Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
BỘ NỘI VỤ-BỘ TÀI CHÍNH-BỘ Y TẾ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 5-TT/LB | Hà Nội , ngày 07 tháng 2 năm 1975 |
Hội đồng Chính phủ, trong Nghị quyết số 3524-NC ngày 17-10-1961 và một số văn bản khác đã quy định chế độ khám bệnh, chữa bệnh cho thương binh, bệnh binh; và trong Thông tư số 84-TTg ngày 25-8-1963 đã quy định chế độ khám bệnh, chữa bệnh đối với công nhân, viên chức, quân nhân về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động.
Căn cứ vào các quy định của Hội đồng Chính phủ, Liên Bộ Y tế - Nội vụ - Tài chính đã ra Thông tư số 19-TT/LB ngày 19-3-1962, Thông tư số 25TT/LB ngày 12-8-1969 hướng dẫn cụ thể về chế độ khám bệnh, chữa bệnh đối với các đối tượng nói trên.
Ngày 25-4-1974, Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 91-TTg về việc chấn chỉnh tổ chức khám bệnh, chữa bệnh và quy định mức y dược phí cho công nhân, viên chức Nhà nước, thương binh và công nhân, viên chức Nhà nước, thương binh và công nhân, viên chức, quân nhân về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động. Liên Bộ Y tế - Tài chính đã ra Thông tư số 32-TT/LB ngày 24-12-1974 hướng dẫn thực hiện nghị quyết nói trên.
Riêng đối với việc khám bệnh, chữa bệnh và quản lý, sử dụng kinh phí về việc này cho thương binh, những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh và cán bộ, công nhân, viên chức, quân nhân về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động, Liên Bộ Y tế - Nội vụ - Tài chính hướng dẫn thêm một số điểm như sau:
I- NHỮNG ĐỐI TƯỢNG ĐƯỢC HƯỞNG CHẾ ĐỘ KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH NHƯ CÔNG NHÂN, VIÊN CHỨC TẠI CHỨC
1. Thương binh (đã được xếp hạng thương tật và cấp sổ trợ cấp hàng tháng);
2. Những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh (đã được xếp hạng thương tật và cấp sổ trợ cấp hàng tháng);
3. Cán bộ, công nhân, viên chức, quân nhân đã về nghỉ hưởng trợ cấp hưu trí hoặc trợ cấp mất sức lao động hàng tháng;
4. Quân nhân mất sức lao động 60% trở lên đã về gia đình, đang được hưởng chế độ trợ cáp hàng tháng theo Nghị định số 500-ND/LB của Liên Bộ Cứu tế xã hội - Tài chính - Quốc phòng ngày 12-11-1958 hoặc Nghị định số 523-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 6-12-1958;
5. Bệnh binh và quân nhân phục viên bị vết thương, bệnh cũ trong thời gian tại ngũ tái phát (đã được đơn vị cũ cấp giấy chứng nhận phục viên, chứng nhân thương tật, bệnh tật rõ ràng).
Đính kèm theo Thông tư này có bản tổng hợp các chế độ cụ thể về việc khám bệnh, chữa bệnh cho các đối tượng nói trên.
II. QUY ĐỊNH VỀ TỔ CHỨC VIỆC KHÁM BỆNH, CHỮA BỆNH
- Đối với những đối tượng nói trên về địa phương.
A. QUY ĐỊNH TỔ CHỨC KHÁM BÊNH, CHỮA BỆNH VÀ QUẢN LÝ SỬ DỤNG ĐỊNH MỨC Y DƯỢC PHÍ 24 ĐỒNG:
1. Tuyến điều trị:
a) Các đối tượng nói trên cư trú ở địa phương nào, khi ốm đau được khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế địa phương đó.
b) Bệnh nhân đến khám bệnh tại bệnh viện huyện, khu phố, thị xã, khu vực do trạm y tế xã, tiểu khu giới thiệu; đến bệnh viện tỉnh, thành phố hoặc bệnh viện chuyên khoa do phòng khám bệnh viên huyện, khu phố, thị xã, khu vực giới thiệu; đến viện,. bệnh viện trung ương do bệnh viện tỉnh, thành phố giới thiệu.
Khi đi khám bệnh cần mang theo:
- Giấy giới thiệu của y tế,
- Sổ sức khoẻ,
- Sổ trợ cấp thương binh hoặc sổ trợ cấp hưu trí, sổ trợ cấp mất sức lao động, giấy chứng nhận quân nhân phục viên...
Những người mắc bệnh lao phổi, phong hay tâm thần, ngoài sổ sức khoẻ còn có sổ điều trị ngoại trú do bệnh viện chuyên khoa cấp để tiện việc cấp thuốc và theo dõi điều trị. (Bộ Y tế sẽ hướng dẫn riêng về mẫu số sức khoẻ cho các đối tượng nói trên).
c) Một số trường hợp ngoại lệ:
- Nếu là trường hợp cấp cứu thì bệnh nhân thuộc các đối tượng nói trên được đưa đến bệnh viên gần nhất (kể cả bệnh viện huyện, tỉnh khác hoặc bệnh viện trung ương). Bệnh viện có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ đã quy định như đối với các đối tượng thuộc địa phương mình quản lý.
- Nếu bệnh nhân là cán bộ về hưu hoặc mất sức lao động thuộc tiêu chuẩn bệnh viện Việt - Xô về cư trú ở địa phương, khi ốm đâu thì đến phòng khám bệnh viện huyện, khu phố, thị xã nơi mình cư trú để khám bệnh và chữa bênh. Trường hợp vượt khả năng chẩn đoán và điều trị của tuyến huyện, khu phố, thị xã thì giới thiệu lên phòng khám bệnh viện tỉnh, thành phố; vượt khả năng của tuyến tỉnh, thành phố mới giới thiệu lên bệnh viện Việt - Xô. Riêng những người thuộc cơ quan trung ương về cư trú tại Hà Nội vấn đến phòng khám bệnh viện Việt - Xô để khám bệnh, chữa bệnh.
2. Quy định quản lý sử dụng kinh phí 24 đồng:
a) Trạm y tế xã, tiểu khu:
Trạm y tế xã, tiểu khu có trách nhiệm quản lý sức khoẻ và khám bệnh, chữa bệnh thông thường cho các đối tượng nói trên. Trạm ý tế xã, tiểu khu được lập 1 tủ thuốc riêng do bệnh viện huyện, khu phố hoặc phòng y tế (nơi không có bệnh viện) cấp kinh phí theo tiêu chuẩn 6 đồng bình quân một người một năm (trong định mức y dược phí 24 đồng). Thuốc cấp phát tại chỗ không được ghi đơn cho bệnh nhân; trạm y tế xã, tiểu khu không quản lý các đối tượng thuộc diện khám bệnh, chữa bệnh theo tiêu chuẩn bệnh viện Việt - Xô (trừ những xã ở quá xa bệnh viện huyện).
b) Các phòng khám chữa bệnh viện huyện, thị xã, khu phố, khu vực:
1. Các phòng khám bệnh viện huyện, thị xã, khu phố, khu vực có trách nhiệm quản lý, sử dụng số tiền 18 đồng bình quân một người một năm (trong định mức y dược phí 24 đồng). Khoản kinh phí này dùng để chữa bệnh cho các đối tượng nói trên khi mắc các bệnh cấp tính mà chưa đến mức phải vào nằm bệnh viện, mắc bệnh phụ khoa, mắc một số bệnh mãn tính không quy định trong Thông tư số 32-TT/LB ngày 24-12-1974 của Liên Bộ Y tế - Tài chính và khi mắc những bệnh xã hội, bệnh mãn tính tuy có quy định trong thông tư Liên Bộ nói trên nhưng chưa được chuẩn đoán rõ ràng về lâm sàng và cận lâm sàng.
Sau khi khám bệnh xong, bệnh nhân được cấp phát thuốc ngay tại chỗ, không bồi dưỡng bằng tiền và không được cấp các loại rượu bổ, các loại cao, sâm, nhung, quế, các sản phẩm sữa ong, mật ong, v.v... đắt tiền.
Trường hợp vượt khả năng chẩn đoán và điều trị tuyến huyện, thị xã, khu phố, khu vực gửi bệnh nhân lên phòng khám bệnh tuyền trên (theo tuyến điều trị đã quy định ở điểm 1 phần A).
2. Các phòng khám bệnh viện huyện, thị xã, khu phố, khu vực còn có trách nhiệm quản lý và sử dụng toàn bộ định mức y dược phí 24 đồng để chi về thóc thông thường, thuốc phụ khoa và thuốc ở phòng khám bệnh đối với đối tượng được hưởng tiêu chuẩn khám bệnh, chữa bệnh ở bệnh viên Việt - Xô hiện về cư trú ở địa phương.
c) Các phòng khám bệnh viện tỉnh, thành phố, trung ương:
Các phòng khám bệnh viện tỉnh, thành phố, trung ương có trách nhiệm khám bệnh, chẩn đoán xác minh về tuyến dưới thực hiện theo phác đồ ban hành trong địa phương.
B. QUY ĐỊNH VIỆC CHỮA BỆNH NGOẠI TRÙ ĐỐI VỚI CÁC BỆNH XÃ HỘI, MÃN TÍNH TẠI PHÒNG KHÁM BỆNH VIỆN:
Việc chữa bệnh ngoại trú đối với các bệnh xã hội, mãn tính tại phòng khám bệnh viện cho các đối tượng nói trên được áp dụng theo nội dung thông tư số 32-TT/LB ngày 24-12-1974 của Liên Bộ Y tế - Tài chính đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Kinh phí chữa bệnh xã hội và kinh niên mãn tính được quy định ngoài định mức y dược phí 24 đồng nói trên.
C. QUY ĐỊNH VIỆC CHỮA BỆNH TẠI BỆNH VIỆN:
a) Bệnh nhân do ốm đau nặng được giới thiệu đến bệnh viện huyện, tỉnh, thành phố, các bệnh viện chuyên khoa trong tỉnh, thành phố hoặc các viện, bệnh viện Trung ương thì các bệnh viện cần tạo điều kiện thuận lợi để khám bệnh và thu nhận các đối tượng nói trên vào chữa bệnh tại bệnh viện, bệnh binh bị vết thương, bệnh cũ trong thời gian tại ngũ tái phát.
b) Đối với những người bị bệnh tâm thần được giới thiệu đến bệnh viện tỉnh, bệnh viện tâm thần trung ương, nếu bệnh viện chưa có điều kiện thu nhận thì các bác sĩ, y sĩ cần khám và định bệnh chu đáo, hướng dẫn cho các bệnh viện tuyến dưới cách điều trị. Riêng đối với thương binh, bệnh binh thì cần giới thiệu về các Sở, Ty thương binh xã hội thành phố, tỉnh để giải quyết cho anh chị em được hưởng trợ cấp theo chế độ hiện hành đối với thương bệnh binh bị bệnh tâm thần đang ở địa phương.
- Đối với những đối tượng nói trên về các khu vực khác.
1. Thương binh, những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh, nếu là công nhân, viên chức Nhà nước: áp dụng như đối với công nhân, viên chức Nhà nước.
2. Thương binh, những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh đang theo học ở các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và các trường chuyên môn, nghiệp vụ khác: theo quy định như đối với cán bộ, công nhân, viên chức đang công tác ở nhà trường.
3. Những người về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động cư trú ở các nông trường trung ương và địa phương: theo quy định như đối với công nhân viên chức đang công tác và sản xuất ở nông trường.
4. Đối với thương binh, bệnh binh ở các trại trường thương binh và những người về hưu, mất sức lao động ở các trại an dưỡng: Liên Bộ sẽ quy định riêng định mức y dược phí và tổ chức khám bệnh, chữa bệnh cho phù hợp với tình hình sức khoẻ của các đối tượng nói trên. Trong lúc chờ đợi quy định mới, việc khám bệnh, chữa bệnh và định mức y tế phí cho các đối tượng nói trên tạm thời vẫn áp dụng như cũ, nhưng phải thực hiện một cách đúng đắn.
III. CHẾ ĐỘ DỰ TRÙ VÀ THANH TOÁN CÁC LOẠI KINH PHÍ
- Đối với những đối tượng nói trên về địa phương.
1. Hàng quý, hàng năm các Sở, Ty thương binh và xã hội có trách nhiệm thông báo cho các Sở, Ty y tế, tài chính số lượng các đối tượng nói trên (số hiện có và số dự kiến sắp về).
Riêng đối với quân nhân phục viên về địa phương bị vết thương hoặc bệnh cũ trong thời gian tại ngũ tái phát thì căn cứ vào số người đã chữa bệnh của năm trước mà ước tính số lượng cho sát.
2. Các Sở, Ty y tế căn cứ vào số lượng các đối tượng nói trên đã được thông báo mà lập dự trù kinh phí theo định mức bình quân cho một người một năm là 24 đồng. Khi lập dự trù xong, các Sở, Ty y tế cùng với Sở, Ty thương binh và xã hội, tài chính trình Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố xét duyệt và quyết định.
3. Các Sở, Ty tài chính căn cứ vào mức kinh phí đã được Uỷ ban hành chính tỉnh, thành phố quyết định, cấp phát đầy đủ và kịp thời số kinh phí đó cho các Sở, Ty y tế.
4. Các Sở, Ty y tế có trách nhiệm phân phố kinh phí này cho phòng khám bệnh viện huyện, thị xã, khu phố, khu vực hoặc phòng y tế (nơi không có bệnh viện) theo đúng số lượng các đối tượng nói trên hiện đang cư trú tại địa phương.
5. Phòng thương binh và xã hội huyện, thị xã, khu phố có trách nhiệm thông báo số lượng các đối tượng nói trên đang cư trú tại từng xã, tiểu khu cho phòng khám bệnh viện huyện, thị xã, khu phố, khu vực hoặc phòng y tế (nơi không có bệnh viện) biết để phân phối định mức kinh phí bình quân 24 đồng một người một năm như sau:
- 6 đồng bình quân một người một năm cho trạm y tế xã, tiểu khu để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đã quy định ở điểm 2 phần B mục II nói trên.
- 18 đồng bình quân một người một năm cho phòng khám bệnh viện huyện, thị xã, khu phố, khu vực hoặc phòng y tế (nơi không có bệnh viện) để thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình đã quy định ở điểm 3 phần B mục II nói trên. Riêng các đối tượng khám chữa bệnh theo tiêu chuẩn bệnh viện Việt - Xô về địa phương được dự trù 24 đồng bình quân một người một năm (trừ các xã ở quá xa huyện).
6. Định mức y dược phí 24 đồng nói trên do ngân sách địa phương đài thọ và do ngành ý tế trực tiếp quản lý.
7. Hàng quý, hàng năm, ngành y tế quyết toán với ngành tài chính theo thực chi căn cứ vào số lượng đối tượng thực tế.
8. Các khoản chi về tàu xe, phụ cấp lưu trú, tiền trợ cấp cho các đối tượng nói trên khi đi khám bệnh, chữa bệnh (kể cả ngoại trú, nội trú), chi về tiền trợ cấp cho thương binh, bênh binh bị bệnh tâm thần ở địa phương, chi về trợ cấp chôn cất đều do ngành thương binh và xã hội phụ trách.
Hàng năm các Sở, Ty thương binh và xã hội lập dự trù kinh phí về các khoản chi nói trên để trình Uỷ ban hành chính, thành phố xét duyệt.
- Đối với những đối tượng nói trên về các khu vực khác.
1. Các cơ sở có các đối tượng nói trên mà kinh phí do ngân sách trung ương đài thọ (trường đại học và trung học chuyên nghiệp và các trường chuyên môn nghiệp vụ khác do trung ương trực tiếp quản lý có thương binh, bệnh binh đang theo học) đóng ở địa phương nào thì phải trích nộp vào ngân sách địa phương đó số tiền y dược phí 24 đồng bình quân một người một năm để được phân phối thuốc và được khám bệnh, chữa bệnh như đối với công nhân, viên chức Nhà nước. Riêng khoản kinh phí để chữa ngoại trú thì do ngân sách trung ương trợ cấp cho ngân sách địa phương.
2. Các cơ sở có các đối tượng nói trên mà kinh phí do ngân sách địa phương đài thọ (bao gồm cả những người cư trú ở các công, nông, lâm trường, xí nghiệp) thì dự trù y dược phí 24 đồng bình quân một người một năm theo quy định trong Thông tư số 32-TT/LB ngày 24-12-1974 của Liên Bộ Y tế - Tài chính.
IV. TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CẤP CÁC NGÀNH
Để giúp Uỷ ban hành chính địa phương lãnh đạo và tổ chức thực hiện tốt công tác khám bệnh, chữa bệnh cho các đối tượng nói trên, các Sở, Ty y tế, thương binh và xã hội, tài chính cần phối hợp chặt chẽ để chỉ đạo ngành dọc của mình thực hiện đầy đủ những quy định trong thông tư này theo chức năng, nhiệm vụ của từng ngành như sau:
1. Y tế: Quản lý sức khoẻ, thực hiện công tác khám bệnh chữa bệnh; quản lý kinh phí thuốc men và bồi dưỡng cho các đối tượng nói trên.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên đây, cần làm cho các bác sĩ, y sĩ trực tiếp làm công tác khám bênh, chữa bệnh nắm vững chủ trương chính sách của Đảng, Chính phủ và các chế độ khám bệnh, chữa bệnh cho các đối tượng nói trên, để nâng cao ý thức trách nhiệm phục vụ của người thầy thuốc.
2. Thương binh và xã hội: Nắm số lượng các đối tượng để cung cấp cho cơ qua y tế lập dự trù hàng quý, hàng năm. Ngoài ra, cơ quan thương binh và xã hội cần phối hợp chặt chẽ với cơ quan y tế, tài chính để kiểm tra, đôn đốc, rút kinh nghiệm việc thực hiện chế độ; phổ biến chế độ khám bệnh, chữa bệnh trong các đối tượng nói trên để góp phần thực hiện đúng chế độ.
3. Tài chính: Hướng dẫn, giúp đỡ các cơ quan y tế và thương binh xã hội quản lý các khoản kinh phí đã quy định; duyệt cấp kinh phí đầy đủ và kịp thời theo quy định trên đây, đồng thời phối hợp với cơ quan y tế, thương binh và xã hội kiểm tra việc sử dụng kinh phí bảo đảm thi hành đúng chính sách, đúng chế độ, chống tham ô lãng phí.
Công tác khám bệnh, chữa bệnh là một khâu rất quan trọng trong chính sách của Đảng, Chính phủ đối với thương binh, bệnh binh, những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh, cán bộ, công nhân, viên chức, quân nhân về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động. Liên Bộ yêu cầu Uỷ ban hành chính các cấp, các ngành tăng cường hơn nữa việc lãnh đạo, chỉ đạo tốt công tác này.
Việc khám bệnh và chữa bệnh cho các gia định liệt sĩ và gia đình thương binh có thương tật nặng vẫn áp dụng theo các quy định hiện hành.
Hoàng Văn Diệm (Đã ký) | Nguyễn Văn Tín (Đã ký) | Lê Đình Hiệp (Đã ký) |
- 1Thông tư liên bộ 19-TT/LB năm 1962 Quy định chế độ chữa bệnh đối với thương binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong bị thương tật, bệnh binh và quân nhân phục viên đã về địa phương do Bộ Nội vụ- Bộ Y tế- Bộ Tài chính ban hành
- 2Quyết định 91-TTg năm 1974 về việc chấn chỉnh tổ chức khám bệnh, chữa bệnh và định mức y dược phí cho công nhân, viên chức Nhà nước do Thủ Tướng Chính Phủ ban hành
- 3Nghị định 523-TTg năm 1958 về chế độ trợ cấp dài hạn cho quân nhân tình nguyện đã phục viên từ ngày hòa bình lập lại đến nay bị bệnh kinh niên tái phát ốm, yếu không còn khả năng lao động do Thủ Tướng Chính Phủ ban hành.
- 4Nghị định 500-NĐ/LB năm 1958 quy định thể lệ trợ cấp dài hạn cho những quân nhân tình nguyện được phục viên vì ốm yếu mà không có khả năng lao động do Bộ trưởng Bộ Cứu tế Xã hội- Bộ trưởng Bộ Tài chính- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành.
- 5Nghị định 63/2002/NĐ-CP về việc khám bệnh, chữa bệnh cho thân nhân sĩ quan tại ngũ
- 6Quyết định 257-QĐ/TW năm 2014 về Quy trình giải quyết thủ tục đi khám, chữa bệnh ở nước ngoài đối với cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý do Ban Chấp hành Trung ương ban hành
Thông tư liên tịch 5-TT/LB năm 1975 hướng dẫn chế độ khám bệnh, chữa bệnh đối với thương binh, những người bị thương được hưởng chính sách như thương binh, bệnh binh và cán bộ, công nhân, viên chức, quân nhân về hưu hoặc nghỉ việc vì mất sức lao động do Bộ y tế- Bộ nội vụ- Bộ tài chính ban hành
- Số hiệu: 5-TT/LB
- Loại văn bản: Thông tư liên tịch
- Ngày ban hành: 07/02/1975
- Nơi ban hành: Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Y tế
- Người ký: Hoàng Văn Diệm, Lê Đình Hiệp, Nguyễn Văn Tín
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 3
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra