Hệ thống pháp luật

TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC-UỶ BAN VẬT GIÁ NHÀ NƯỚC
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 16-VGNN/TTKTNN

Hà Nội , ngày 15 tháng 8 năm 1986

 

THÔNG TƯ LIÊN BỘ

CỦA UỶ BAN VẬT GIÁ NHÀ NƯỚC - TRỌNG TÀI KINH TẾ NHÀ NƯỚC SỐ 16-VGNN/TTKTNN NGÀY 15-8-1986 HƯỚNG DẪN TẠM THỜI VỀ GIÁ CẢ TRONG KÝ KẾT VÀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG KINH TẾ 

Thực hiện Nghị quyết 306 (dự thảo) của Bộ Chính trị về bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của các đơn vị kinh tế cơ sở và Quyết định số 76-HĐBT ngày 26-6-1986 của Hội đồng Bộ trưởng ban hành quy chế tạm thời về quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở trong lĩnh vực giá cả, và quyền tự chủ của các đơn vị kinh tế cơ sở trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, liên Bộ Uỷ ban Vật giá Nhà nước - Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn tạm thời về giá cả trong ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế như sau:

I- NGHIÊM CHỈNH CHẤP HÀNH CHÍNH SÁCH GIÁ CẢ TRONG KÝ KẾT HỢP ĐỒNG KINH TẾ

1. Giá cả là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách giá và các giá chỉ đạo của Nhà nước, giá bán buôn vật tư, cước vận tải hàng hoá và hành khách; giá mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản, sản phẩm tiểu thủ công nghiệp; giá bán lẻ hàng hoá, giá dịch vụ... do các cấp có thẩm quyền quyết định (Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban Vật giá Nhà nước, các Bộ, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu...)

Tuỳ theo từng loại sản phẩm, hàng hoá và sự chỉ đạo giá của Nhà nước mà giá cả ghi trong hợp đồng kinh tế được quy định như sau:

a) Đối với sản phẩm, hàng hoá do Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban Vật giá Nhà nước, các Bộ, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu quyết định mức giá cụ thể gắn liền với quy cách, phẩm chất... thì các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải chấp hành đúng giá do các cấp đó đã công bố.

b) Đối với sản phẩm, hàng hoá do Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban Vật giá Nhà nước, các Bộ, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu quyết định giá chuẩn hoặc khung giá, uỷ quyền cho cơ quan quản lý giá cấp dưới cụ thể hoá giá chuẩn hoặc quy định giá trong khung giá theo quy cách phẩm chất.. . thì giá sản phẩm cụ thể để ký kết hợp đồng kinh tế là giá do cơ quan được uỷ quyền công bố.

c) Đối với sản phẩm, hàng hoá do Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu quyết định giá chuẩn hoặc khung giá, các cơ sở sản xuất, lưu thông được Nhà nước cho phép quy định giá sản phẩm cụ thể theo quy cách, phẩm chất... thì giá ghi trong hợp đồng do hai bên thoả thuận.

Giá sản phẩm cụ thể do hai bên thoả thuận phải bảo đảm tương quan hợp lý với giá sản phẩm chuẩn về quy cách, phẩm chất và nhất thiết không được vượt ra ngoài khung giá của Nhà nước quyết định.

2. Những sản phẩm, hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước định giá, nhưng chưa được cấp có thẩm quyền chỉ đạo giá thì giá ghi trong hợp đồng là giá tạm tính do hai bên thoả thuận. Trong thời hạn tối đa là 30 ngày, một bên ký kết hợp đồng (theo quy định về lập phương án giá) phải lập phương án giá trình cấp có thẩm quyền xét duyệt.

Cơ quan có thẩm quyền phải duyệt giá kịp thời chậm nhất là 20 ngày (nếu là sản phẩm nguyên liệu có tính chất thời vụ là 10 ngày) kể từ ngày nhận được phương án giá đúng theo thể thức và nội dung quy định. Khi có giá chính thức các bên ký hợp đồng phải ghi lại giá trong hợp đồng và thanh toán theo giá chính thức, hợp đồng kinh tế hết hiệu lực mà vẫn chưa có giá chính thức thì các bên ký hợp đồng được phép thanh toán theo mức giá đề nghị trong phương án giá đã trình xét duyệt.

3. Những sản phẩm, hàng hoá ngoài định mức Nhà nước định giá, thì giá ghi trong hợp đồng do hai bên ký hợp đồng thoả thuận. Khi tính giá thoả thuận các bên ký hợp đồng phải chấp hành nghiêm chỉnh chính sách giá, nguyên tắc, phương pháp tính giá của Nhà nước và nêu cao ý thức trách nhiệm tích cực tham gia bình ổn giá cả thị trường xã hội, không chạy theo giá thị trường tự do.

II- CHẤP HÀNH GIÁ CẢ TRONG THANH TOÁN HỢP ĐỒNG KHI NHÀ NƯỚC THAY ĐỔI GIÁ CHỈ ĐẠO

Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, đối với những sản phẩm hàng hoá thuộc danh mục Nhà nước định giá, nếu Nhà nước (cơ quan có thẩm quyền) có sự điều chỉnh tăng (hoặc giảm) giá thì các bên ký kết hợp đồng phải thực hiện theo giá chỉ đạo mới được Nhà nước công bố.

Cụ thể là:

1. Hợp đồng kinh tế giữa các đơn vị kinh tế quốc doanh:

a) Đối với sản phẩm đã được giao nhận và thanh toán xong trước thời điểm điều chỉnh, thì các bên quyết toán theo giá đã ký kết trong hợp đồng. Phần sản phẩm hàng hoá còn lại phải thực hiện theo giá mới do cấp có thẩm quyền quyết định.

b) Đối với sản phẩm đơn chiếc (hoặc mang tính chất đơn chiếc) có chu kỳ sản xuất dài (công trình xây dựng cơ bản, đóng tàu... ) thì khối lượng công việc hoàn thành đã bàn giao và thanh toán, các bên quyết toán theo giá ký trong hợp đồng. Phần khối lượng công việc còn lại phải thực hiện theo giá mới do cấp có thẩm quyền quyết định.

c) Đối với sản phẩm hàng hoá mà Nhà nước chỉ điều chỉnh giá một vài loại vật tư để sản xuất ra sản phẩm (sợi để sản xuất vải, cao su để sản xuất lốp ô-tô, xe đạp...) thì hai bên ký kết hợp đồng được quyền thoả thuận tính thêm phần chênh lệch giá vật tư đó vào đơn giá sản phẩm ghi trong hợp đồng, đồng thời thông báo cho cơ quan quản lý giá và Trọng tài kinh tế cùng cấp biết. Trường hợp khoản chênh lệch vật tư đó tính chung lại lớn hơn 5% giá sản phẩm đã được cấp có thẩm quyền quyết định ghi trong hợp đồng thì bên sản xuất phải lập phương án giá trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt và phải ký kết lại hợp đồng theo giá mới của cấp có thẩm quyền quyết định.

d) Đối với hàng nhập khẩu, khi Nhà nước thay đổi tỷ giá kết toán nội bộ thì giá thanh toán sẽ theo tinh thần Thông tư liên Bộ Uỷ ban Vật giá Nhà nước - Bộ Tài chính số 33-LB ngày 26-11-1985.

2. Hợp đồng kinh tế giữa đơn vị kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, cá thể.

a) Hợp đồng kinh tế trong mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản...:

Để bảo đảm quyền lợi của người sản xuất và khuyến khích nông dân, ngư dân... hăng hái bán sản phẩm cho Nhà nước, trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, nếu Nhà nước điều chỉnh tăng giá mua nông sản, lâm sản, thuỷ sản... hoặc hạ giá bán tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng bán cho nông dân, ngư dân... đã ghi trong hợp đồng kinh tế ký từ đầu vụ sản xuất thì phần nông sản, lâm sản, thuỷ sản... hoặc phần tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng giao nhận sau thời điểm điều chỉnh giá đều được thanh toán theo giá Nhà nước mới điều chỉnh.

b) Hợp đồng kinh tế trong thu mua, gia công sản phẩm tiểu thủ công nghiệp:

- Đối với hợp đồng thu mua (bán nguyên liệu mua sản phẩm).

Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, nếu Nhà nước thay đổi giá bán nguyên liệu do Nhà nước cung ứng và giá bán lẻ hàng tiêu dùng cho thợ thủ công làm ảnh hưởng đến chi phí nguyên liệu, tiền công được tính trong giá mua đã được ký kết trong hợp đồng kinh tế thì cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và tổ chức thu mua, hoặc đặt hàng phải kịp thời lập phương án giá trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. Khi có giá mua mới, các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải thực hiện theo giá Nhà nước mới quy định.

Phần chênh lệch giá nguyên liệu được xử lý như đối với vật tư của quốc doanh đã được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng quy định trong công văn số 4975-V13 ngày 26-9-1985.

- Đối với hợp đồng gia công (giao nguyên liệu thu thành phẩm).

Trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, nếu Nhà nước thay đổi giá bán lẻ hàng tiêu dùng cho thợ thủ công làm ảnh hưởng đến chi phí tiền công được tính trong giá gia công đã được ký kết trong hợp đồng kinh tế thì cơ sở sản xuất tiểu, thủ công nghiệp và tổ chức đặt gia công phải kịp thời lập phương án giá trình cơ quan có thẩm quyền xét duyệt. Khi có giá gia công mới, các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải thực hiện theo giá Nhà nước mới quy định.

Ngoài ra, trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng, các đơn vị kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể được quyền thoả thuận với khách hàng tính thêm vào giá sản phẩm phần chi phí làm bổ sung theo yêu cầu của khách hàng mà chưa ghi trong hợp đồng, hoặc trừ đi khỏi giá bán sản phẩm phần chi phí do không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng đã ghi trong hợp đồng vì những nguyên nhân khách quan ngoài sự cố gắng giải quyết của bên sản xuất. Đồng thời thông báo cho cơ quan Vật giá, Trọng tài kinh tế.

III- GIÁ CẢ TRONG XỦ LÝ VI PHẠM HỢP ĐỒNG KINH TẾ

1. Giá cả ghi trong hợp đồng kinh tế phải đúng chính sách giá và giá chỉ đạo của Nhà nước theo hướng dẫn của Thông tư này. Mọi trường hợp ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế sai với chính sách giá và giá chỉ đạo của Nhà nước đều coi là vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế và bị xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước.

2. Vật tư, hàng hoá bị mất mát, hư hỏng trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, bên gây ra thiệt hại phải bồi thường cho bên thiệt hại:

Trong quá trình thực hiện hợp đồng kinh tế, mọi trường hợp để vật tư, hàng hoá mất mát, hư hỏng quá định mức hao hụt (nếu có), bên gây ra thiệt hại đều phải bồi thường cho bên bị thiệt hại.

a) Nếu vật tư, hàng hoá bị mất mát, hư hỏng quá định mức hao hụt (nếu có) được xác định là do nguyên nhân khách quan thì tiền bồi thường được tính theo giá mua ghi trong hoá đơn cộng các khoản chi phí thực tế chia bình quân cho số vật tư, hàng hoá đó phải chịu.

b) Nếu vật tư, hàng hoá bị mất mát, hư hỏng quá định mức hao hụt (nếu có) mà không có lý do chính đáng thì tiền bồi thường được tính theo giá thị trường tự do nơi xảy ra mất mát, hư hỏng ở thời điểm cơ quan Trọng tài kinh tế có thẩm quyền xét xử (nhưng không quá 2 tháng kể từ sau ngày hai bên hiệp thương giải quyết không có kết quả, khiếu nại đến Trọng tài kinh tế). Giá thị trường do Uỷ ban Vật giá tỉnh, thành phố, đặc khu nơi xẩy ra mất mát, hư hỏng vật tư, hàng hoá công bố. Bên bị thiệt hại được nhận toàn bộ số tiền bồi thường.

Vật tư, hàng hoá mất mát, nếu tìm thấy toàn bộ hay một phần, bên gây ra thiệt hại phải hoàn lại hiện vật cho bên bị thiệt hại. Bên thiệt hại nhận lại số vật tư hàng hoá và thanh toán trả lại tiền theo giá khi tính bồi thường của các trường hợp a, b nêu trên.

Vật tư, hàng hoá bị hư hỏng, nếu có thể sửa chữa được thì bên gây ra thiệt hại phải sửa chữa lại hoặc bên bị thiệt hại sửa chữa, mọi chi phí sửa chữa bên gây ra thiệt hại phải chịu; nếu không sửa chữa được thì tiền bồi thường tính theo nguyên giá trị theo các trường hợp a, b nói trên, trừ giá trị thu hồi được (nếu có) của vật tư, hàng hoá đó.

3. Vật tư, hàng hoá giao nhận không đúng địa điểm (gắn liền với giá được công bố) ghi trong hợp đồng kinh tế đã ký:

Các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải giao nhận hàng theo đúng địa điểm đã ghi trong hợp đồng kinh tế. Trường hợp giao hàng không đúng địa điểm do khó khăn khách quan được cấp có thẩm quyền xác nhận, hộ tiêu thụ phải tự vận chuyển (hoặc thuê phương tiện vận tải) hàng ngoài địa điểm quy định trong hợp đồng thì tổ chức cung ứng phải trừ vào giá giao vật tư, hàng hoá cho hộ tiêu thụ đủ chi phí vận chuyển tính theo giá cước vận tải hàng hoá Nhà nước quy định; hoặc do thiếu sót chủ quan của tổ chức cung ứng thì phải thanh toán theo chi phí vận chuyển hợp lý (bao gồm cả xăng dầu, săm lốp...) do hai bên thoả thuận. Trường hợp hai bên không thoả thuận được thì báo cáo cơ quan Vật giá có thẩm quyền và Trọng tài kinh tế xét xử quyết định.

4. Vật tư, hàng hoá giao nhận không đúng phẩm chất (gắn liền với giá được công bố) ghi trong hợp đồng kinh tế đã ký, vật tư hàng hoá đưa vào lưu thông phải bảo đảm tiêu chuẩn, quy cách và phẩm chất đã đăng ký. Trường hợp không đạt được tiêu chuẩn chất lượng đã ghi trong hợp đồng nếu được Nhà nước cho phép tiêu thụ thì giá cả được tính toán lại theo nguyên tắc tỷ lệ giảm giá phải tương ứng hoặc lớn hơn tỷ lệ giảm phẩm chất. Mức giảm chất lượng và giá do các bên ký kết hợp đồng kinh tế báo cáo và được cơ quan quản lý chất lượng sản phẩm, cơ quan Vật giá có thẩm quyền quyết định.

Các bên ký kết hợp đồng kinh tế phải chấp hành nghiêm chỉnh chế độ hợp đồng kinh tế và Thông tư này. Trong khi ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, nếu có tranh chấp về giá cả phải báo cáo kịp thời cho cơ quan Vật giá và Trọng tài kinh tế có thẩm quyền để giải quyết, tuyệt đối không bên nào được đơn phương thay đổi giá ghi trong hợp đồng kinh tế.

Cơ quan Vật giá có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra việc chấp hành chính sách giá và giá chỉ đạo của Nhà nước, kịp thời giải quyết những vướng mắc về giá cả trong ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế, phối hợp chặt chẽ với cơ quan Trọng tài kinh tế có thẩm quyền trong việc xét xử các tranh chấp và vi phạm hợp đồng kinh tế liên quan đến giá cả.

Cơ quan Trọng tài kinh tế có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế, kịp thời trao đổi với cơ quan Vật giá có thẩm quyền giải quyết những vấn đề về giá cả và đưa ra xét xử những vi phạm hợp đồng kinh tế liên quan đến giá cả, bảo đảm cho chính sách giá và giá chỉ đạo của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh trong ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký và thay thế Thông tư liên Bộ Uỷ ban Vật giá Nhà nước - Hội đồng Trọng tài kinh tế Nhà nước số 409-TT/LB ngày 11-6-1976.

Trong khi thực hiện, có khó khăn, trở ngại đề nghị các ngành, các cấp, các đơn vị kinh tế cơ sở kịp thời báo cáo cho liên Bộ biết để nghiên cứu bổ sung, sửa đổi.

Liên Bộ đề nghị các Bộ, Uỷ ban Nhân dân các tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương phổ biến Thông tư này đến các đơn vị kinh tế cơ sở.

Trần Hải Bằng

(Đã ký)

Trần Xuân Giá

(Đã ký)

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư liên bộ 16-VGNN/TTKTNN năm 1986 hướng dẫn tạm thời về giá cả trong ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế do Trọng tài kinh tế Nhà nước; Uỷ ban Vật giá Nhà nước ban hành

  • Số hiệu: 16-VGNN/TTKTNN
  • Loại văn bản: Thông tư liên tịch
  • Ngày ban hành: 15/08/1986
  • Nơi ban hành: Trọng tài kinh tế Nhà nước, Uỷ ban Vật giá Nhà nước
  • Người ký: Trần Hải Bằng, Trần Xuân Giá
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản