BỘ NỘI VỤ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 940-DS | Hà Nội, ngày 25 tháng 02 năm 1961 |
Kính gửi: Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh, khu vực Vĩnh Linh
Để đáp ứng nhu cầu xây dựng của Nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ra Nghị định số 151/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1959 quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất cần thiết cho việc xây dựng những công trình do Nhà nước quản lý.
Điều 8 của Nghị định số 151/TTg nói trên có nêu rõ:
“Trường hợp trên ruộng đất dùng vào việc xây dựng có những mồ mả cần dời đi nơi khác, thì cơ quan cần ruộng đất phải thông báo cho những người có mồ mã biết, định thời han cho họ dời mồ mả đi chỗ khác, và căn cứ vào tình hình cụ thể, phong tục tập quán của địa phương mà giúp cho họ một số tiền thích đáng làm phí tổn di chuyển. Nếu là mồ mả không có chủ, thì cơ quan cần dùng đất phải chịu trách nhiệm dời đi một cách chu đáo”
Thông tư Liên bộ số 1.424KH/TTLB ngày 06 tháng 7 năm 1959 của Ủy ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Nội vụ hướng dẫn thi hành Nghị định số 151/TTg không đề cập đến thủ tục di chuyển mồ mả và biện pháp giúp đỡ những người có mồ mả trong các ruộng đất được trưng dụng theo quy định của điều 8 kể trên. Do đó, trong quá trình thi hành điều 8 về việc di chuyển mồ mả, mỗi địa phương làm một khác, nên đã có tình trạng như:
- Trước khi thông báo cho những người có mồ mả biết, cơ quan cần ruộng đất chưa bàn bạc với chính quyền địa phương để giải thích chủ trương, chính sách trong nhân dân, thành ra chính quyền không biết để giúp đỡ giải quyết những thắc mắc của nhân dân.
- Thời hạn phải dời mồ mả thường được ấn định quá ngắn (thường là 10 hay 15 ngày sau khi đăng báo), làm cho những người có mồ mả, nhất là những người ở xa, không có đủ thời giờ bố trí việc dời mồ mả đi chỗ khác.
- Những người có mồ mả thường được giúp đỡ một số tiền bình quân, hoặc có trường hợp không được giúp đỡ gì cả; một số cơ quan cần ruộng đất chưa quan tâm nghiên cứu hoàn cảnh của từng người có mồ mả phải di chuyển để có kế hoạch giúp đỡ một cách thiết thực.
- Không chú ý phân biệt các mồ lâu năm với mồ mới, mồ có chủ với mồ vắng chủ, mồ vô thừa nhận với mồ có chủ hiện ở miền Nam, mồ liệt sĩ v .v… để có biện pháp giải quyết từng trường hợp cho chu đáo.
Tình trạng trên đây đã ít nhiều đụng chạm đến tình cảm, phong tục, tập quán và tín ngưỡng của nhân dân, đã ảnh hưởng đến sinh hoạt làm ăn bình thường của nhân dân, trở ngại đến việc thực hiện chính sách trưng dụng ruộng đất để xây dựng các công trình kiến thiết cơ bản.
Để bổ cứu những thiếu sót trên, Bộ hướng dẫn và quy định một số điểm, chi tiết thi hành điều 8 của Nghị định số 151/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1959 của Thủ tướng Chính phủ.
a) Thông báo: Sau khi được cơ quan có thẩm quyền quyết định việc trưng dụng ruộng đất duyệt y hồ sơ, cơ quan cần ruộng đất phải báo cho Ủy ban hành chính nơi có ruộng đất biết trong các thửa ruộng đất được trưng dụng có bao nhiêu mồ mả, và những loại mồ mả gì. Sau đó, cơ quan cần ruộng đất có nhiệm vụ thông báo bằng thư riêng cho những người có mồ mả biết ngày thi công, thông báo trên báo chí hằng ngày và niêm yết ở những nơi công cộng trong các xã lân cận nơi có ruộng đất. Nếu những người có mồ mả ở xa, thì phải báo tin bằng thư bảo đảm. Lúc thông báo, cần nói rõ nơi đã chọn để chôn; những người có mồ mả có thể đến tận nơi quan sát trước khi tiến hành di chuyển mồ mả.
b) Thời hạn thông báo: Những người có mồ mả trên các ruộng đất được trưng dụng cần được báo trước một thời gian là hai tháng kể từ ngày gửi thông báo để họ có đủ thì giờ thụ xếp dời mổ mả đi chỗ khác.
Trường hợp khẩn cấp cần đảm bảo kịp thời và đủ diện tích cần thiết cho công trình xây dựng, thì cơ quan cần ruộng đất phải xin Ủy ban hành chính, khu, thành phố hoặc tỉnh cho phép rút ngắn thời gian báo trước, nhưng không được rút ngắn dưới một tháng.
c) Cách giúp đỡ những người có mồ mã phải di chuyển:
Chọn địa điểm để chôn cất: Ủy ban hành chính xã phối hợp với cơ quan y tế địa phương mình và cơ quan cần ruộng đất chọn một nơi cao ráo, thoáng gió, xa nơi dân cư tập trung, bảo đảm giữ vệ sinh phòng bệnh lâu dài, không trở ngại cho việc phát triển sản xuất, để có thể làm nơi chôn cất vĩnh viễn, tránh tình trạng phải chôn đi, cất lại nhiều lần, gây tốn kém và phiền phức cho nhân dân và Nhà nước.
Sau khi chọn nơi để chôn, Ủy ban hành chính xã cần giới thiệu nơi ấy và giải thích cho những người có mồ mả trên các ruộng đất được trưng dụng hiểu rõ chủ trương, chính sách của Chính phủ về việc di chuyển mồ mả trên các ruộng đất được trưng dụng để kiến thiết cơ bản.
Giúp phương tiện hoặc tiền để cất bốc, di chuyển và chôn cất: Cơ quan cần ruộng đất liên hệ mật thiết với Ủy ban hành chính xã và các đoàn thể nhân dân nghiên cứu thật chu đáo hoàn cảnh của từng người có mồ mả và quy định cách giúp đỡ cho thiết thực: bằng phương tiện, hiện vật như xe cộ, quan khách, hoặc giúp tiền công đào huyệt v .v… Các khoản chi phí về việc này đều do cơ quan cần ruộng đất chịu. Đối với những người nghèo túng, xét ra không có khả năng dời mồ mả được, thì cơ quan ruộng đất chịu trách nhiệm dời đi một cách chu đáo, và phải báo trước ngày giờ tiến hành để người có mồ mả hoặc người đại diện có thể đến tại chỗ trong lúc bốc và lúc chôn.
2. Đối với các mồ mả vắng chủ:
Có thể có 2 trường hợp: một là người có mồ mả hiện vắng mặt (ở miền Nam, ở nước ngoài …) hai là những mồ mả mà, sau khi hết hạn thông báo, không có người nhận, hoặc có những mồ mả mà từ trước đến nay không ai biết chủ mồ là ai và ở đâu.
Đối với cả 2 trường hợp trên, cơ quan cần ruộng đất có trách nhiệm dời đi và phải làm những việc sau đây :
- Vẽ sơ đồ các mộ nói trên trước khi dời đi, và nếu xét cần, phải chụp ảnh những mộ này.
- Ghi những điểm cần thiết như họ, tên, tuổi, ngày chết, quê quán của người chết, nơi đã chôn và tình trạng mồ trước lúc di chuyển, vào một sổ riêng lưu tại Ủy ban hành chính xã để sau này, khicó người hỏi, có thể cung cấp tài liệu cho họ.
- Xây lại mộ mới cho chu đáo.
- Nếu có bia cũ (hay thánh giá, cây thập tự) đã hư hỏng, thì phải làm bia mới, đồng thời giữ nguyên bia cũ để sau này chủ mộ có thêm bằng chứng xác minh mộ. Tất cả phí tổng cất bốc, di chuyển, chôn cất đều do cơ quan cần ruộng đất chịu, theo đúng tinh thần điều 8 của Nghị định số 151/TTg ngày 14 tháng 4 năm 1959 của Thủ tướng Chính phủ.
Nguyên tắc chung ghi trong Nghị định số 151/TTg là “Hết sức tránh những nơi dân cư đông đúc, nghĩa trang liệt sĩ…Trường hợp đặc biệt phải làm vào những nơi đó, thì phải bàn bạc kỹ với nhân dân địa phương…”
Trường hợp này, Ủy ban hành chính xã, huyện và cơ quan cần ruộng đất chú ý làm những việc như sau:
1. Đối với các một liệt sĩ chôn lẻ tẻ, sau khi thăm dò ý kiến của nhân dân và gia đình liệt sĩ, sẽ dời đến một nghĩa tra liệt sĩ gần nhất, hoặc tùy theo nguyện vọng của gia đình liệt sĩ mà đưa đến nghĩa trang liệt sĩ khác. Tất cả các khoản phí tổn cất bốc, di chuyển chôn cất đều do cơ quan cần ruộng đất chịu.
2. Đối với nghĩa trang liệt sĩ, Ủy ban hành chính xã phải báo cáo lên Ủy ban hành chính huyện, tỉnh biết để xin phép di chuyển. Sau khi được phép, Ủy ban hành chính xã và cơ quan cần ruộng đất phải tổ chức thăm dò ý kiến trong nhân dân và các gia đình liệt sĩ, đồng thời có kế hoạch di chuyển cho chu đáo.
Cơ quan cần ruộng đất chịu tất cả các khoản phí tổn và đảm bảo xây lại cho tử tế.
4. Đối với các mồ có tính chất di tích lịch sử và những mồ tôn giáo:
a) Đối với các mồ có tính chất di tích lịch sử: Nguyên tắc chung vẫn là phải hết sức tránh dời đi nơi khác, nhưng nếu có trường hợp đặc biệt cần dời đi, thì phải được Ủy ban hành chính khu, thành phố hoặc tỉnh cho phép. Trước khi đồng ý cho phép. Ủy ban hành chính khu, thành phố, hoặc tỉnh cần báo cáo Bộ Văn hóa, và nếu cần, sẽ trình Ủy ban hành chính quyết định.
Cơ quan cần ruộng đất và Ủy ban hành chính tỉnh, Ty Văn hóa có trách nhiệm di chuyển chu đáo, xây lại y như cũ. Trước khi di chuyển, phải chụp ảnh, vẽ sơ đồ, ghi vào sổ sách lưu tại Ủy ban hành chính xã, huyện, tỉnh những điểm cần thiết.
b) Đối với các mồ tôn giáo: Đối với các mồ của những người theo đạo thiên chúa được phong chức thánh, chôn cất ở thánh địa, thì Ủy ban hành chính xã và cơ quan cần ruộng đất phải lấy ý kiến của giáo dân có liên quan đến vùng đó (xứ lân cận) và xin ý kiến của Ủy ban hành chính huyệt, tỉnh trước khi tiến hành việc di dời nơi khác. Nếu giáo dân yêu cầu dành riêng một chỗ để chôn chung thì Ủy ban hành chính xã có thể giải quyết, sau khi thỉnh thị Ủy ban hành chính huyện, tỉnh.
Đối với những mồ của những người có chức vụ cao trong các tôn giáo khác như phật giáo, cao đài, tin lành, là nơi mà thường những người mộ đạo hay đến viếng hoặc cúng lệ thì Ủy ban hành chính xã và cơ quan cần ruộng đất phải bàn bạc kỹ với nhân dân địa phương và phải được sự đồng ý của Ủy ban hành chính tỉnh rồi mới cho tiến hành việc di chuyển.
Mấy vấn đề cần chú ý trong việc di chuyển mồ mả:
Đối với các mồ đã chôn lâu năm (trên ba năm chẵn) thì việc bốc vác, di chuyển hài cốt, chôn cất có thể làm bình thường.
Đối với các mồ mới, nhất là đối với các mồ chôn chưa được một năm, hoặc đối với những mồ của những người chết vì bệnh truyền nhiễm như dịch tả, dịch hạch, phong, lao nặng v .v… chôn chưa được 3 năm, thì việc cất bốc, di chuyển phải làm riêng biệt và hết sức thận trọng, đảm bảo thực hiện đúng các quy tắc y tế do Bộ Y tế quy định.
Di chuyển mồ mả là một vấn đề phức tạp, đụng chạm đến tình cảm, phong tục tập quán và tín ngưỡng của nhân dân, ảnh hưởng đến vệ sinh phòng bệnh.
Để công tác này tiến hành được tốt, đáp ứng được nhu cầu xây dựng của Nhà nước, Bộ đề nghị các Ủy ban hành chính địa phương chú ý đến việc cất bốc, di chuyển các mồ mả trên các ruộc đất được trưng dụng, có kế hoạch tuyên truyền giải thích trong nhân dân, đồng thời chú ý giúp đỡ thiết thực những người có mồ mả theo đúng tinh thần điều 8 của Nghị định số 151/TTg và những điều quy định trong thông tư này.
Trong lúc thi hành, nếu gặp khó khăn trở ngại gì, đề nghị các Ủy ban hành chính khu, thành phố, tỉnh cho Bộ biết để trao đổi ý kiến giải quyết kịp thời.
KT. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ |
Thông tư 940-DS năm 1961 về việc di chuyển mồ mả trên các ruộng đất được trưng dụng để xây dựng những công trình do Nhà nước quản lý do Bộ Nội vụ ban hành
- Số hiệu: 940-DS
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 25/02/1961
- Nơi ban hành: Bộ Nội vụ
- Người ký: Tô Quang Đẩu
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 15
- Ngày hiệu lực: 12/03/1961
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định