Hệ thống pháp luật

BỘ LAO ĐỘNG-BỘ NỘI VỤ-BỘ Y TẾ
******

VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 14-LB-TT

Hà Nội, ngày 22 tháng 06 năm 1962 

 

THÔNG TƯ LIÊN BỘ

VỀ TỔ CHỨC, NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN VÀ LỀ LỐI LÀM VIỆC CỦA HỘI ĐỒNG KHÁM XÉT THƯƠNG TẬT

Kính gửi:
Đồng kính gửi:

Các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh
Các Sở, Ty Y tế
Các Sở, Ty, Phòng Lao động
Các Bộ, các cơ quan ngang Bộ
Các Ủy ban, Ban, các đoàn thể Trung ương

 

Căn cứ vào điều 27, tiết 3, chương II của Điều lệ tạm thời về các chế độ bảo hiểm xã hội do Hội đồng Chính phủ ban hành, về việc tổ chức Hội đồng khám xét thương tật làm nhiệm vụ xếp hạng thương tật cho công nhân, viên chức Nhà nước khi bị tai nạn lao động.

Căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay, sau khi thống nhất ý kiến với Tổng Công đoàn Việt Nam, Liên Bộ Y tế - Nội vụ - Lao động ra thông tư này nhằm quy định tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn, lề lối làm việc của Hội đồng khám xét thương tật như sau:

I. TỔ CHỨC

1. Hội đồng khám xét thương tật được thành lập ở cấp tỉnh, thành phố, các khu tự trị, khu Hồng Quảng, khu vực Vĩnh Linh và ở các cấp Trung ương. Riêng ở Tổng cục Đường sắt cũng được tổ chức Hội đồng khám xét thương tật để giải quyết cho công nhân, viên chức ngành Đường sắt.

2. Thành phần Hội đồng khám xét thương tật các khu, thành, tỉnh gồm có:

- Chủ tịch và hai ủy viên Hội đồng giám định y khoa của khu, thành, tỉnh (Chủ tịch Hội đồng giám định y khoa kiêm Chủ tịch Hội đồng khám xét thương tật, Ủy viên Hội đồng giám định y khoa kiêm Ủy viên Hội đồng khám xét thương tật).

- Một đại diện Phòng Tổ chức của Ủy ban hành chính làm ủy viên.

- Một đại diện của cơ quan lao động làm ủy viên,

- Một đại diện của Liên hiệp Công đoàn làm ủy viên.

Trường hợp xếp hạng thương tật cho thương binh thì Hội đồng sẽ mời thêm đại diện của Ủy ban hành chính (bộ phận chuyên trách về công tác thương binh) tham dự với tư cách là ủy viên. Hai ủy viên đại diện cho cơ quan lao động và Công đoàn không cần tham sự khi Hội đồng xếp hạng thương tật cho thương binh đã phục viên, dân quân, du kích và thanh niên xung phong.

3. Hội đồng khám xét thương tật cấp nào do Ủy ban hành chính cấp ấy ra quyết định thành lập.

Các thành viên của Hội đồng giám định y khoa sẽ thay mặt cho cơ quan y tế.

Các cơ quan khác cần cử những cán bộ có đủ cương vị thay mặt cho cơ quan như: Trưởng, Phó phòng Tổ chức, Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh; Chánh, Phó Giám đốc Sở, Trưởng Phó Ty hoặc Trưởng phó Phòng Lao động, đại diện có thẩm quyền của Liên hiệp Công đoàn khu, thành, tỉnh.

4. Thành viên Hội đồng xét thương tật Trung ương do Liên Bộ Y tế - Nội vụ- Lao động chỉ định, ra quyết định, bổ nhiệm và gồm có:

- Chủ tịch và hai ủy viên Hội đồng giám định y khoa trung ương (Chủ tịch Hội đồng giám định y khoa kiêm Chủ tịch Hội đồng khám xét thương tật, hai ủy viên Hội đồng giám định y khoa kiêm ủy viên Hội đồng khám xét thương tật).

- Một đại diện của Bộ Y tế làm ủy viên.

- Một đại diện của Bộ Nội vụ làm ủy viên.

- Một đại diện của Bộ Lao động làm ủy viên.

- Một đại diện của Tổng Công đoàn Việt-nam làm ủy viên.

5. Thành viên Hội đồng khám xét thương tật của Tổng cục Đường sắt do Tổng cục Đường sắt đề cử lên Bộ Giao thông vận tải xét duyệt và gồm có:

- Chủ tịch và hai ủy viên Hội đồng giám định y khoa Tổng Cục Đường sắt (Chủ tịch Hội đồng giám định y khoa kiêm Chủ tịch Hội đồng khám xét thương tật, hai ủy viên Hội đồng giám định y khoa kiêm ủy viên Hội đồng khám xét thương tật).

- Một đại diện của Tổng Cục Đường sắt làm ủy viên.

- Một đại diện của Công đoàn Đường sắt làm ủy viên.

6. Về mặt biên chế, đại diện của cơ quan nào vẫn thuộc biên chế của cơ quan ấy.

II. NHIỆM VỤ

A. NHIỆM VỤ CHUNG

1. Xếp hạng thương tật cho công nhân, viên chức Nhà nước khi bị tai nạn lao động, bị bệnh nghề nghiệp làm mất sức lao động.

2. Xếp hạng thương tật cho thương binh đã phục viên hoặc chuyển ngành, dân quân, du kích và thanh niên xung phong.

3. Căn cứ vào tiêu chuẩn tỷ lệ mất sức lao động, tỷ lệ thương tật của Nhà nước đã ban hành để quyết định việc xếp hạng.

4. Hội đồng khám xét thương tật có trách nhiệm giải quyết cho tất cả công nhân, viên chức quy định trong điều lệ bảo hiểm xã hội, các thương binh đã phục viên hoặc chuyển ngành và dân quân, du kích, thanh niên xung phong.

B. NHIỆM VỤ HỘI ĐỒNG KHÁM XÉT THƯƠNG TẬT Ở ĐỊA PHƯƠNG VÀ TỔNG CỤC ĐƯỜNG SẮT.

Các Hội đồng khám xét thương tật tỉnh, thành phố, khu tự trị Thái Mèo, khu Hồng Quảng, khu vực Vĩnh Linh và Tổng Cục Đường sắt thi hành nhiệm vụ trong phạm vi địa phương và ngành mình. Đối với công nhân, viên chức, thương binh các cơ quan, xí nghiệp, công trường của trung ương, khu đóng tại địa phương nào sẽ do Hội đồng khám xét thương tật địa phương ấy khám và giải quyết (ví dụ: Hội đồng khám xét thương tật Hà Nội xếp hạng thương tật cho công nhân, viên chức các cơ quan, xí nghiệp trực thuộc trung ương, Hội đồng khám xét thương tật Thái Nguyên xếp hạng thương tật cho công nhân, viên chức của các cơ quan, xí nghiệp trực thuộc khu tự trị Việt Bắc, khu Gang thép…).

C. NHIỆM VỤ HỘI ĐỒNG KHÁM XÉT THƯƠNG TẬT CẤP KHU.

Hội đồng khám xét thương tật khu vực tự trị Việt Bắc chịu trách nhiệm phúc quyết các trường hợp khiếu tố do các Hội đồng khám xét thương tật của các tỉnh trực thuộc khu chuyển lên.

Những trường hợp cần thiết, Hội đồng khám xét thương tật khu sẽ gửi về Hội đồng khám xét thương tật trung ương để phúc quyết.

D. NHIỆM VỤ HỘI ĐỒNG KHÁM XÉT THƯƠNG TẬT TRUNG ƯƠNG.

Hội đồng khám xét thương tật Trung ương chỉ làm nhiệm vụ phúc quyết mọi trường hợp khiếu tố do các Hội đồng khám xét thương tật khu vực tự trị Việt Bắc, khu tự trị Thái – Mèo, khu Hồng Quảng, khu vực Vĩnh Linh, các tỉnh trực thuộc trung ương và Tổng Cục Đường sắt gửi lên.

Căn cứ vào nhiệm vụ chung, căn cứ vào các chính sách đã ban hành, Hội đồng khám xét thương tật trung ương sẽ sử dụng mọi khả năng và phương tiện chuyên môn để giải quyết các trường hợp khiếu tố và được coi là cấp cao nhất trong việc phúc quyết.

III. QUYỀN HẠN

1. Hội đồng khám xét thương tật ở mỗi cấp chịu sự lãnh đạo của chính quyền cấp tương đương (ở địa phương thì do Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh, ở ngành Đường sắt thì do Tổng Cục Đường sắt, ở trung ương do Liên Bộ Y tế - Nội vụ - Lao động) .

2. Hội đồng khám xét thương tật không có hệ thống tổ chức ngành dọc nên các Hội đồng khám xét thương tật các cấp không phải báo cáo công tác cho nhau mà chỉ báo cáo công tác và thỉnh thị ý kiến Ủy ban hành chính cấp tương đương nếu ở địa phương, Tổng Cục Đường sắt nếu ở ngành Đường sắt và Liên Bộ Y tế - Nội vụ - Lao động nếu ở trung ương.

3. Hội đồng khám xét thương tật các cấp có quyền quyết định việc xếp hạng thương tật cho công nhân, viên chức Nhà nước, thương binh đã phục viên hoặc chuyển ngành, dân quân du kích và thanh niên xung phong, căn cứ vào bảng tỷ lệ thương tật do tai nạn lao động, ban hành kèm theo thông tư Liên bộ này và bảng tiêu chuẩn xếp hạng thương tật cho thương binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong quy định trong thông tư cho thương binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong quy định trong thông tư Liên Bộ Y tế - Nội vụ số 10-TT/LB ngày 7/5/1962 đã gửi cho các địa phương.

4. Hội đồng khám xét thương tật các cấp có quyền đề nghị các cơ quan, xí nghiệp, công trường, nông trường, lâm trường… bố trí công tác mới cho hợp với khả năng lao động của công nhân, viên chức sau khi bị tai nạn.

5. Cứ hai năm một lần, Hội đồng khám xét thương tật sẽ khám lại cho những công nhân, viên chức Nhà nước bị tai nạn lao động, những thương binh, dân quân du kích và thanh niên xung phong trước đã được xếp hạng tạm thời, để quyết định lại việc xếp hạng.

Những trường hợp vết thương tái phát, đương sự có thể yêu cầu Hội đồng khám lại mặc dầu chưa được hai năm.

Trường hợp tai nạn gây thương tích cố định có tính chất vĩnh viễn thì Hội đồng khám xét thương tật có thể quyết định chỉ khám và xếp hạng một lần, đối với những vết thương có thể tăng hoặc giảm thì Hội đồng sẽ xếp hạng tạm thời, sau hai năm phải khám lại, nếu vết thương vẫn chưa cố định thì Hội đồng vẫn xếp tạm thời lần thứ hai sau hai năm nữa, kể từ ngày xếp hạng lại lần thứ hai, khi đi khám lại vết thương đã hoặc chưa cố định, Hội đồng cũng sẽ xếp hạng vĩnh viễn.

6. Trường hợp, nếu có những hiện tượng lợi dụng quyền hạn làm sai chính sách bị phát hiện, thì tùy theo tính chất từng sự việc sai trái mà cá nhân ủy viên trong Hội đồng khám xét thương tật hoặc toàn thể Hội đồng sẽ chịu trách nhiệm.

IV. LỀ LỐI LÀM VIỆC

1. Các trường hợp đưa ra Hội đồng khám xét thương tật đều phải do thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp, công trường hoặc bệnh viện ký giấy giới thiệu.

- Đối với công nhân, viên chức do thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp, công trường ký.

- Đối với công nhân, viên chức đang nằm bệnh viện do thủ trưởng bệnh viện ký.

- Đối với thương binh đã phục viên, dân quân, du kích và thanh niên xung phong do Chủ tịch Ủy ban hành chính xã ký giấy giới thiệu lên Ủy ban hành chính tỉnh, Ủy ban hành chính tỉnh sẽ giới thiệu cho Hội đồng khám xét thương tật.

2. Các giấy chứng nhận về mất sức lao động, xếp hạng thương tật không giao trực tiếp cho đương sự mà sẽ gửi về cho:

- Cơ quan, xí nghiệp, công trường trao lại, nếu là công nhân, viên chức Nhà nước;

- Trại thương binh, nếu là thương binh tại trại;

- Ủy ban hành chính trao lại, nếu là thương binh đã phục viên, dân quân, du kích, thanh niên xung phong ở địa phương.

3. Các giấy chứng nhận sẽ làm thành 4 bản:

- 1 lưu hồ sơ Hội đồng khám xét thương tật.

- 1 báo cáo cho cơ quan chính quyền cùng cấp (Hội đồng khám xét thương tật khu, thành, tỉnh gửi cho Ủy ban hành chính khu, thành, tỉnh; Hội đồng khám xét thương tật ngành Đường sắt gửi cho Tổng Cục Đường sắt, Hội đồng khám xét thương tật trung ương gửi về Bộ Y tế ).

- 1 cơ quan quản lý đương sự biết để đính vào lý lịch công nhân, viên chức.

- 1 cho cơ quan, xí nghiệp trao lại cho đương sự.

4. Hội đồng khám xét thương tật mỗi cấp phải đặt lịch làm việc có định kỳ hàng tháng, thông báo cho các cơ quan để tránh hiện tượng công nhân, viên chức, thương binh đến không đúng ngày, vừa mất thì giờ sản xuất vừa gây trở ngại cho Hội đồng.

5. Các đơn khiếu nại lên Hội đồng khám xét thương tật trung ương đều gửi tập trung về Bộ Y tế, có kèm theo toàn bộ hồ sơ bệnh án, các giấy khám xét nghiệm, phim X quang nếu có, giấy chứng nhận của Hội đồng khám xét thương tật nơi đã giải quyết.

Bộ Y tế sẽ giao cho Hội đồng khám xét thương tật trung ương nghiên cứu để giải quyết.

6. Mỗi khi cần có ý kiến chính xác về một số chuyên khoa, Hội đồng khám xét thương tật sẽ trao đổi trực tiếp với các y sĩ, bác sĩ chuyên khoa ở các bệnh viện trong địa phương mình. Các bệnh viện có nhiệm vụ giúp đỡ Hội đồng khám xét thương tật làm tròn công tác, ghi rõ nhận xét của mình về mặt chuyên môn để cho Hội đồng khám xét thương tật tham khảo và quyết định.

7. Do chỗ Hội đồng khám xét thương tật khu, tỉnh, thành phố gồm có sáu thành viên, cho nên trong những trường hợp Hội đồng không thống nhất ý kiến mà số phiếu hai bên ngang nhau thì Hội đồng cần thỉnh thị ý kiến của Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố.

Công tác của Hội đồng khám xét thương tật có tính chất quan trọng và lâu dài, vì vậy Liên Bộ đề nghị Ủy ban hành chính các cấp cân nhắc kỹ trong việc chỉ định cán bộ vào Hội đồng và cấn tiến hành thành lập ngay Hội đồng khám xét thương tật theo tinh thần của thông tư này.

Các Hội đồng khám xét thương tật thành lập theo Nghị định số 111/NĐLB ngày 11/11/1955 của Liên Bộ Y tế - Nội vụ - Lao động – Tài chính, Hội đồng xếp hạng thương tật vì tai nạn lao động thành lập theo Nghị định số 73/LB-LĐ ngày 12/7/1957 của Liên Bộ Y tế - Lao động đều bãi bỏ, sau khi Hội đồng khám xét thương tật mới này được thành lập.

Trong quá trình thực hiện, nếu thấy cần thêm bớt điều gì, đề nghị Ủy ban hành chính các cấp, các Sở, Ty Y tế, các Sở, Ty, Phòng lao động báo cáo cho Liên Bộ biết để giải quyết.

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày ban hành.

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ LAO ĐỘNG
THỨ TRƯỞNG
 
 


Nguyễn Đăng

BỘ TRƯỞNG
BỘ Y TẾ
 


 
BS. Phạm Ngọc Thạch

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
THỨ TRƯỞNG



 
 Lê Tất Đắc

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông tư liên bộ 14-LB-TT năm 1962 về việc tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và lề lối làm việc của Hội đồng khám xét thương tật do Bộ Y tế- Bộ Nội vụ- Bộ Lao Động

  • Số hiệu: 14-LB-TT
  • Loại văn bản: Thông tư liên tịch
  • Ngày ban hành: 22/06/1962
  • Nơi ban hành: Bộ Lao động, Bộ Nội vụ, Bộ Y tế
  • Người ký: Lê Tất Đắc, Nguyễn Đăng, Phạm Ngọc Thạch
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Số 27
  • Ngày hiệu lực: 22/06/1962
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản