tháng ước đạt 28.005 tấn, tăng 15,84% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị sản xuất ước đạt 456,2 tỷ đồng, bằng 42,2% kế hoạch, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2012.

Để chủ động phòng, chống cơn bão số 02, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh đã kịp thời chỉ đạo các cấp, các ngành, các địa phương, đơn vị khẩn trương triển khai thực hiện các biện pháp phòng, chống bão, đồng thời thành lập các đoàn công tác của tỉnh đi kiểm tra, chỉ đạo, đôn đốc các địa phương triển khai, đối phó với bão nhằm giảm thiểu thiệt hại đối với sản xuất và đời sống của nhân dân.

Tập trung chỉ đạo thực hiện chính sách hỗ trợ các hộ gia đình di chuyển chỗ ở từ vùng xung yếu ngoài để vào khu tái định cư thuộc xã Đông Long, huyện Tiền Hải và xã Quỳnh Lâm, huyện Quỳnh Phụ. Đã tạm ứng (02 đợt) và cấp bổ sung về ngân sách 02 huyện để thanh toán hỗ trợ cho các hộ dân là 46,834 tỷ đồng, bằng 80,3% tổng kinh phí dự kiến hỗ trợ theo đề án; đến nay đã có 176 hộ gia đình được giao đất ở tại khu tái định cư (xã Quỳnh Lâm: 66 hộ/109 hộ, xã Đông Long: 110 hộ/158 hộ).

Công tác quản lý đất đai và bảo vệ môi trường được tăng cường. Đã hoàn thành tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi); thống kê đất đai năm 2012 và Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011 - 2015) của tỉnh. Xây dựng Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (khóa XI) về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai. Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định phân bổ chỉ tiêu và chỉ đạo hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất kỳ đầu 5 năm (2011 - 2015) của các huyện, thành phố; đẩy mạnh cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất. Chỉ đạo giải quyết kịp thời, hoàn thành công tác đo đạc, lập bản đồ địa chính ở các địa phương thực hiện dự án VLAP; đã lập 239.415 hồ sơ cấp giấy chứng nhận, vượt 12,7% kế hoạch và cấp 43.419 giấy chứng nhận, đạt 39,05% hồ sơ đã lập; quyết liệt xử lý vướng mắc, tồn tại trong giải phóng mặt bằng để thi công các công trình giao thông trọng điểm, đê điều phục vụ phòng chống lụt bão và công trình phúc lợi công cộng.

Công tác xây dựng nông thôn mới được các cấp, các ngành tập trung lãnh ... và quy hoạch chi tiết giao thông thủy lợi nội đồng; 89,5% số xã hoàn thành quy hoạch chi tiết trung tâm xã; 96,2% số xã hoàn thành dồn điền đổi thửa; có 10 xã đạt 15-18 tiêu chí, 116 xã đạt 11-14 tiêu chí, 100 xã đạt từ 8-10 tiêu chí và 40 xã đạt 6-7 tiêu chí. Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Quyết định số 02/2013/QĐ-UBND sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định một số cơ chế, chính sách hỗ trợ và quản lý đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, tháo gỡ khó khăn, tạo động lực đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới; thành lập 08 đoàn thẩm định liên ngành lựa chọn các xã được hỗ trợ đầu tư xây dựng nông thôn mới năm 2013 và thẩm định kế hoạch đầu tư của các xã; Quyết định phân bổ 251,188 tỷ đồng hỗ trợ 108 xã hoàn thành dồn điền đổi thửa năm 2012 thực hiện chỉnh trang đồng ruộng và 78 xã xây dựng nông thôn mới; xây dựng phương pháp đánh giá 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Tổng số vốn đầu tư cho khu vực nông thôn và xây dựng nông thôn mới thuộc ngân sách tỉnh năm 2013 là 1.133 tỷ đồng, chiếm 1/3 kế hoạch vốn đầu tư của tỉnh. Các địa phương đang tập trung thực hiện các nội dung tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Dự kiến trong năm 2013 có trên 09 xã hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới, vượt mục tiêu đề ra.

1.2. Sản xuất công nghiệp, đầu tư, xây dựng cơ bản.

Sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm có chuyển biến tích cực hơn nhưng còn chậm do tiếp tục gặp khó khăn do chi phí nguyên vật liệu đầu vào và nhân công tăng, thị trường tiêu thụ suy giảm, khả năng hấp thụ nguồn vốn tín dụng còn hạn chế, thời gian nghỉ tết Nguyên đán kéo dài hơn mọi năm... Đề tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo các cấp, các ngành chủ động hướng dẫn, hỗ trợ các doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong sản xuất kinh doanh; rà soát, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách khuyến khích ưu đãi đầu tư; triển khai thực hiện kịp thời các chính sách của Chính phủ về miễn, giảm, giãn các loại thuế và tiền sử dụng đất, thuê đất cho doanh nghiệp; gia hạn nộp thuế cho các doanh nghiệp bị thiệt hại do cơn bão số 8..., tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất kinh doanh, giảm giá thành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các tổ chức tín dụng đã giảm lãi suất tín dụng cho vay xuống còn 9-13% năm (giảm 3-4% so với đầu năm 2013), gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ... hỗ trợ doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn về vốn, khôi phục và phát triển sản xuất.

Giá trị sản xuất công nghiệp 6 tháng ước đạt 6.045 tỷ đồng, bằng 42,5% kế hoạch, tăng 8,9% so với cùng kỳ năm trước và có xu hướng tăng dần (quý I tăng 5%, quý II tăng 12,5%). Đã có thêm 7 dự án hoàn thành đầu tư, đi vào sản xuất với tổng số vốn 611 tỷ đồng; có thêm 01 sản phẩm mới, 30/38 sản phẩm chủ yếu tăng so với cùng kỳ năm 2012, trong đó 9 sản phẩm tăng trên 20%, 12 sản phẩm tăng từ 10-20%; có 8 sản phẩm bằng hoặc giảm so với cùng kỳ, trong đó có một số sản phẩm giảm khá mạnh như: chế biến thực phẩm giảm 14%, vải các loại giảm 15%, phôi thép giảm 10%...

Sản xuất của doanh nghiệp trong các khu công nghiệp từng bước được phục hồi, duy trì ổn định và tăng trưởng; có 118/133 dự án đầu tư đã đi vào sản xuất; giá trị sản xuất tăng trưởng 12% và chiếm 40,6% giá trị công nghiệp toàn tỉnh; tạo việc làm cho trên 45.000 lao động, tăng 5% so với cùng kỳ. Nghề và làng nghề duy trì phát triển; toàn tỉnh hiện có 241 làng nghề, tăng 8 làng nghề so với cùng kỳ năm 2012; một số làng nghề suy giảm đã có hướng hồi phục trở lại (dệt khăn, sợi ở Hưng Hà...); giá trị sản xuất khu vực làng nghề chiếm 23,8% giá trị sản xuất công nghiệp, tạo việc làm cho gần 150 nghìn lao động. Hệ thống truyền tải điện tiếp tục được đầu tư nâng cấp; sản lượng điện thương phẩm đạt 562 triệu kWh, tăng 12,7%; đã tiết kiệm được 8,59 triệu kWh, vượt 2,14% kế hoạch.

Công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ bản đạt kết quả khá tốt. Tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản và chương trình mục tiêu Quốc gia của tỉnh đến nay (bao gồm cả vốn tạm ứng ngân sách tỉnh năm 2013) là: 3.689,6 tỷ đồng, tăng 68,2% so với cùng kỳ năm 2012. Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo hoàn thành phân bố kế hoạch các nguồn vốn đầu tư năm 2013 ngay trong quý I theo thứ tự ưu tiên, tập trung bố trí vốn cho các công trình hoàn thành, chuyển tiếp còn thiếu vốn thanh toán, các dự án trọng điểm, cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh; đồng thời chỉ đạo, đôn đốc đẩy nhanh tiến độ lập, thẩm định, phê duyệt và thực hiện dự án, giải ngân vốn đầu tư theo Chỉ thị số 1792/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ.

Công trình củng cố, bảo vệ và nâng cấp các đoạn đê biển cấp bách, xung yếu trực diện với biển năm 2013 là 30,542km; trong đó: 20,331km đê làm mới (bao gồm cả đê 5 từ K15 đến K17+500) và 10,211 km các đoạn đê biển số 5, số 6, số 7, số 8 đang tiến hành thi công. Tổng mức đầu tư 1.117,42 tỷ đồng; Giá trị phần xây lắp 914,2 tỷ đồng (giá trị xây lắp theo hợp đồng đã ký 813,410 tỷ đồng), Ủy ban nhân dân tỉnh bố trí các nguồn vốn cho dự án là 557,63 tỷ đồng (trong đó tạm ứng từ ngân sách tỉnh 312,186 tỷ đồng) để đảm bảo nguồn vốn triển khai thực hiện. Các đơn vị thi công đã tập trung nguồn lực tài chính, nhân lực, máy móc thiết bị, tranh thủ thời gian, khẩn trương thi công đảm bảo tiến độ và chất lượng công trình. Đến nay công trình đã cơ bản hoàn thành.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội 6 tháng ước đạt 11.096 tỷ đồng, tăng 37,8% so với cùng kỳ 2012, trong đó vốn nhà nước tăng 52,1%, vốn doanh nghiệp và dân cư tăng 33,6%, vốn FDI tăng 27,3%. Khối lượng đầu tư xây dựng cơ bản vốn ngân sách nhà nước tỉnh quản lý thực hiện 6 tháng đầu năm đạt 2.683 tỷ đồng; giá trị giải ngân 2.115 tỷ đồng, bằng 57,3% kế hoạch, tăng gấp 2 lần so với cùng kỳ năm 2012, là năm có tiến độ thực hiện và giải ngân nhanh nhất trong nhiều năm qua. Giá trị sản xuất xây dựng ước đạt 1.576,6 tỷ đồng, tăng 26,6% so với cùng kỳ năm 2012. Công tác giám sát, đánh giá đầu tư được các cấp, các ngành quan tâm triển khai thực hiện, đảm bảo tiết kiệm, chống thất thoát, lãng phí, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.

1.3. Thương mại, dịch vụ, tài chính, ngân hàng.

Ủy ban nhân dân tỉnh tiếp tục chỉ đạo tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp hỗ trợ thị trường theo Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ; tích cực tổ chức chương trình hội chợ thường niên và các hoạt động xúc tiến thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, tiêu thụ sản phẩm; tổ chức chương trình đưa hàng Việt về nông thôn; tăng cường công tác quản lý thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại, đầu cơ, tăng giá bất hợp lý..., góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả và đảm bảo chất lượng hàng hóa trên địa bàn.

Giá trị sản xuất ngành dịch vụ 6 tháng đầu năm ước đạt 2.886,5 tỷ đồng, bằng 40% kế hoạch, tăng 10,05% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 6 tăng 2,17% so với tháng 12/2012. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ 6 tháng đạt 11.180,7 tỷ đồng, tăng 10,1%; kim ngạch xuất khẩu đạt 360 triệu USD, tăng 19,28%; có thêm một số mặt hàng xuất khẩu mới như thiết bị dây dẫn điện, phôi thép; mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dệt may đạt 241 triệu USD, tăng 4,92%; một số mặt hàng xuất khẩu có tỷ trọng nhỏ giảm, như: thủy hải sản giảm 15,5%, thực phẩm chế biến giảm 60%, thủ công mỹ nghệ giảm 60%, hàng điện tử giảm 23%... Kim ngạch nhập khẩu đạt 362 triệu USD, tăng 12,5% so với cùng kỳ năm 2012. Hoạt động giao thông vận tải cơ bản đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh và đi lại của nhân dân. Doanh thu vận tải đạt 1.528 tỷ đồng, tăng 5,17% so cùng kỳ năm 2012; trong đó: vận tải hành khách tăng 27,5%, vận tải hàng hóa giảm 6,52%, dịch vụ, đại lý vận tải tăng 25%.

Các tổ chức tín dụng trên địa bàn đã có nhiều giải pháp để mở rộng đầu tư tín dụng, ưu tiên cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp nhỏ và vừa, các dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả; tiếp tục giảm lãi suất cho vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ... để tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh. Đến 30/6/2013, tổng nguồn vốn huy động đạt 19.709 tỷ đồng, tăng 7,2% so với 31/12/2012; tổng dư nợ đạt 25.386 tỷ đồng, tăng 4,6%, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 10.890 tỷ đồng, chiếm 42,9% tổng dư nợ; mặt bằng lãi suất phổ biến từ 9-13%/năm, giảm 3-4% so với đầu năm 2013; tỷ lệ nợ xấu toàn địa bàn chiếm 1,6% tổng dư nợ (không tính dư nợ, nợ xấu của Ngân hàng Phát triển Thái Bình), giảm 0,3% so với cùng kỳ năm 2012.

Tổng thu ngân sách địa phương đạt 5.451 tỷ đồng, đạt 76,8% dự toán năm và tăng 17,5% so với cùng kỳ năm 2012 (loại trừ thu chuyển nguồn và thu kết dư đạt 61,5% dự toán năm); trong đó: thu nội địa 1.484,6 tỷ đồng, đạt 67,4% dự toán năm, tăng 43,9%; thu bổ sung từ ngân sách Trung ương 2.734,3 tỷ đồng, đạt 56% dự toán năm, tăng 16,2% so với cùng kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 3.955,6 tỷ đồng, đạt 55,8% dự toán năm, tăng 28,7% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó: chi phát triển kinh tế 1.627,2 tỷ đồng, đạt 77,9% dự toán năm, tăng 27,5% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 41% tổng chi; chi tiêu dùng thường xuyên 2.279 tỷ đồng, đạt 47,5% dự toán năm, tăng 26,8% so với cùng kỳ năm 2012.

Hoạt động dịch vụ bưu chính, viễn thông trên địa bàn tỉnh phát triển ổn định, đảm bảo an toàn an ninh thông tin. Đến nay, toàn tỉnh có 276 điểm phục vụ bưu chính, 1,34 triệu thuê bao điện thoại (mật độ 75 thuê bao/100 dân), 27.000 thuê bao Internet, tăng 6,9% so với cùng kỳ. Công tác quảng bá xúc tiến du lịch được tăng cường, 6 tháng đầu năm tổng lượng khách du lịch đạt 290.000 lượt người, tăng 18%; doanh thu ước đạt 105,3 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2012.

2. Văn hóa - xã hội.

Hoạt động văn hóa thể thao, thông tin và truyền thông tập trung tuyên truyền về các sự kiện chính trị xã hội quan trọng của đất nước và nhiệm vụ chính trị của tỉnh; tổ chức các hoạt động hưởng ứng năm Du lịch quốc gia các tỉnh đồng bằng sông Hồng 2013. Củng cố, nâng cao hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Các thiết chế văn hóa cơ sở được quan tâm đầu tư xây dựng, đặc biệt là thiết chế nhà văn hóa thôn. Triển khai đầu tư, tu bổ, tôn tạo một số di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh và cấp quốc gia, chuẩn bị các thủ tục đầu tư nâng cấp Khu lưu niệm đồng chí Nguyễn Đức Cảnh, xây dựng Quảng trường và Tượng đài Bác Hồ với nông dân. Phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng phát triển sâu rộng, thu hút được đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia; thể thao thành tích cao từng bước được nâng cao về trình độ, chất lượng chuyên môn. Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng công trình Nhà thi đấu đa năng của tỉnh để kịp thời phục vụ Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VII năm 2014; cơ sở vật chất và lực lượng tham gia Đại hội đang được tích cực chuẩn bị.

Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân được đảm bảo; duy trì tỷ lệ tiêm chủng đạt trên 99%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 15,5%; đẩy mạnh phòng chống HIV/AIDS và ma túy, mại dâm. Chất lượng khám, chữa bệnh ở các tuyến y tế được nâng lên, cơ bản đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân; đã thực hiện tốt khám chữa bệnh cho các đối tượng Bảo hiểm y tế tại các bệnh viện đa khoa huyện, thành phố và bước đầu triển khai ở các trạm y tế xã của 8/8 huyện, thành phố với 160.000 thẻ Bảo hiểm y tế, bằng 13,8% tổng số thẻ Bảo hiểm y tế trên địa bàn tỉnh. Các hoạt động y tế dự phòng được tích cực triển khai, nhất là phòng chống dịch bệnh, không để dịch bệnh lớn xảy ra; thực hiện tốt chương trình tiêm chủng mở rộng; quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm, thuốc chữa bệnh. Mạng lưới bệnh viện tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng, nâng cấp; hệ thống y tế cơ sở được củng cố và phát triển. Chỉ đạo chuẩn bị thủ tục lập Dự án đầu tư xây dựng bệnh viện đa khoa 1000 giường. Công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình có chuyển biến tích cực; số sinh 6 tháng đầu năm là 12.560 trẻ, giảm 4,7% so với cùng kỳ năm 2012, tỷ lệ sinh con thứ 3 là 12,4%, giảm 0,3%.

Sự nghiệp giáo dục, đào tạo tiếp tục giữ vững và phát triển. Năm học 2012-2013, có 57/72 học sinh của tỉnh đạt giải tại kỳ thi học sinh giỏi quốc gia; 51/57 học sinh đạt giải tại kỳ thi Olympic khu vực Duyên hải và đồng bằng Bắc Bộ. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt 99,61%, tốt nghiệp giáo dục thường xuyên đạt 97,1%. Thái Bình là một trong 05 tỉnh, thành phố trong cả nước được công nhận đạt phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, Ủy ban nhân dân tỉnh đã quyết định chuyển Trung tâm kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp thành phố thành Trung tâm Giáo dục thường xuyên và hướng nghiệp cấp tỉnh; sáp nhập các Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp và hướng nghiệp vào các Trung tâm Giáo dục thường xuyên huyện và chuyển về Sở Giáo dục - Đào tạo quản lý; sáp nhập trường Trung cấp sư phạm mầm non vào trường Cao đẳng sư phạm Thái Bình; chỉ đạo tổ chức kiểm soát việc dạy thêm, học thêm và quản lý thu chi, không để xảy ra tình trạng lạm thu ở các cơ sở giáo dục. Chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, quản lý, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực tổ chức thực hiện nhiệm vụ cho cán bộ chủ chốt các cấp được nâng cao; cơ sở vật chất trường lớp và trang thiết bị dạy học tiếp tục được quan tâm đầu tư theo hướng chuẩn hóa.

Chính sách an sinh xã hội và các chính sách của nhà nước đối với người, gia đình có công, các đối tượng chính sách xã hội được quan tâm chỉ đạo thực hiện, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định trích ngân sách trên 33 tỷ đồng tặng quà cho người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, người nghèo, người cao tuổi, Đảng viên 30 năm tuổi Đảng trở lên; các huyện, thành phố trích ngân sách 6,5 tỷ đồng; tổng số tiền Tết hỗ trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo... đạt trên 70 tỷ đồng. Thực hiện Đề án hỗ trợ, cải thiện nhà ở cho người có công với cách mạng giai đoạn 2012-2013; đã xây mới, tu sửa, nâng cấp 2.716 nhà (xây mới 1.889 nhà, sửa chữa 827 nhà), trong đó có 14 nhà phát sinh mới của huyện Hưng Hà, đạt 100% kế hoạch. Trong 6 tháng đầu năm đã duyệt cấp thẻ Bảo hiểm y tế cho 350 đối tượng người có công và 100% đối tượng là người nghèo và người cận nghèo (70.882 người nghèo và 50.196 người cận nghèo); rà soát, bổ sung hồ sơ người bị nhiễm chất độc hóa học: tổ chức đào tạo nghề cho trên 11.050 lao động, đạt 33% kế hoạch; giải quyết việc làm mới cho 14.810 lao động, đạt 46,3% kế hoạch; trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp cho 1.402 lao động; duyệt trợ cấp ưu đãi học sinh, sinh viên đợt 1 cho 12.421 lượt người, tổng kinh phí 16,3 tỷ đồng; cho vay từ quỹ Quốc gia hỗ trợ việc làm 04 tỷ đồng, tạo việc làm mới cho trên 400 lao động. Toàn tỉnh hiện còn 39.576 hộ nghèo (tỷ lệ 6,8%), 21.408 hộ cận nghèo (tỷ lệ 3,68%).

Công tác khoa học và công nghệ được chú trọng, đã phê duyệt 13 đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp nhà nước (tổng kinh phí 65 tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương hỗ trợ 30 tỷ đồng); 32 chương trình, đề tài, dự án khoa học và công nghệ cấp tỉnh; 39 đề tài, nhiệm vụ khoa học và công nghệ cấp ngành (tổng kinh phí 12.998 triệu đồng, đạt 90% tổng kinh phí đầu tư); có 75 công trình đề tài, giải pháp tham dự Hội thi Sáng tạo khoa học, công nghệ và kỹ thuật tỉnh Thái Bình lần thứ 5 và 32 đề tài, giải pháp tham dự cuộc thi sáng tạo thanh thiếu niên nhi đồng tỉnh Thái Bình lần thứ I, năm 2012 - 2013. Công tác quản lý tiêu chuẩn đo lường chất lượng, sở hữu trí tuệ, an toàn bức xạ và hạt nhân được triển khai thực hiện tích cực; thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các vụ việc vi phạm về đo lường và chất lượng, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

3. Về thu hút đầu tư và phát triển doanh nghiệp.

Sáu tháng đầu năm, có 40 dự án được chấp thuận đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 2.041 tỷ đồng, bằng 97,5% cùng kỳ năm trước. Đến nay, toàn tỉnh có 671 dự án đầu tư, tổng vốn đăng ký là 74.517 tỷ đồng, thu hút 140,5 nghìn lao động, trong đó có 421 dự án đã sản xuất, vốn đầu tư 16.430 tỷ đồng, tạo việc làm cho 108,5 nghìn lao động (tăng 11 dự án và 694 tỷ đồng vốn đầu tư so với cuối năm 2012); 68 dự án đang xây dựng (vốn đầu tư 49.779 tỷ đồng); 135 dự án chưa nhận đất, đang hoàn thiện các thủ tục đầu tư (vốn đầu tư 6.054 tỷ đồng); 47 dự án tạm dừng sản xuất, bỏ hoặc đã bị thu hồi (vốn đầu tư 2.189 tỷ đồng). Toàn tỉnh hiện có 48 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư 345 triệu USD, trong đó 44 dự án đã đi vào hoạt động, đóng góp 20,4% giá trị sản xuất công nghiệp và gần 60% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh; 16 dự án ODA đang triển khai thực hiện, tổng vốn 1.548 tỷ đồng; giải ngân 6 tháng đạt trên 100 tỷ đồng, bằng 143% kế hoạch được giao.

Các thành phần kinh tế tiếp tục được quan tâm, tạo điều kiện phát triển. Đến nay đã cơ bản hoàn thành việc chuyển đổi, sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước do địa phương quản lý theo Đề án Chính phủ phê duyệt. Kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển. Đến 30/6/2013, toàn tỉnh có 3.324 doanh nghiệp và 388 chi nhánh đăng ký hoạt động với số vốn 23.077 tỷ đồng. Sáu tháng đầu năm có 251 doanh nghiệp và chi nhánh được thành lập, tăng 13,8% cùng kỳ năm trước, 304 doanh nghiệp, chi nhánh tạm ngừng hoạt động, giải thể, bằng 87,1% so với cùng kỳ năm 2012.

4. Công tác quốc phòng, an ninh và xây dựng củng cố chính quyền.

Các cấp, các ngành thực hiện tốt lãnh đạo, chỉ đạo bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Đặc biệt trong dịp Tết Nguyên đán, đã huy động cả hệ thống chính trị, phát động phong trào rộng khắp, tuyên truyền, vận động nhân dân và tăng cường tuần tra, kiểm tra, giám sát thực hiện nghiêm túc Pháp lệnh 16 và Nghị định 36/NĐ-CP, toàn tỉnh cơ bản không có pháo nổ; số vũ khí và vật liệu nổ thu được bằng cả 12 năm về trước, là 1 trong 5 tỉnh được Thủ tướng Chính phủ biểu dương. Tăng cường điều tra, triệt phá các ổ nhóm tội phạm, trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực, tai nạn giao thông giảm 2 chỉ số.

Công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ bảo đảm đủ quân số, an toàn, đúng pháp luật; thực hiện tốt công tác huấn luyện, duy trì chế độ trực ban, sẵn sàng chiến đấu. Các lực lượng an ninh, quân sự, biên phòng chủ động nắm chắc tình hình, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền kịp thời giải quyết các vướng mắc ở cơ sở, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.

Công tác cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước được tăng cường, từng bước đem lại hiệu quả thiết thực. Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Kế hoạch công tác cải cách hành chính và kế hoạch tuyên truyền cải cách hành chính năm 2013; chỉ đạo các cấp các ngành tiếp tục rà soát, bãi bỏ hoặc đề xuất bãi bỏ những thủ tục rườm rà, chồng chéo; thực hiện niêm yết đầy đủ, công khai, minh bạch các thủ tục hành chính; sửa đổi, bổ sung Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND về cơ chế một cửa liên thông trong hoạt động đầu tư của tỉnh; phê duyệt Đề án thực hiện một cửa, một cửa liên thông hiện đại ở cấp huyện giai đoạn 2013-2014, chỉ đạo tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông trên địa bàn tỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân khi thực hiện các thủ tục hành chính; triển khai Bộ chỉ số đánh giá cải cách hành chính trong các cơ quan quản lý Nhà nước của tỉnh; tiếp tục chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình hành động cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước có bước phát triển mạnh (đến nay, toàn tỉnh có 70 cơ quan, đơn vị triển khai Mạng văn phòng điện tử liên thông), Thái Bình là một trong các tỉnh đi đầu thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, chỉ đạo điều hành của các cơ quan nhà nước. Năm 2012, Thái Bình có chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI) xếp thứ 2, chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) xếp thứ 25/63 tỉnh, thành phố.

Duy trì và thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Sáu tháng đầu năm, số lượng đơn thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo giảm 3,1%; giải quyết 90% số đơn kiến nghị, 83,6% đơn khiếu nại, tố cáo; tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc tồn đọng kéo dài. Công tác thanh tra, kiểm tra có chuyển biến tích cực, đã triển khai 106 cuộc thanh tra, kiểm tra tại 557 lượt đơn vị, kiến nghị thu hồi 2,78 tỷ đồng và 2.700 m2 đất.

Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật; thẩm định, kiểm tra và rà soát văn bản quy phạm pháp luật, hộ tịch, thi hành án được thực hiện nền nếp, chất lượng. Các hoạt động hành chính tư pháp, bổ trợ tư pháp, trợ giúp pháp lý, công chứng, chứng thực từng bước phục vụ tốt hơn yêu cầu của đời sống dân sinh. Công tác phòng, chống tham nhũng có chuyển biến tích cực, góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội, xã hội nghề nghiệp bám sát nhiệm vụ chính trị, tập trung củng cố nâng cao chất lượng, đổi mới phương thức hoạt động, làm tốt công tác tham mưu giúp cấp ủy, chính quyền về công tác vận động quần chúng; động viên hội viên thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; tham gia xây dựng Đảng, chính quyền; thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi; đoàn kết giúp nhau xóa đói giảm nghèo và làm giàu chính đáng; đấu tranh phòng, chống tội phạm và tệ nạn xã hội; đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, đặc biệt là phong trào “cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới; tham gia vào quản lý xã hội và thực hiện pháp lệnh dân chủ, góp phần đảm bảo an sinh xã hội và phát triển kinh tế”.

5. Một số tồn tại.

Một số chỉ tiêu phát triển kinh tế đạt thấp so với kế hoạch đề ra; đặc biệt là ảnh hưởng nặng nề của cơn bão số 8 năm 2012 đã làm giảm mạnh giá trị sản xuất nông nghiệp của tỉnh; sản xuất công nghiệp, dư nợ tín dụng ngân hàng, sức mua hàng hóa, dịch vụ tăng trưởng còn chậm; tiêu thụ nông sản, ngao, thịt lợn gặp khó khăn, giá cả thấp; hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; số doanh nghiệp, chi nhánh giải thể, phá sản và tạm dừng hoạt động còn lớn; các dự án đầu tư hoàn thành đầu tư đi vào hoạt động đạt thấp.

Việc chấp hành Quy chế làm việc và thực hiện Chương trình công tác của Ủy ban nhân dân tỉnh ở một số địa phương, đơn vị chưa tốt; có đơn vị không thực hiện được theo kế hoạch đã đề ra; ở một số địa phương, đơn vị còn đề nghị phát sinh nhiều nội dung ngoài chương trình công tác năm đã được phê duyệt; nhiều văn bản chuyển đến Ủy ban nhân dân tỉnh không đúng thẩm quyền và chưa đảm bảo chất lượng làm ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo, điều hành.

Sự phối hợp của một số địa phương, đơn vị trong việc xây dựng chương trình, đề án trình Ủy ban nhân dân tỉnh còn chưa tốt; việc chuẩn bị nội dung chương trình, đề án chưa chu đáo, không gửi các đề án, dự án để Ủy ban nhân dân tỉnh và các ngành có liên quan nghiên cứu trước, làm ảnh hưởng đến chất lượng của hội nghị, cuộc họp.

Công tác chỉ đạo, điều hành của một số sở, ngành, địa phương còn thiếu cương quyết, chậm tham mưu ban hành, sửa đổi, bổ sung các văn bản chỉ đạo, chưa nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu; chưa chủ động nghiên cứu để tham mưu, đề xuất biện pháp chỉ đạo và giải quyết công việc mà còn né tránh, đùn đẩy trách nhiệm; giải quyết một số chế độ, chính sách cho doanh nghiệp chưa kịp thời.

Công tác quản lý đất đai, môi trường và trật tự xây dựng ở một số sở, địa phương còn hạn chế. Tình trạng lãng phí, phô trương, hình thức trong việc cưới, việc tang, lễ hội chưa giảm; vẫn còn tình trạng quá tải trong khám chữa bệnh; công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tại các trạm y tế xã ở một số địa phương triển khai chậm; tình trạng dạy thêm, học thêm trái quy định vẫn còn xảy ra; số lao động được đào tạo nghề và giải quyết việc làm đạt thấp so với kế hoạch. Tình hình khiếu nại, tố cáo còn tiềm ẩn phức tạp, nhất là các khiếu nại, tố cáo liên quan đến đền bù, thu hồi đất. Tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Công tác an toàn lao động ở một số đơn vị chưa được quan tâm đúng mức, nhất là công tác phòng chống cháy, nổ. Hiệu quả thực hiện cải cách hành chính và cơ chế “một cửa” nhất là về lĩnh vực đầu tư chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu.

II. NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM 6 THÁNG CUỐI NĂM 2013.

Theo dự báo của Chính phủ, tình hình kinh tế thế giới năm 2013 và những năm tiếp theo còn nhiều khó khăn, thách thức, diễn biến phức tạp. Kinh tế trong nước còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn: tổng cầu nền kinh tế sụt giảm, thu ngân sách gặp nhiều khó khăn; nợ xấu, tồn kho, khó khăn thị trường bất động sản và khả năng hấp thụ đầu vào của khu vực sản xuất chưa được cải thiện.

Để hoàn thành mục tiêu kế hoạch năm 2013 đã được Kỳ họp thứ 5 - Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XV thông qua, nhiệm vụ còn lại của 6 tháng cuối năm rất nặng nề: So với năm 2012, tăng trưởng GDP phải đạt 13,5% trở lên; giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản tăng 9,9%, trong đó nông nghiệp tăng 9,7% (trồng trọt tăng 11,5%, chăn nuôi tăng 7,2%, thủy sản tăng 10,7%); Công nghiệp và xây dựng tăng 15,1% (công nghiệp tăng 15,3%; xây dựng tăng 13%); Dịch vụ tăng 13,4%. Tổng mức bán lẻ tăng 23,8%, kim ngạch xuất khẩu 440 triệu USD; tổng vốn đầu tư phát triển xã hội đạt trên 13.640 tỷ đồng; tạo việc làm mới cho 17.190 lao động... Các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nhóm giải pháp điều hành phát triển kinh tế - xã hội đã được Kỳ họp thứ 5 - Hội đồng nhân dân tỉnh khóa XV thông qua và Chương trình hành động số 04/CTHĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP của Chính phủ, đồng thời cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:

1. Tập trung chỉ đạo, tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ phát triển sản xuất kinh doanh, trong đó chú trọng những ngành, lĩnh vực trọng tâm, có khả năng tăng trưởng cao để phấn đấu thực hiện đạt kế hoạch đề ra.

1.1. Về sản xuất nông, lâm và thủy sản.

Tập trung chỉ đạo gieo cấy, chăm sóc lúa mùa theo Đề án đã phê duyệt. Chủ động các biện pháp phòng ngừa, xử lý hiệu quả tình hình sâu bệnh hại cây trồng; phấn đấu đạt năng suất lúa mùa 62 tạ/ha trở lên; tiếp tục chỉ đạo xây dựng cánh đồng mẫu ở vụ mùa, vụ đông; xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ xây dựng cánh đồng mẫu trên phạm vi toàn tỉnh, đảm bảo tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho nhân dân. Chỉ đạo quyết liệt sản xuất vụ đông, tập trung gieo trồng các cây màu có giá trị kinh tế cao, phấn đấu đạt diện tích 40.000 ha. Chủ động ứng phó, ngăn chặn và giảm thiểu thiệt hại khi có thiên tai, bão lụt xảy ra.

Ban hành hướng dẫn thực hiện Quyết định số 16/2012/QĐ-UBND về cơ chế quản lý, thực hiện quy hoạch khu chăn nuôi tập trung và cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển chăn nuôi trang trại quy mô lớn trên địa bàn tỉnh; tạo điều kiện hỗ trợ các chủ trang trại đẩy mạnh tái đàn gia súc, gia cầm. Thực hiện tốt công tác kiểm dịch, kiểm soát vận chuyển, giết mổ gia súc, gia cầm; công tác tiêm phòng vắcxin phòng chống dịch vụ thu đông, không để dịch bệnh xảy ra; phấn đấu tăng trưởng chăn nuôi năm 2013 đạt 7% trở lên (kế hoạch là 6,7%).

Chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương, cơ sở làm tốt công tác chăm sóc và phòng trừ bệnh dịch đối với thủy sản nuôi; đa dạng hóa các đối tượng nuôi và phương thức nuôi mới. Mở rộng sản xuất nuôi ngao tại các tiểu vùng đã được quy hoạch; tổ chức thực hiện quy chế quản lý vùng nuôi ngao đảm bảo hiệu quả, thúc đẩy phát triển nuôi trồng thủy sản. Xây dựng và thực hiện hiệu quả Đề án phát triển các phương tiện khai thác xa bờ gắn với đảm bảo quốc phòng an ninh và bảo vệ môi trường biển, đẩy mạnh khai thác thủy sản ở tất cả các tuyến. Phấn đấu tăng trưởng thủy sản năm 2013 đạt 12% trở lên (kế hoạch là 11,2%).

Chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xây dựng nông thôn mới ở 78 xã đã được phân bổ vốn hỗ trợ. Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, vận động các doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài tỉnh, nhân dân địa phương tích cực tham gia đóng góp đầu tư xây dựng hạ tầng nông thôn mới. Triển khai đánh giá, công nhận xã đạt chuẩn quốc gia về nông thôn mới; phấn đấu hết năm 2013, toàn tỉnh có trên 09 xã hoàn thành 19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới. Xây dựng kế hoạch đầu tư xây dựng nông thôn mới năm 2014, rà soát, lựa chọn danh mục đầu tư phù hợp với khả năng nguồn vốn và xây dựng kế hoạch huy động nguồn vốn đầu tư từ các nguồn vốn huy động khác.

1.2. Về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và xây dựng cơ bản.

Tiếp tục thực hiện các chính sách miễn, giảm, gia hạn nộp thuế và cơ cấu lại nợ, khoanh nợ, miễn giảm lãi vay... cho doanh nghiệp theo Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ và các chính sách hỗ trợ, khuyến khích đầu tư của tỉnh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. Chủ động nắm bắt và kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh (nhất là về vốn, mặt bằng, nhân lực, thị trường tiêu thụ).

Đôn đốc đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án được chấp thuận đầu tư, sớm đưa vào sản xuất; chủ động phối hợp thực hiện, đảm bảo tiến độ các dự án lớn của Trung ương đang triển khai đầu tư trên địa bàn tỉnh; xúc tiến đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án mới (khai thác thử nghiệm than nâu, sản xuất Amôniac của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam...) để tăng cường năng lực sản xuất công nghiệp và tạo nguồn thu cho ngân sách tỉnh. Triển khai thực hiện tốt Đề án phát triển sản phẩm công nghiệp chủ lực, có lợi thế cạnh tranh. Rà soát, đánh giá phát triển nghề và làng nghề, có giải pháp hỗ trợ các làng nghề suy giảm, giữ vững phát triển nghề và làng nghề. Tiếp tục cải tạo, nâng cấp, xây dựng các công trình lưới điện trung, cao áp, chống quá tải, đảm bảo cấp điện ổn định, an toàn phục vụ sản xuất.

Tiếp tục thực hiện nghiêm túc, hiệu quả Nghị quyết Trung ương 3 về tái đầu tư công, Chỉ thị số 1792/CT-TTg và Chỉ thị số 27/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường quản lý đầu tư và khắc phục tình trạng nợ đọng xây dựng cơ bản. Đôn đốc đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân, thanh quyết toán kế hoạch vốn đầu tư năm 2013. Chỉ đạo quyết liệt công tác giải phóng mặt bằng và tiến độ thực hiện các dự án đầu tư, nhất là các dự án trọng điểm của tỉnh. Thực hiện điều chuyển kế hoạch vốn của các công trình, dự án chậm tiến độ để tập trung vốn cho các công trình, dự án trọng điểm, các dự án hoàn thành, đưa vào sử dụng trong năm 2013, phát huy hiệu quả đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát đánh giá đầu tư, đảm bảo tuân thủ đúng các quy định của Nhà nước về đầu tư, xây dựng, chống thất thoát, lãng phí.

Đẩy mạnh giải ngân các nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia được giao, đảm bảo đúng quy định của nhà nước. Tăng cường thu hút vốn ODA, NGO cho các dự án đầu tư về nước sạch, vệ sinh môi trường, cấp thoát nước, năng lượng nông thôn và các lĩnh vực về y tế, dạy nghề, thủy lợi...; đảm bảo vốn đối ứng và tháo gỡ khó khăn để đẩy nhanh tiến độ các dự án. Tiếp tục báo cáo, đề xuất hỗ trợ đầu tư với Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương để tăng nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh.

Triển khai xây dựng kế hoạch đầu tư trung hạn 2014-2015, xác định rõ nguồn lực có thể huy động và xây dựng danh mục các công trình, dự án theo thứ tự ưu tiên, các dự án cấp thiết, quan trọng, tác động lớn đến phát triển kinh tế-xã hội của địa phương để phân bổ đầu tư hợp lý, tránh dàn trải, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và trách nhiệm của các cấp, ngành trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư, không để nợ đọng xây dựng cơ bản.

Đẩy nhanh tiến độ hạ tầng khu Trung tâm y tế của tỉnh và các dự án đầu tư xây dựng Bệnh viện Đa khoa tỉnh, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Mắt, các trạm y tế xã; xây dựng trường Đại học Thái Bình, trường Trung học phổ thông Chuyên ở địa điểm mới và các cơ sở giáo dục, dạy nghề được bố trí kế hoạch vốn 2013. Đầu tư xây dựng một số công trình trên địa bàn thành phố Thái Bình theo tiêu chí đô thị loại II. Tăng cường xã hội hóa để huy động các nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa thể thao, vệ sinh môi trường. Phấn đấu hết năm 2013 có thêm 30 trạm y tế xã và 48 trường học đạt chuẩn Quốc gia.

Tập trung đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án trọng điểm của tỉnh như: Trung tâm Điện lực, Nhà máy sản xuất Amôn Nitrat, Dự án hệ thống thu gom và phân phối khí mỏ Hàm Rồng và mỏ Thái Bình giai đoạn I, Dự án xây dựng nhà thi đấu đa năng, Dự án xây dựng Đền thờ các liệt sĩ tại Thành phố Thái Bình,... lập dự án nắn tuyến đê biển số 8 từ K26+700 đến K31+700 kết hợp giao thông huyện Thái Thụy, huy động vốn để triển khai thực hiện.

Tổ chức tốt việc xúc tiến đầu tư theo kế hoạch; đẩy mạnh thu hút các dự án đầu tư quy mô lớn, công nghệ tiên tiến, môi trường sạch và đảm bảo quốc phòng an ninh; không thu hút đầu tư tràn lan, hiệu quả thấp. Tập trung thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp đã giải phóng mặt bằng và có khu xử lý nước thải tập trung theo Nghị quyết 35/NQ-CP của Chính phủ; tập trung giải phóng mặt bằng, xây dựng hạ tầng một số khu, cụm công nghiệp để tạo mặt bằng thu hút đầu tư.

1.3. Về thương mại, dịch vụ.

Thực hiện có hiệu quả các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường và giải quyết nợ xấu theo tinh thần Nghị quyết số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ. Đẩy mạnh phát triển thương mại, hỗ trợ doanh nghiệp phát triển thị trường, tiêu thụ sản phẩm thông qua việc thực hiện có hiệu quả công tác khuyến thương, phát triển thương mại điện tử; ưu tiên xúc tiến tiêu thụ sản phẩm nông sản (nhất là tiêu thụ ngao và thịt lợn) và các mặt hàng có lượng tồn kho cao. Thực hiện tốt các giải pháp hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa của tỉnh, nhất là các thị trường mới, tiềm năng. Thực hiện đồng bộ các biện pháp bình ổn giá, quản lý thị trường; ngăn chặn đầu cơ, tăng giá bất hợp lý.

Triển khai thực hiện có hiệu quả Quy hoạch tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của tỉnh đến năm 2020. Tăng cường xúc tiến thu hút đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thương mại theo hướng văn minh, hiện đại; khuyến khích xây dựng chợ đầu mối, chợ nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển và nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính ngân hàng, vận tải, bưu chính viễn thông, y tế, giáo dục.

2. Về công tác tài chính ngân sách.

Rà soát, nắm chắc các đối tượng và nguồn thu ngân sách trên địa bàn. Thưc hiện tốt công tác kiểm soát việc kê khai thuế, quyết toán thuế của các doanh nghiệp, đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời các khoản thuế, phí, lệ phí vào ngân sách nhà nước; quản lý chặt chẽ công tác hoàn thuế. Thực hiện quyết liệt các biện pháp chống thất thu, gian lận thương mại, chuyển giá để trốn thuế; tập trung xử lý các khoản nợ đọng thuế; tích cực khai thác các nguồn thu còn tiềm năng để tăng nguồn thu ngân sách. Phấn đấu tăng thu ngân sách so với dự toán được giao để bù đắp các phần giảm thu do thực hiện chính sách của Chính phủ và bổ sung vốn cho đầu tư phát triển.

Điều hành ngân sách chủ động, tích cực theo dự toán đã được phê duyệt, bảo đảm đúng chế độ quy định, tiết kiệm, chống lãng phí. Rà soát, sắp xếp các nhiệm vụ chi theo thứ tự ưu tiên; cắt giảm hoặc lùi thời gian thực hiện các nhiệm vụ chi chưa cần thiết. Đảm bảo nguồn thực hiện các chế độ, chính sách đã ban hành và đảm bảo an sinh xã hội. Tăng cường kiểm tra, giám sát, các khoản chi từ ngân sách nhà nước, thực hiện đúng định mức, tiết kiệm, hiệu quả. Đề nghị tạm ứng vốn từ ngân sách Trung ương và ngân sách tỉnh để thanh toán tối thiểu 60% vốn kiên cố hóa đê biển đã thực hiện; ứng vốn kế hoạch năm 2014 để đầu tư hỗ trợ các xã hoàn thành xây dựng nông thôn mới năm 2013.

3. Tiếp tục nâng cao chất lượng các lĩnh vực văn hóa xã hội và thực hiện có hiệu quả các chính sách đảm bảo an sinh xã hội.

Tổng hợp, đánh giá xếp loại thi đua năm học của từng bậc học. Tổ chức tốt công tác tuyển sinh trung học phổ thông, cao đẳng, đại học; chuẩn bị tốt cơ sở vật chất, đội ngũ cán bộ, giáo viên cho năm học mới và triển khai nhiệm vụ năm học 2013-2014. Tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo ở các cấp học, các biện pháp quản lý dạy thêm, học thêm.

Tăng cường quản lý, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân; tập trung chỉ đạo công tác phòng chống dịch bệnh, đặc biệt là các bệnh, dịch nguy hiểm, xử lý kịp thời không để dịch lan rộng; giám sát trọng điểm phòng chống HIV/AIDS. Tiếp tục tăng cường các hoạt động truyền thông, thanh tra, kiểm tra và cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm. Thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản và phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em tại trạm y tế xã. Tiếp tục đẩy mạnh công tác khám chữa bệnh bảo hiểm y tế tuyến xã, đào tạo cán bộ y tế cơ sở; nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở các tuyến. Mở rộng số lượng người tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế tự nguyện. Hoàn thành xây dựng các đề án: phát triển y tế biển đảo đến 2020; thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; thực hiện tiêu chí Quốc gia về y tế xã giai đoạn đến 2015-2020; quy hoạch phát triển ngành y tế; đề án bệnh viện vệ tinh của Bệnh viện đa khoa tỉnh và Bệnh viện Nhi... Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, lồng ghép cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình đến các địa phương có tỷ lệ sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 cao.

Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công, người nghèo và đối tượng bảo trợ xã hội. Tiếp tục thực hiện Đề án hỗ trợ, cải thiện nhà ở cho người có công với cách mạng. Xây dựng Đền thờ các Liệt sĩ và Làng trẻ SOS của tỉnh theo tiến độ được phê duyệt. Tiếp tục thực hiện tốt các chương trình, chính sách của Nhà nước về cho vay đối với học sinh, sinh viên, hỗ trợ hộ nghèo xây dựng nhà ở, vay vốn giải quyết việc làm, dạy nghề cho lao động nông thôn, xây dựng nhà ở cho công nhân lao động và người có thu nhập thấp. Tiếp tục thực hiện tốt công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm; giải quyết đầy đủ, kịp thời các chính sách đối với người lao động. Tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của toàn xã hội về bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình, bảo vệ, chăm sóc trẻ em.

Đẩy mạnh thực hiện nếp sống văn hóa ở khu dân cư gắn với xây dựng nông thôn mới. Tăng cường đầu tư xây dựng các thiết chế văn hóa cơ sở; tôn tạo, chống xuống cấp các di tích văn hóa, lịch sử. Triển khai có hiệu quả các biện pháp phòng, chống tệ nạn xã hội, những biểu hiện tiêu cực trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa. Đẩy nhanh tiến độ hoàn thành Nhà thi đấu đa năng và các công trình phục vụ Đại hội Thể dục thể thao toàn quốc lần thứ 7 năm 2014.

4. Đẩy mạnh triển khai các chương trình đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ và quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.

Tiếp tục triển khai có hiệu quả Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011 - 2020, Đề án phát triển khoa học và công nghệ tỉnh Thái Bình giai đoạn 2011 - 2015 và Chương trình khoa học và công nghệ phục vụ xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2012 - 2015. Tập trung đầu tư các nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trọng điểm, phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Khuyến khích hỗ trợ các doanh nghiệp cải tiến, đổi mới công nghệ và chuyển giao các tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất.

Hoàn thành quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020, kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2011-2015) ở cấp huyện và xã. Tăng cường công tác quản lý đất đai, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có đủ điều kiện. Tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường; tạm dừng thu hút đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp chưa có khu xử lý nước thải tập trung; xây dựng cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư khu xử lý nước thải tập trung ở các khu, cụm công nghiệp. Tiếp tục triển khai đầu tư xây dựng khu xử lý rác thải sinh hoạt gắn với lò đốt rác ở các thị trấn; xây dựng hệ thống xử lý nước thải, chất thải nguy hại, chất thải y tế ở các bệnh viện; đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án xử lý nước thải của thành phố Thái Bình; xử lý triệt để các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

5. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính; cải thiện môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh và thu hút đầu tư.

Tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp về cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh (PCI), duy trì chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh (PAPI), trong đó tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính, tập trung cải cách bộ máy và công chức, công vụ; hoàn thành sửa đổi, bổ sung Quyết định số 19/2009/QĐ-UBND và Quyết định số 21/2009/QĐ-UBND về thực hiện cơ chế một cửa liên thông trong hoạt động đầu tư; triển khai thực hiện bộ chỉ số theo dõi, đánh giá cải cách hành chính đối với huyện, thành phố và các sở, ngành của tỉnh; chủ động tháo gỡ vướng mắc về thủ tục hành chính, cơ chế, chính sách, nhân lực, mặt bằng...; tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung các cơ chế chính sách hiện hành của tỉnh, loại bỏ những rào cản đầu tư bất hợp lý; nghiên cứu xây dựng chính sách khuyến khích phát triển một số ngành, lĩnh vực có tác động lớn đến phát triển kinh tế của tỉnh... để tháo gỡ khó khăn, thu hút đầu tư. Tập trung chỉ đạo để sớm đưa Bộ phận Một cửa liên thông của tỉnh trong lĩnh vực đầu tư vào hoạt động. Tổ chức thực hiện nghiêm túc việc thi tuyển công chức năm 2013.

Hoàn thành xây dựng kế hoạch phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa giai đoạn 2011-2015. Triển khai thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa theo Quyết định số 1231/QĐ-TTg ngày 07/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ; chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn theo Nghị định số 61/NĐ-CP của Chính phủ; khuyến khích, tạo điều kiện phát triển mô hình hợp tác xã kiểu mới theo Luật Hợp tác xã năm 2012... Triển khai chương trình phối hợp với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt ... và tư vấn cải thiện môi trường kinh doanh nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thu hút đầu tư của tỉnh, hỗ trợ cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.

Các cấp, các ngành căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao tham mưu với Ủy ban nhân dân tỉnh để chỉ đạo, triển khai thực hiện kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ tại buổi làm việc với lãnh đạo tỉnh Thái Bình về nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.

6. Tăng cường công tác quốc phòng, an ninh, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội, phòng chống tham nhũng, lãng phí, tạo sự đồng thuận xã hội trong thực hiện nhiệm vụ năm 2013.

Giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tăng cường công tác đấu tranh, phòng chống các loại tội phạm, phòng chống ma túy. Tiếp tục thực hiện nghiêm chiến lược an ninh quốc gia, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; nâng cao chất lượng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; tăng cường quản lý nhà nước về công tác tôn giáo. Thực hiện tốt công tác giáo dục quốc phòng toàn dân; huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ an ninh biên giới vùng biển.

Tăng cường công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông; thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm về an toàn giao thông; thực hiện quyết liệt việc kiểm tra, xử lý các vi phạm về quản lý, sử dụng pháo, sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ và vật liệu nổ. Làm tốt công tác khám tuyển, gọi công dân nhập ngũ đợt II năm 2013 bảo đảm đủ chỉ tiêu và chất lượng; giải quyết kịp thời, đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo của công dân, giải quyết triệt để các vụ việc phức tạp, kéo dài. Tăng cường pháp chế; quán triệt, chủ động nắm tình hình, phát hiện và xử lý kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí.

Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến đường lối chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và của tỉnh để tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong triển khai thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2013. Tăng cường sự lãnh đạo về thông tin báo chí; thực hiện công khai, minh bạch và chủ động cung cấp thông tin về các vấn đề được xã hội quan tâm. Đề cao vai trò và trách nhiệm của các cơ quan thông tin đại chúng, bảo đảm thông tin khách quan, trung thực, đúng định hướng của Nhà nước; tạo không khí thi đua sôi nổi hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ năm 2013, góp phần quan trọng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015 của tỉnh./.

 

 

Nơi nhận:
- Chính phủ;
- Văn phòng Chính phủ;
- TT tỉnh ủy, TT HĐND tỉnh;
- Đại biểu HĐND tỉnh;
- Các sở, ban, ngành;
- UBND huyện, thành phố;
- Lưu: VT, TH.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Phạm Văn Ca

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Báo cáo 67/BC-UBND tình hình phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm và mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu 6 tháng cuối năm 2013 do tỉnh Thái Bình ban hành

  • Số hiệu: 67/BC-UBND
  • Loại văn bản: Văn bản khác
  • Ngày ban hành: 11/07/2013
  • Nơi ban hành: Tỉnh Thái Bình
  • Người ký: Phạm Văn Ca
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản