TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO-BỘ NỘI VỤ-BỘ TƯ PHÁP-TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 10/TTLN | Hà Nội, ngày 25 tháng 10 năm 1990 |
HƯỚNG DẪN GIẢI QUYẾT MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẤP BÁCH VỀ TÍN DỤNG
Để góp phần giải quyết tốt một số vấn đề cấp bách về tín dụng, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của người gửi tiền, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn như sau:
Trong các trường hợp Ban xử lý chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để xử lý về hình sự mà chưa áp dụng hoặc áp dụng chưa triệt để các biện pháp cưỡng chế hành chính, thì cơ quan điều tra phối hợp với Ban xử lý kiên quyết áp dụng ngay biện pháp kê biên tài sản của người có trách nhiệm trả nợ và bán đấu giá lấy tiền trả cho người gửi.
Nếu Ban xử lý chưa kê biên được tài sản bị phân tán, giấu diếm, thì tiếp tục điều tra và khi phát hiện được cần phải kiên quyết kê biên ngay tài sản đó. Đối với các tài sản đã kê biên được, cơ quan điều tra giao cho Ban xử lý đấu giá mà không cần phải chờ kết quả xét xử vụ án. Các Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Trọng tài kinh tế phối hợp chặt chẽ với các cơ quan điều tra, Ngân hàng, Ban xử lý để giải quyết tốt việc khấu trừ vào tiền gửi ngân hàng, kê biên, bán đấu giá tài sản và trả cho người bị thiệt hại.
2. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân và Trọng tài kinh tế.
Chủ thể của các hợp đồng về tín dụng có thể là cá nhân có đăng ký kinh doanh, có tài khoản tại ngân hàng, cá nhân không có đăng ký kinh doanh, pháp nhân.
Hợp đồng về tín dụng giữa tổ chức tín dụng với pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh vay tiền nhằm mục đích sản xuất kinh doanh, là hợp đồng kinh tế; tranh chấp về loại hợp đồng này là tranh chấp về hợp đồng kinh tế. Loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Trọng tài kinh tế.
Hợp đồng về tín dụng giữa tổ chức tín dụng với pháp nhân hoặc cá nhân vay tiền không nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh là hợp đồng dân sự; tranh chấp về loại hợp đồng này là tranh chấp về hợp đồng dân sự. Loại tranh chấp này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
3. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh và Tòa án cấp huyện.
Do tính chất cấp bách của tình hình, cho nên Tòa án cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tín dụng, cũng như về chơi hụi (họ), có mức thiệt hại dưới 20 triệu đồng và thuộc trường hợp được áp dụng các khoản của điều luật có mức hình phạt cao nhất từ 7 năm tù trở xuống. Cần chú ý là việc tạm thời giao thẩm quyền cho các Tòa án cấp huyện đối với các vụ án hình sự theo mức thiệt hại này chỉ áp dụng đối với các tội quy định tại các điều 134, 135, 137, 157, 158, 174 Bộ luật Hình sự trong trường hợp không có các tình tiết định khung hình phạt khác (như tái phạm nguy hiểm…).
Tòa án cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án hình sự về tín dụng có mức thiệt hại từ 20 triệu đồng trở lên. Phạm tội gây thiệt hại từ 20 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng là phạm tội trong trường hợp nghiêm trọng. Phạm tội gây thiệt hại từ 50 triệu đồng trở lên là phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng. Tùy trường hợp cụ thể mà Tòa án áp dụng các khoản tương ứng của điều luật đối với kẻ phạm tội.
a. Các tổ chức tín dụng được coi là các hợp tác xã tín dụng; do đó, tiền của các tổ chức tín dụng này là tài sản xã hội chủ nghĩa, chiếm đoạt tài sản của các tổ chức tín dụng này là chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa; gây thiệt hại về tài sản cho tổ chức tín dụng là gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa; các thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban chủ nhiệm tổ chức tín dụng là người có chức vụ của các tổ chức này.
b. Đối với người vay tiền của tổ chức tín dụng:
- Người vay tiền của tổ chức tín dụng nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh, giải quyết các vấn đề về đời sống… có đảm bảo trả nợ sòng phẳng, khi vay tiền không có ý định chiếm đoạt, nhưng khi đến hạn phải trả nợ mới không có ý định trả nợ hoặc bỏ trốn để trốn tránh việc trả nợ, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 135 Bộ luật Hình sự.
- Người vay tiền của tổ chức tín dụng mà có thủ đoạn gian dối (như: đem tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình để thế chấp khi vay tiền; man khai giá trị của tài sản để được vay nhiều tiền; mang một tài sản để thế chấp ở nhiều nơi v.v…) để được vay tiền của tổ chức tín dụng, nếu sau đó chiếm đoạt tiền được vay thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 134 Bộ luật Hình sự; còn nếu không có ý định chiếm đoạt, nhưng không trả được nợ vì những lý do chính đáng thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 137 Bộ luật Hình sự.
- Đối với người vay tiền của tổ chức tín dụng nhằm mục đích phát triển sản xuất, kinh doanh… không có thủ đoạn gian dối khi vay tiền, mà không trả nợ được vì thực sự khó khăn về kinh tế, không có biểu hiện chây ỳ, trốn tránh việc trả nợ, thì chỉ xử lý về dân sự.
c. Đối với các thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban chủ nhiệm tổ chức tín dụng:
- Nếu những người này buông lỏng quản lý, không kiểm tra, kiểm soát… việc thực hiện các quy định của Nhà nước, Ngân hàng về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng, về cho vay, thế chấp tài sản gây mất mát, thất thoát tài sản, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của tổ chức tín dụng, thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 139 Bộ luật Hình sự.
- Nếu những người nói trên cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước, của Ngân hàng về huy động vốn, về lãi suất cho vay… (như: tăng mức lãi suất huy động tiền gửi quá cao so với lãi suất tiết kiệm của Ngân hàng để cạnh tranh với Ngân hàng, cho vay tiền không có tài sản thế chấp, không thu giữ tài sản thế chấp; cho vay không đúng đối tượng; không làm đúng các quy định về kế toán, thống kê…) thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng theo Điều 174 Bộ luật Hình sự.
- Nếu những người nói trên lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của tổ chức tín dụng (là tài sản thuộc quyền sở hữu của tập thể các cổ đông) thì họ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa theo Điều 133 Bộ luật Hình sự.
5. Về lãi suất tiền gửi, tiền cho vay
Các tổ chức tín dụng phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Ngân hàng về lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền cho vay. Do đó cần áp dụng các mức lãi suất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời gian tương ứng để tính tiền lãi cho người gửi tiền vào cho tổ chức tín dụng. Khi giải quyết loại việc này cần thông báo cho Ủy ban nhân dân để Ủy ban nhân dân yêu cầu cơ quan Ngân hàng phải có trách nhiệm phối hợp, tham gia đầu trong việc quản lý tài sản ở Ngân hàng, tính toán tiền lãi… chứ không phải Ngân hàng chỉ tham gia với tư cách là người giám định.
Trong trường hợp tổ chức tín dụng nâng mức lãi suất quá cao trái với quy định của Ngân hàng thì phần thu nhập do vượt quá lãi suất quy định là thu nhập không hợp pháp phải được thu hồi để trả cho người gửi tiền.
Nếu khi kê biên tài sản mà có người khác (bố, mẹ, vợ, chồng, con…) phản đối việc kê biên vì họ nêu lý do tài sản bị kê biên là của họ, thì cần yêu cầu họ xuất trình các tài liệu chứng minh là tài sản bị kê biên thuộc quyền sở hữu của họ. Cơ quan Công an, Trọng tài kinh tế, Tòa án tùy trường hợp có thể tiến hành kê biên tài sản và giải thích cho họ về quyền khiếu nại quyết định kê biên.
Đối với những nhà mà bố, mẹ, anh, chị, em của người đã thế chấp nhà tuy đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu, nhưng họ lại ở chỗ khác hoặc ở chung trong một phần riêng biệt của nhà đã thế chấp và việc thế chấp nhà có xác nhận của Ủy ban nhân dân, thì vẫn kê biên, xử lý để thu tiền trả cho người gửi. Nếu có khiếu nại về việc thế chấp nhà thì Tòa án sẽ giải quyết riêng theo thủ tục tố tụng dân sự.
Trong trường hợp có đủ căn cứ xác định là người vay tiền, thành viên Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ban chủ nhiệm tổ chức tín dụng đã mua tài sản (nhà, xe v.v… nhưng họ chưa làm đầy đủ thủ tục trước bạ, sang tên để chuyển quyền sở hữu nên tài sản về người đứng tên chủ sở hữu cũ và khi tài sản bị kê biên mà người này đến đòi lại tài sản đó vậy thì không trả lại, mà vẫn kê biên để bán đấu giá.
Sau khi đã kê biên tài sản, giải quyết các khiếu nại (nếu có) thì tài sản đó cần được đưa ra bán đấu giá ngay.
11. Khi xử lý nhà bị kê biên cần chú ý những điểm sau:
Đối với nhà xây dựng trái phép (xây trên đất không được Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cho phép, xây trên đất mua bán trái phép, cải tạo, cơi nới, mở rộng nhà ở trái phép nhà thuê của người khác v.v…) tùy trường hợp cụ thể Ủy ban nhân dân cấp quận hoặc thành phố căn cứ vào quy hoạch chung để có quyết định xử lý cho phù hợp.
Nếu nhà làm trái phép trên đất được quy hoạch để xây dựng nhà ở, thì Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cho phép bán nhà và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của người mua được nhà đó, để họ yên tâm bỏ tiền ra mua.
Nếu nhà làm trái phép trên đất quy hoạch để xây dựng các công trình công cộng nhưng chưa xây dựng, thì cũng cho phép bán nhà đó và Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cho phép người mua nhà được thuê đất. Khi bán nhà phải thông báo cho người mua biết là nhà đó chỉ được phép tồn tại trong thời gian nhất định để người mua căn cứ vào nhu cầu, vào điều kiện cụ thể mà quyết định mua hay không mua theo giá thích hợp với loại nhà này.
Phần diện tích nhà mà người có nhà bị kê biên cơi nới, cải tạo, mở rộng…, dù có giấy phép hoặc không có giấy phép, dẫu bị kê biên, nếu họ là người thuê nhà, thì vận động chủ nhà mua lại phần diện tích đó, sau đó Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cho phép người mua làm thủ tục xác nhận quyền sở hữu đối với phần diện tích mua đó.
Vì nhiều lý do khác nhau mà người muốn mua nhà thường ngại mua trực tiếp nhà của người có nhà bị kê biên, nên nếu nhà bị kê biên đưa ra bán đấu giá mà không có ai mua thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chỉ đạo cho Ngân hàng, xí nghiệp quản lý nhà bỏ tiền ra mua theo đúng giá trị của nhà như ý kiến chỉ đạo của Hội đồng Bộ trưởng, để sử dụng, cho thuê hoặc bán lại cho các cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhu cầu.
Nếu người vay mang một tài sản thế chấp với nhiều tổ chức tín dụng (tài sản có giá trị bằng hoặc lớn hơn số tiền đã vay), thì khi bán đấu giá tài sản thế chấp, các tổ chức tín dụng được nhận lại tiền cho vay từ tiền bán tài sản đó. Nếu tiền bán tài sản không đủ để trả nợ cho tất cả các tổ chức tín dụng đó, thì thanh toán tiền bán tài sản theo điều lệ cho vay.
Các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Tòa án, Trọng tài kinh tế thi hành đúng Thông tư này và báo cáo kịp thời những vướng mắc để các ngành hữu quan hướng dẫn giải quyết.
Thông tư liên ngành 10/TTLN năm 1990 giải quyết một số vấn đề cấp bách về tín dụng do Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao và Trọng tài kinh tế Nhà nước ban hành
- Số hiệu: 10/TTLN
- Loại văn bản: Thông tư liên tịch
- Ngày ban hành: 25/10/1990
- Nơi ban hành: Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Trọng tài kinh tế Nhà nước
- Người ký: ***
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 09/11/1990
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định