BỘ TÀI CHÍNH | VIỆT |
Số: 116-TC-TT | Hà Nội, ngày 26 tháng 10 năm 1956 |
GIẢI THÍCH VỀ QUYỀN HẠN, NHIỆM VỤ VÀ TỔ CHỨC CÁC BAN THANH TRA TÀI CHÍNH CÁC CẤP
BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH
Kính gửi | - Các UBHC liên khu, khu, tỉnh, thành phố, |
Thi hành nghị định Thủ tướng Phủ số 1077-TTg ngày 12 tháng 10 năm 1956 (1), thông tư này giải thích và quy định cụ thể những nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức lề lối làm việc của Ban thanh tra tài chính của Bộ Tài chính và các Ban Thanh tra tài chính tại các cấp khu, thành phố và tỉnh.
Chế độ kiểm tra tài chính đặt ra nhằm mục đích : tăng cường kỷ luật tài chính, đốc thúc sự quản lý chi thu của Nhà nước đi vào nề nếp chính quy, nâng cao hơn nữa tính chất kế hoạch của sự thu chi tài chính.
Nó có ý nghĩa rất quan trọng đối với công tác kinh tế tài chính của Nhà nước hiện nay.
Nguyên tắc là ở đâu có sử dụng tài chính Nhà nước là phải có kiểm tra tài chính. Phạm vi kiểm tra rất rộng rãi, như nghị định Thủ tướng phủ đã quy định :
1) Các cơ quan chính quyền, các doanh nghiệp quốc gia, xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh, các hợp tác xã và các đoàn thể được Chính phủ cấp vốn hay trợ cấp đều chịu sự kiểm tra tài chính;
2) Các mặt công tác về chấp hành dự toán, thu, chi, sử dụng kinh phí và mọi việc chấp hành chính sách, luật lệ, chế độ tài chính cũng đều chịu sự kiểm tra tài chính.
Cụ thể :
- Kiểm tra việc xây dựng và chấp hành dự toán, thực hiện kế hoạch thu chi, biên chế, tiêu chuẩn, xây dựng và chấp hành quyết toán ở các cơ quan chính quyền, các doanh nghiệp quốc gia, xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh, các hợp tác xã và các đoàn thể nhân dân được Chính phủ cấp kinh phí hay trợ cấp.
- Kiểm tra việc chấp hành chính sách, luật lệ, chế độ tài chính.
- Kiểm tra việc chấp hành nhiệm vụ tài chính của các ngành Kho bạc, Thuế vụ, Thuế Nông nghiệp, Muối, Rượu, Hải quan và các ngành khác.
- Kiểm tra sự hoàn thành nhiệm vụ tài chính và nghĩa vụ nộp thuế, nộp lại, nộp tiền khấu hao của các doanh nghiệp quốc gia, xí nghiệp quốc doanh, công tư hợp doanh và hợp tác xã được Chính phủ cấp vốn.
- Kiểm tra tình hình quản lý các tài sản quốc gia.
- Kiểm tra công tác thẩm kê và kế toán của các cán bộ và nhân viên thẩm kê và kế toán các cấp.
- Kiểm tra việc chấp hành các quy tắc, chế độ về ngân sách Nhà nước của các cơ quan và Ngân hàng.
- Kiểm tra việc thực hiện tiết kiệm chi tiêu, chống tham ô, lãng phí .
- Tố cáo những hành động phạm pháp về mặt chấp hành tài chính.
Riêng đối với các cơ quan quân đội, có điều lệ kiểm tra tài chính quy định riêng không thuộc phạm vi nghị định thông tư này.
PHẠM VI NHIỆM VỤ CỦA MỖI CẤP
Ban Thanh tra tài chính của Bộ Tài chính trung ương chịu trách nhiệm kiểm tra tài chính toàn quốc (trung ương và địa phương và điều khiển công việc của các cấp thanh tra tài chính địa phương).
Các Ban Thanh tra tài chính khu, tỉnh, thành phố phụ trách kiểm tra chủ yếu trong phạm vi các ngành thuộc cấp mình. Tuy nhiên, đối với công việc của tất cả các đơn vị thuộc trung ương quản lý đóng ở địa phương, cơ quan Thanh tra tài chính địa phương cũng cần để ý theo dõi để khi có hiện tượng sai phạm nghiêm trọng thì kịp thời báo cáo lên trung ương quyết định phái cán bộ về kiểm tra hoặc ủy nhiệm cho Ban Thanh tra địa phương kiểm tra.
II. THI HÀNH QUYỀN KIỂM TRA TÀI CHÍNH
Khi cơ quan Thanh tra tài chính các cấp tiến hành công tác kiểm tra theo nhiệm vụ và quyền hạn của mình, sẽ tùy hòan cảnh và trường hợp cụ thể mà áp dụng những loại phương sách cần thiết. Theo quy định thì những phương sách đó như sau :
Khi cơ quan Thanh tra Tài chính các cấp tiến hành công tác kiểm tra theo nhiệm vụ và quyền hạn của mình, sẽ tùy hoàn cảnh và trường hợp cụ thể mà áp dụng những loại phương sách cần thiết. Theo quy định thì những loại phương sách đó như sau :
1) Điều tra xem xét kế hoạch thu chi, kinh phí, kế hoạch tài vụ, tình hình tài khỏan, biểu đồ, sổ kế toán, chứng từ kiểm tra tiền mặt tồn quỹ, chứng khoản có giá trị, các loại hiện vật, và tất cả các giấy tờ hồ sơ có liên quan đến công việc kiểm tra. Nếu trong lúc kiểm tra có nghi vấn thì yêu cầu cơ quan hoặc cá nhân được kiểm tra phải giải thích bằng văn bản; thấy có sự liên quan đến các cơ quan khác hay người khác thì được quyền điều tra tại các cơ quan hay cá nhân đó. Các cơ quan và cá nhân có liên quan có nhiệm vụ phải báo cáo công việc, cung cấp tài liệu.
2) Dự các hội nghị có liên quan đến công việc quản lý tài chính hay đề nghị triệu tập các hội nghị cần thiết cho việc kiểm tra.
3) Khi phát hiện thấy đơn vị được kiểm tra chấp hành không đúng chính sách, chế độ và kế hoạch kinh tế tài chính, thì có thể báo cho Ủy ban hay cơ quan Tài chính trú quán xét hoãn cấp phát, giảm bớt đi hay ngừng phát hoặc thu hồi kinh phí dự toán hay vốn cấp phát.
4) Khi thấy có những sự việc vi phạm chính sách, chế độ, kỷ luật tài chính và những hành động phạm pháp khác thì tùy theo sự sai lầm nặng nhẹ mà đề nghị cải tiến, sửa chữa, kiểm thảo, phê bình.
Trường hợp khẩn thiết có thể đề nghị cơ quan được kiểm tra hay Ủy ban Hành chính địa phương tạm thời đình chỉ công tác một cán bộ, công nhân viên, đề nghị cơ quan có thẩm quyền tạm giữ một cá nhân hay quyền trữ một số tài sản nếu xét cần cho việc kiểm tra hay cho việc bảo vệ tài chính Nhà nước.
Nếu trường hợp nghiêm trọng phải trừng phạt hay xử lý theo hình sự thì liên lạc chặt chẽ với ban Thanh tra chính quyền đồng cấp để cùng nhau kiểm tra cho được cẩn thận.
Đơn vị được kiểm tra hay cơ quan lãnh đạo của đơn vị ấy đối với những vụ mà cơ quan Thanh tra tài chính đã thông tri để xử phạt, nếu để kéo dài hay giải quyết chưa đúng thì cơ quan kiểm tra tài chính phải đốc thúc hay hỏi lại; các cơ quan hay nhân viên đó có nhiệm vụ phải trả lời. Cơ quan được kiểm tra đối với việc giải quyết đó, nếu vẫn cho là chưa đúng thì báo cho Ban Thanh tra chính quyền sở tại điều tra giải quyết.
Các cơ quan hay nhân viên để kéo dài hay xử lý chưa đúng như nói trên đều phải liên đới chịu trách nhiệm.
5) Khi thấy dự toán hay chế độ, thể lệ có chỗ không thích hợp với tình hình thực tế thì phải phản ảnh cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
6) Đối với những cơ quan, cán bộ hay nhân viên chấp hành tốt chính sách, kỷ luật, chế độ tài chính, tiết kiệm được công quỹ, có nhiều sáng kiến góp vào việc xây dựng chế độ thì đề nghị Bộ hay Ủy ban Hành chính địa phương khen thưởng.
7) Đối với những người kiên quyết đấu tranh chống những hành động sai phạm và tích cực phát giác những sự việc tham ô, lãng phí, có tinh thần trách nhiệm, bảo vệ tài sản Nhà nước khỏi bị tổn thất thì đề nghị với Ủy ban Hành chính địa phương Bộ sở quan hay Chính phủ khen thưởng.
III. THÀNH LẬP BỘ MÁY THANH TRA TÀI CHÍNH CÁC CẤP :
Điều 4 nghị định Thủ tướng phủ đã quy định thành lập bộ máy Thanh tra tài chính ở các cấp trung ương, liên khu, khu, thành phố, tỉnh. Nhưng đây là một tổ chức mới đặt ra, mặt khác nhiệm vụ tài chính của các địa phương phát triển không đều nhau, cán bộ có khả năng có hạn, cho nên sẽ thành lập dần dần.
1)Tổ chức:
- Đối với các liên khu, khu và thành phố và các khu tự trị thì cần bố trí, sắp xếp cán bộ để thành lập ngay bộ máy Thanh tra tài chính, càng sớm càng hay.
- Đối với các tỉnh, Ủy ban Hành chính khu sẽ căn cứ vào nhu cầu công tác và khả năng cán bộ của các tỉnh mà quyết định tổ chức tỉnh nào trước, tỉnh nào sau và đề nghị gấp lên Bộ.
- Ở địa phương nào đã có tổ chức Thanh tra tài chính rồi thì cần kiện tòan gấp và hợp thức hóa tổ chức theo như quy định trong nghị định Thủ tướng phủ và thông tri này.
- Ở các tỉnh chưa có điều kiện tổ chức cơ quan Thanh tra tài chính thì nhiệm vụ kiểm tra tài chính sẽ do Ủy ban Hành chính tỉnh đảm nhiệm hay ủy nhiệm cho Ty tài chính.
2) Biên chế : Biên chế các Ban Thanh tra tài chính các cấp quy định như sau
- Các liên khu và khu tự trị từ 5 đến 7 cán bộ.
- Cấp tỉnh, thành phố, khu Hồng Quảng từ 3 đến 5 cán bộ.
Các địa phương sẽ căn cứ vào tình hình thực tế mà bố trí số cán bộ cần thiết.
3) Tiêu chuẩn cán bộ :Công tác kiểm tra tài chính, liên quan đến mọi chính sách, mọi ngành và mọi cơ quan, cho nên cán bộ Thanh tra cần phải có lập trường vững và nắm vững chính sách, nguyên tắc và chế độ tài chính, cần có trình độ nhận xét, phân tích sâu sắc và toàn diện, biết phát hiện vấn đề và cương quyết đấu tranh chống các sai lầm. Vì vậy mà phải lựa chọn cán bộ có trình độ chính trị vững, nghiệp vụ tương đối khá, có nhiều kinh nghiệm. Phải đặc biệt chú ý hai điểm là phẩm chất trong sạch và kinh nghiệm tương đối khá.
Cụ thể cần nhằm những tiêu chuẩn dưới đây về mặt trình độ và khả năng .
- Ở cấp trung ương, cán bộ trình độ chính trị từ bí thư huyện ủy đến khu ủy viên hay tương đương, trình độ nghiệp vụ từ phó phòng ở Bộ đến giám đốc Vụ, Sở.
- Ở cấp liên khu và khu tự trị: cán bộ trình độ chính trị từ thường vụ huyện ủy đến bí thư tỉnh ủy hay tương đương , trình độ nghiệp vụ từ phó phòng khu đến giám đốc khu hoặc tương đương.
- Ở cấp thành phố, đặc khu Hồng Quảng và tỉnh, cán bộ trình độ chính trị từ huyện ủy viên đến tỉnh ủy viên hay tương đương, trình độ nghiệp vụ từ phó phòng tỉnh đến trưởng Ty hay tương đương.
Nên cố gắng bảo đảm được tiêu chuẩn về cả hai mặt chính trị hoặc nghiệp vụ. Hoàn cảnh khó khăn thì một trong hai mặt hoặc chính trị hoặc nghiệp vụ cũng được nhưng trong trường hợp này mặt chuyên môn cần bảo đảm đúng tiêu chuẩn.
Bổ nhiệm: Cán bộ Thanh tra tài chính trung ương do Bộ Tài chính lựa chọn và bổ nhiệm; Trưởng ban và Phó trưởng ban Thanh tra tài chính trung ương do nghị định Thủ tướng Phủ bổ nhiệm. Cán bộ Thanh tra tài chính khu, tỉnh, thành phố do Ủy ban Hành chính khu, tỉnh, thành phố tự lựa chọn và bổ nhiệm; Trưởng ban và Phó Trưởng ban Thanh tra tài chính khu, tỉnh, thành phố do Ủy ban Hành chính địa phương đề nghị Bộ ra nghị định bổ nhiệm.
IV. LÃNH ĐẠO BỘ MÁY THANH TRA TÀI CHÍNH CÁC CẤP
Ban Thanh tra tài chính của Bộ Tài chính trung ương điều khiển công việc kiểm tra tài chính toàn quốc và chịu sự lãnh đạo của Bộ Tài chính. Ban Thanh tra tài chính ở mỗi cấp chịu sự lãnh đạo của Ban Thanh tra tài chính cấp trên của nó, đồng thời chịu sự lãnh đạo của cơ quan sở tại thành lập ra nó (khu hay Ty tài chính). Gặp trường hợp xảy ra ý kiến xung đột giữa cơ quan sở tại đó và Ban Thanh tra tài chính cấp trên thì nó phải chấp hành quyết định và chỉ thị của Ban Thanh tra tài chính cấp trên. Như vậy là áp dụng chế độ lãnh đạo hai chiều nhưng đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Bộ máy Thanh tra tài chính trung ương.
Tất cả các Ban Thanh tra tài chính các cấp đều phải thực hiện chế độ báo cáo hàng tháng, hàng 3 tháng, gửi lên Thủ tướng của cơ quan kiểm tra tài chính cấp trên và Thủ trưởng của khu hay Ty Tài chính, để thẩm xét tình hình chấp hành nhiệm vụ kiểm tra tài chính.
Nếu thấy sự sai phạm chế độ, kỷ luật hành chính tại Ủy ban Hành chính hay cơ quan Tài chính sở tại, Ban Thanh tra tài chính phải nêu ra để Ủy ban Hành chính hay cơ quan Tài chính chấn chỉnh lại; nếu bất đồng ý kiến thì Ban Thanh tra tài chính phải báo cáo lên Ban Thanh tra tài chính cấp trên xét.
Ban Thanh tra Tài chính trung ương và Ban Thanh tra tài chính khu định kỳ triều tập hội nghị Thanh tra tài chính các cấp để kiểm tra tình hình công tác kiểm tra và trao đổi, phổ biến kinh nghiệm.
a) Quan hệ với Ban Thanh tra chính quyền :
Công tác kiểm tra tài chính là một bộ phận trong toàn bộ công tác thanh tra chính quyền. Để thực hiện nguyên tắc chính quyền tập trung và thống nhất lãnh đạo tại mỗi địa phương, quan hệ giữa Ban Thanh tra tài chính và Ban Thanh tra chính quyền là :
- Ban Thanh tra tài chính phải thống nhất đường lối phương hướng kiểm tra tài chính từng thời kỳ với đường lối phương hướng công tác của Ban Thanh tra chính quyền.
- Trong quá trình công tác kiểm tra của Ban Thanh tra chính quyền, nếu có liên quan về mặt tài chính, nên có Ban Tài chính phối hợp công tác, trường hợp Ban Thanh tra chính quyền thấy sự phối hợp là cần thiết thì Ban Thanh tra tài chính có nhiệm vụ cử người tham gia.
- Khi Ban Thanh tra tài chính chấp hành nhiệm vụ, cần phải liên lạc chặt chẽ với Ban Thanh tra chính quyền, nếu xảy ra trường hợp nghiêm trọng cần phải xử lý theo hình sự, thì nên cùng nhau phối hợp kiểm tra để cho được cẩn thận hơn.
- Báo cáo công tác tuần kỳ hay từng việc của Ban Thanh tra tài chính gửi lên cấp trên, phải đồng thời gửi lên Ban Thanh tra chính quyền một bản.
b) Quan hệ với các cơ quan khác :
Các Ban Thanh tra tài chính các cấp cần phải đặt quan hệ chặt chẽ với các Ban Thanh tra các Bộ khác để tìm hiểu tình hình và phân phối công tác kiểm tra mỗi khi cần. Mặt khác, phải luôn luôn đặt quan hệ chặt chẽ với các ngành để tìm hiểu, nắm tình hình, chủ động trong kế hoạch kiểm tra.
c) Trong khi thi hành kiểm tra :
Các Ban Thanh tra tài chính một mặt dựa vào sự giúp đỡ của Đảng và chính quyền địa phương, một mặt đi sâu vào sổ sách tài liệu, một mặt dựa vào tổ chức quần chúng, phát động tư tưởng công nhân viên, cán bộ và nhân dân. Trong quá trình công tác phải giữ vững lập trường, nắm vững chính sách, nguyên tắc, cương quyết nhưng thận trọng, luôn luôn có thái độ khiêm tốn, khách quan, thật sự cầu thị, tránh chủ quan, thành kiến : cán bộ kiểm tra có trách nhiệm tìm ra sự thật, phải dựa theo luật lệ đã quy định mà giải quyết cho thật cẩn thận.
Đối với các yêu cầu của Ban Thanh tra đề ra để chấp hành nhiệm vụ quyền hạn trong khi kiểm tra, cơ quan được kiểm tra có nhiệm vụ phải thỏa mãn; nếu có ý kiến gì thì với lý do đầy đủ, vẫn có thể đề nghị lên cơ quan Thanh tra cấp trên xét lại.
d) Các Ban Thanh tra các cấp phải có chương trình kế hoạch kiểm tra hàng năm ,hàng 6 tháng, 3 tháng. Chương trình kế hoạch phải được cấp trực tiếp lãnh đạo mình (cơ quan Tài chính lập ra mình và cơ quan Thanh tra cấp trên mình ) duyệt.
e) Kiểm tra có thể là toàn diện tức là kiểm tra tòan bộ hoạt động kinh tế tài vụ của cơ quan, nhưng cũng có thể chỉ là cục bộ tức là tăng cường kiểm tra một vấn đề cá biệt.
g) Báo cáo tổng kết :
Sau khi kết thúc một cuộc kiểm tra, các Ban Thanh tra tài chính làm báo cáo tổng kết ghi rõ những khuyết điểm và những hành vi sai phạm kỷ luật hành chính, định người chịu trách nhiệm, tổng kết tình hình công tác của cơ quan và tình hình lãnh đạo của nó.
Báo cáo tổng kết phải đưa cho cơ quan được kiểm tra xem. Người phụ trách cơ quan cũng ký vào báo cáo; nếu có những điểm nào mà sau khi được giải quyết vẫn không đồng ý thì có quyền ghi ý kiến nhận xét của mình vào báo cáo hay làm một bản riêng để đính theo báo cáo. Có thể tổ chức báo cáo trước toàn thể cán bộ, công nhân viên cơ quan đó, nếu xét cần để cho anh chị em học tập rút kinh nghiệm sửa chữa.
Báo cáo tổng kết phải trình cơ quan Tài chính cấp mình và gửi một bản lên Ban Thanh tra tài chính cấp trên và một bản sao gửi Ban Thanh tra chính quyền đồng cấp để biết.
VI. TRỌNG ĐIỂM CỦA CÔNG TÁC KIỂM TRA TÀI CHÍNH TRƯỚC MẮT :
Kiểm tra tài chính là một chế độ mới và cũng là một công tác mới chấn chỉnh kiện tòan. Theo như trên đã nói, phạm vi kiểm tra rất là rộng rãi, nói chung những cơ quan kiểm tra tài chính mới thành lập có thể cảm thấy rằng làm được mặt này thì mất mặt kia, hay bị động, theo đuôi công việc, không lãnh đạo công tác đúng hướng và nhu cầu nhất định, vì vậy cho nên Bộ Tài chính ấn định công tác kiểm tra tài chính trước mắt có hai trọng điểm lớn là :
1) Kiểm tra công trình kiến thiết cơ bản và công tác tài vụ của các doanh xí nghiệp.
Kiểm tra tình hình lập dự toán, quyết toán và chấp hành dự toán quyết toán của các ngành.
- Trước hết hãy nói về kiểm tra doanh xí nghiệp : Từ nay trở đi khoản thu vào của xí nghiệp và khoản chi về kiến thiết, sản xuất là một bộ phận quan trọng nhất trong dự toán của Nhà nước, cho nên cần phải giám đốc chặt chẽ sự chấp hành dự toán của các ngành xí nghiệp, đôn đốc để kế hoạch thu chi tài vụ của các ngành đó dần dần đi vào nề nếp, để giảm bớt sự lãng phí tiền vốn của Nhà nước và để chuẩn bị trước một cơ sở tốt cho công cuộc kiến thiết rộng lớn và lâu dài của Nhà nước sau này.
- Thứ hai nói về kiểm tra tình hình lập dự toán quyết toán và chấp hành dự toán quyết toán của ngành tài chính, tài vụ các cấp : Để tăng cường dự toán quyết toán, làm cho tính chất kế hoạch của sự thu chi tài chính của Nhà nước được nâng cao hơn nữa, đối với việc lập dự toán quyết toán, chấp hành dự toán quyết toán của các ngành, cần phải thực hiện kiểm tra và giám đốc chặt chẽ. Thí dụ : kiểm tra xem việc dự toán có căn cứ trên những cơ sở cụ thể không ? Khi chấp hành làm dự toán có làm trái với kỷ luật tài chính không ? Thu nhập có hoàn thành nhiệm vụ không hay đã vượt nhiệm vụ ? Thuế có tính và thu theo đúng thuế suất đã quy định và sát tình hình thực tế không ? Có hiện tượng trốn và lẫn trốn thuế không ? Tình hình nộp vào kho như thế nào ? Việc cấp phát và sử dụng kinh phí có phải là đã chấp hành đúng theo dự toán không ? Có tôn trọng quy tắc chấp hành ngân sách không ? Có tôn trọng biên chế và các tiêu chuẩn và chi biểu công tác không ? Việc chi dụng có được ổn thỏa thích hợp không ? Có những hiện tượng vi phạm chế độ hay tham ô lãng phí không ? Khi lập quyết toán thì phải kiểm tra sự thay đổi của dự toán cùng nguyên nhân của nó, kiểm tra chứng từ chi tiêu và bảng tài sản, và xét kỹ những kết quả của các khoản thu và hiệu suất chi tiêu, việc hạch toán có chính xác không?
Trên đây là hai trọng điểm của công tác kiểm tra tài chính hiện nay, các Ban Thanh tra các cấp sẽ dựa theo trọng điểm mà mở rộng công tác, tích lũy kinh nghiêm.
2) Tổ chức kiểm tra tài chính mới được quy định, phạm vi công tác kiểm tra tài chính rộng rãi và tính chất khó khăn. Để cho công việc được tiến hành tốt, Bộ Tài chính trân trọng đề nghị các Bộ phổ biến rộng rãi những điều quy định này trong các ngành cơ quan và xí nghiệp trực thuộc.
Yêu cầu các Ủy ban Hành chính khu, thành phố, tỉnh :
a) Nghiên cứu và phổ biến rộng rãi nghị định và thông tư này trong các ngành cơ quan và xí nghiệp tại địa phương.
b) Vì tính chất và yêu cầu của công tác, cần cố gắng bảo đảm những tiêu chuẩn cán bộ Thanh tra tài chính trong việc sắp xếp, bổ nhiệm.
c) Những nơi tự xét tổ chức chưa cấp thiết hoặc điều kiện khả năng cán bộ chưa cho phép tổ chức được, cũng cần báo cáo ngay cho Bộ rõ.
d) Những nơi cần tổ chức bộ máy Thanh tra tài chính thì tích cực hòan thành tổ chức trong tháng 10 và 11 này. Xong báo cáo cho Bộ rõ để Bộ có kế hoạch tập trung bồi dưỡng nghiệp vụ cán bộ Thanh tra tài chính trong khoảng cuối năm nay.
K.T BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH |
Thông tư 116-TC-TT năm 1956 Giải thích về quyền hạn, nhiệm vụ và tổ chức các Ban Thanh tra tài chính các cấp do Bộ Tài chính ban hành
- Số hiệu: 116-TC-TT
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 26/10/1956
- Nơi ban hành: Bộ Tài chính
- Người ký: Trịnh Văn Bình
- Ngày công báo: 28/11/1956
- Số công báo: Số 38
- Ngày hiệu lực: 10/11/1956
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định