THANH TRA NHÀ NƯỚC | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1118/TT-TTNN | Hà Nội, ngày 20 tháng 7 năm 1996 |
Sau khi Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 được ban hành, nhiều Luật và Pháp lệnh đã được Nhà nước thông qua, trong đó có quy định về việc giải quyết khiếu nại của công dân. Ngày 21-5-1996, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được ban hành quy định thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính của Toà án nhân dân.
Để tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan hành chính Nhà nước với Toà án nhân dân các cấp nhằm giải quyết có hiệu quả các khiếu kiện hành chính; trong khi chờ sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 Tổng Thanh tra Nhà nước hướng một số vấn đề như sau:
1. Từ 1-7-1996 Toà án nhân dân các cấp có thẩm quyền giải quyết các vụ án hành chính. Theo quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì trước khi khởi kiện tại Toà án nhân dân, công dân phải khiếu nại với cơ quan Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính mà họ cho là trái Pháp luật. Như vậy việc giải quyết khiếu nại lần đầu thuộc trách nhiệm của các cơ quan hành chính Nhà nước.
Trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu thì người khiếu nại có quyền lựa chọn: khiếu nại lên cấp trên trực tiếp hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính.
Việc giải quyết các khiếu nại thuộc thẩm quyền của các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện theo quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 hoặc các văn bản pháp luật hiện hành.
2. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại hành chính lần đầu được xác định theo quy định tại Điều 10 Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991: "Khiếu nại đối với nhân viên mà nội dung liên quan đến trách nhiệm quản lý của cơ quan nào, thì thủ trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết. Khiếu nại đối với quyết định hoặc việc làm của thủ trưởng cơ quan nào, thì thủ trưởng cơ quan đó có trách nhiệm giải quyết".
Đối với các khiếu nại được quy định trong các Luật hoặc Pháp lệnh khác ban hành sau Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 thì thẩm quyền giải quyết lần đầu được xác định theo các văn bản Pháp luật đó.
Cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra văn bản quyết định giải quyết; nếu không giải quyết thì phải ra văn bản trả lời và ghi rõ lý do. Quyết định giải quyết hoặc văn bản trả lời phải gửi cho đương sự, đồng thời phải gửi cơ quan Nhà nước cấp trên.
Nếu quá thời hạn không có văn bản quyết định giải quyết hoặc văn bản trả lời thì thủ trưởng cơ quan đó phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
3. Nếu vụ việc đã được giải quyết lần đầu nhưng đương sự không đồng ý mà tiếp khiếu lên cơ quan Nhà nước cấp trên trực tiếp thì cơ quan đó phải tiếp nhận, giải quyết theo quy định tại Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, Nghị định 38/HĐBT ngày 28-1-1992 của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) hoặc các văn bản pháp luật hiện hành.
4. Vụ việc một người khiếu nại đã được giải quyết lần đầu sau đó vừa khởi kiện tại Toà án, vừa tiếp khiếu lên cơ quan cấp trên trực tiếp thì vụ việc đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Cơ quan đã thụ lý vụ việc phải chuyển toàn bộ hồ sơ hiện có cho Toà án có thẩm quyền.
Trường hợp cùng một vụ việc có nhiều người khiếu kiện, trong đó có người khởi kiện tại Toà án, có người tiếp khiếu lên cơ quan hành chính cấp trên thì vụ việc này thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan hành chính Nhà nước.
Khái niệm một vụ việc có nhiều người khiếu kiện là một quyết định hành chính hoặc một hành vi hành chính và những người khiếu kiện này có cùng chung một mục đích, một yêu cầu.
Ví dụ: UBND huyện B, ra quyết định giải toả nhà đất của một số hộ dân cư để xây dựng đường giao thông hoặc công trình công cộng, quyết định này có thể làm phát sinh các khiếu nại khác nhau:
- Nếu tất cả hoặc một số hộ thuộc đối tượng thi hành quyết định đó khiếu kiện về quyết định giải toả của UBND huyện B, vì cho rằng quyết định đó không đúng với quy hoạch phê duyệt, thì được coi là cùng một vụ việc có nhiều người khiếu kiện.
- Nếu một số hộ thuộc đối tượng thi hành quyết định đó khiếu nại về tính hợp pháp của quyết định đó; một số khác khiếu nại về mức đền bù thì không được coi là cùng một vụ việc có nhiều người khiếu kiện mà đây là hai vụ việc riêng biệt: Một là khiếu kiện về tính hợp pháp của quyết định giải toả, hai là khiếu kiện về mức đền bù được ghi trong quyết định đó.
5. Khi nhận được các khiếu nại đối với quyết định, hành vi có tính chất hành chính của các đoàn thể xã hội thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận và giải quyết theo trình tự và thủ tục quy định tại Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, Nghị định 38/HĐBT ngày 28-1-1992 hoặc các văn bản pháp luật hiện hành. Những khiếu nại liên quan đến việc vi phạm điều lệ, quy chế nội bộ của đoàn thể xã hội thì được giải quyết theo điều lệ của đoàn thể xã hội đó.
Ví dụ: Khiếu nại của một đoàn viên công đoàn bị khai trừ thì giải quyết theo điều lệ công đoàn. Đối với loại khiếu nại về hình thức kỷ luật hành chính của cán bộ công đoàn chuyên trách thì được giải theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo của công dân.
6. Các vụ việc khiếu nại hành chính đã được giải quyết hết thẩm quyền và theo trình tự hành chính được quy định tại Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 hoặc các văn bản pháp luật hiện hành, nếu công dân vẫn không đồng ý với quyết định giải quyết đó thì việc khởi kiện ra Toà án hay không là thuộc quyền lựa chọn của công dân.
II. VỀ TRÌNH TỰ THỦ TỤC GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
1. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra văn bản trả lời cho đương sự trong thời hạn mà pháp luật quy định, nếu đương sự không đồng ý việc giải quyết, thì văn bản trả lời là cơ sở để đương sự thực hiện quyền khởi kiện tại Toà án nhân dân hoặc tiếp khiếu lên cơ quan Nhà nước cấp trên. Nếu trong thời hạn quy định mà cơ quan đó không trả lời thì cơ quan cấp trên trực tiếp phải có biện pháp buộc cơ quan đó trả lời cho đương sự bằng văn bản như quy định tại điểm 2 phần I Thông tư này.
2. Cơ quan Nhà nước, khi nhận được khiếu nại của công dân, nếu thấy vụ việc đó đã được giải quyết lần đầu mà thuộc thẩm quyền của mình thì phải thụ lý giải quyết. Việc thụ lý thực hiện theo quy định tại Điều 21 Pháp lệnh KNTC của công dân năm 1991 và yêu cầu đương sự cung cấp văn bản quyết định giải quyết hoặc văn bản trả lời của cơ quan đã giải quyết lần đầu.
Khi thụ lý, cơ quan này phải đồng thời thông báo cho Toà án nhân dân có thẩm quyền biết.
Nếu không thuộc thẩm quyền của mình thì cơ quan nhận được khiếu nại phải hướng dẫn công dân có thể tiếp khiếu lên cơ quan có thẩm quyền hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.
3. Trong trường hợp đương sự khởi kiện tại Toà án nhân dân, Toà án đã thụ lý nhưng chưa xét xử sơ thẩm, mà đương sự rút đơn kiện, Toà án đã ra quyết định đình chỉ vụ án đó, nếu đương sự tiếp khiếu theo trình tự hành chính thì các cơ quan có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết. Trong trường hợp này, cơ quan thụ lý phải yêu cầu và đương sự có trách nhiệm cung cấp quyết định đình chỉ vụ án của Toà án nhân dân. 4. Trong quá trình giải quyết các khiếu nại hành chính tại các cơ quan Nhà nước, nếu đương sự rút đơn khiếu nại thì trả lại đơn và các tài liệu mà đương sự đã cung cấp (nếu đương sự yêu cầu). Khi nhận lại đơn và các tài liệu đó đương sự phải ký nhận.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày rút đơn, nếu đương sự có yêu cầu thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết.
5. Cơ quan, tổ chức khiếu nại đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính thì cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết theo quy định của Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, Nghị định 38/HĐBT ngày 28-1-1992 hoặc các văn bản pháp luật hiện hành.
III. TIẾP NHẬN VÀ XỬ LÝ ĐƠN THƯ KHIẾU NẠI
1. Các cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội bố trí nơi tiếp dân thuận tiện, chu đáo cho công dân đến khiếu nại. Cán bộ tiếp dân phải có năng lực phẩm chất, nắm vững pháp luật về khiếu nại, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính và các văn bản pháp luật hiện hành để tiếp nhận hoặc hướng dẫn đương sự khiếu nại đúng cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
2. Các cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội có trách nhiệm hướng dẫn người khiếu nại làm đơn có đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 18 Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991, Điều 4 Nghị định 38/HĐBT ngày 28-1-1992 theo đúng mẫu đơn kèm theo Thông tư này. Mẫu đơn phải được niêm yết công khai để người khiếu nại biết.
3. Khi nhận được đơn khiếu nại, phải bố trí cán bộ nghiên cứu, nắm chắc nội dung vụ việc và yêu cầu của đương sự; người xử lý đơn phải đối chiếu với các văn bản pháp luật hiện hành để xác định đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Nếu vụ việc thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì vào sổ thụ lý và báo cho đương sự biết. Nếu vụ việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì trả lại đơn cho đương sự và hướng dẫn họ đến đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Trường hợp trong một đơn đương sự ghi gửi nhiều cơ quan, trong đó đã có cơ quan có thẩm quyền giải quyết thì các cơ quan khác nhận được đơn thông báo cho đương sự đến đúng cơ quan có thẩm quyền đó mà không trả lại đơn cho đương sự (trừ trường hợp đương sự có yêu cầu).
Ví dụ: Trong đơn khiếu nại, đương sự gửi: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Tổng Thanh tra Nhà nước, Bộ trưởng Bộ X, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh A, Thanh tra tỉnh A, Chủ tịch UBND huyện B. Sau khi nghiên cứu thấy việc khiếu nại thuộc thẩm quyền của Chủ tịch UBND huyện B, thì các cơ quan khác không trả lại đơn cho đương sự (trừ trường hợp đương sự có yêu cầu) và thông báo cho đương sự đến UBND huyện B để được giải quyết.
4. Cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội khi nhận được đơn thuộc thẩm quyền của mình, nếu thấy đương sự viết đơn không theo mẫu quy định hoặc nội dung vụ việc chưa rõ ràng thì yêu cầu đương sự viết lại đơn.
Sau khi đã được giải quyết lần đầu mà đương sự không đồng ý, tiếp khiếu lên cơ quan cấp trên trực tiếp thì cơ quan đó chỉ thụ lý giải quyết khi đương sự có cam kết không khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân.
5. Khi giải quyết đơn khiếu nại, cơ quan Nhà nước, đoàn thể xã hội phải ra quyết định giải quyết theo quy định tại Điều 25 Pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân năm 1991 và mẫu quyết định theo hướng dẫn tại Thông tư 842/TTNN ngày 17-7-1995 của Thanh tra Nhà nước; nếu là văn bản trả lời khiếu nại thì phải thực hiện theo quy định tại điểm 2 phần I Thông tư này.
1. Các cấp, các ngành có trách nhiệm tiếp tục tổ chức học tập, quán triệt trong các cơ quan Nhà nước; tuyền truyền, hướng dẫn cho nhân dân hiểu biết và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Các tổ chức Thanh tra Nhà nước phối hợp với các cơ quan chức năng làm tham mưu cho thủ trưởng các cấp, các ngành tổ chức thực hiện thật tốt, học tập nắm vững pháp luật giải quyết khiếu nại, tố cáo để cơ quan, tổ chức và công dân chấp hành.
2. Các cấp, các ngành, trong phạm vi chức năng của mình, chấn chỉnh công tác tiếp dân, xử lý đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền; tăng cường kiểm tra đôn đốc việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của các cơ quan thuộc quyền quản lý của mình; biểu dương, khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Phối hợp với Toà án nhân dân để giải quyết có hiệu quả các khiếu kiện hành chính.
3. Căn cứ vào hướng dẫn trong Thông tư này, các tổ chức Thanh tra Nhà nước cần có kế hoạch chủ động phối hợp với các ngành hữu quan tuyên truyền hướng dẫn việc thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo; đẩy mạnh giải quyết các khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền của các tổ chức Thanh tra Nhà nước; tăng cường kiểm tra trách nhiệm giải quyết khiếu nại, tố cáo của Thủ trưởng các cấp, các ngành; kịp thời phát hiện các trường hợp vi phạm để kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý.
Thanh tra các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Thanh tra các Bộ, ngành phải định kỳ báo cáo về Thanh tra Nhà nước tình hình khiếu nại, tố cáo và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo; chú trọng việc tổng kết kinh nghiệm, đổi mới phương pháp công tác nhằm nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Các Vụ và đơn vị thuộc Thanh tra Nhà nước, theo chức năng của mình, giúp Tổng Thanh tra Nhà nước triển khai việc thực hiện Thông tư này; tăng cường kiểm tra các cấp, các ngành thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo, đề nghị khen thưởng các cơ quan, đơn vị, cá nhân làm tốt, kiến nghị xử lý các cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm các quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Trong quá trình thực hiện Thông tư này, các địa phương, Bộ, ngành nếu có vấn đề vướng mắc thì phản ánh kịp thời về Thanh tra Nhà nước để có những sửa đổi, bổ sung kịp thời.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Kính gửi: (Đề đúng cơ quan có thẩm quyền giải quyết)
1. Người khiếu nại
2. Đối tượng bị khiếu nại
3. Nội dung khiếu nại
- Tóm tắt vụ việc khiếu nại
- Những quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm
4. Quá trình khiếu nại và việc giải quyết khiếu nại
5. Những yêu cầu của người khiếu nại
6. Cam kết của người khiếu nại
7. Tài liệu gửi theo đơn:
1.
2.
3.
...
Người khiếu nại
(Ký và ghi rõ họ tên)
Chú giải:
Những nội dung ghi trong đơn khiếu nại
1. Người khiếu nại.
a. Trường hợp người khiếu nại là cá nhân.
Phải ghi đầy đủ họ và tên địa chỉ của người khiếu nại, nếu có người đại diện thì ghi rõ họ tên của người đại diện và ghi rõ mối quan hệ của họ với người khiếu nại.
b. Trường hợp người khiếu nại là cơ quan, tổ chức.
Phải ghi rõ tên cơ quan, tổ chức, địa chỉ cơ quan tổ chức đó.
2. Đối tượng bị khiếu nại.
Ghi rõ khiếu nại về việc gì, nếu khiếu nại về:
a. Quyết định hành chính: Phải ghi rõ cơ quan ra quyết định; số quyết định; ngày tháng năm ra quyết định; người ký quyết định.
b. Về hành vi hành chính: Phải ghi rõ họ tên chức vụ địa chỉ, người thực hiện hành vi hành chính.
3. Nội dung khiếu nại.
a. Tóm tắt việc khiếu nại: ghi ngắn gọn, rõ ràng, trung thực diễn biến nội dung vụ việc khiếu nại.
b. Những quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm: phải ghi rõ quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính (như đã nêu ở trên) đã xâm phạm đến những quyền và lợi ích hợp pháp nào của mình.
4. Quá trình khiếu nại và kết quả giải quyết khiếu nại.
Ghi rõ đã gửi đơn đến cơ quan nào; đã được những cơ quan nào giải quyết và kết quả giải quyết.
5. Những yêu cầu của người khiếu nại.
Những yêu cầu này phải xuất phát từ nội dung, những yêu cầu đó có thể là: khôi phục quyền và lợi ích, đòi bồi thường và mức độ bồi thường.v.v...
6. Cam kết của người khiếu nại.
a. Ghi những cam kết của người khiếu nại về nội dung đã trình bày trong đơn và tính chính xác của tài liệu kèm theo.
b. Trường hợp vụ việc đã được giải quyết lần đầu mà tiếp khiếu theo trình tự hành chính thì người khiếu nại phải cam kết không khởi kiện vụ việc này ra Toà án.
7. Tài liệu gửi kèm theo đơn (nếu có): Bao gồm các quyết định, văn bản trả lời của cơ quan, ảnh, sơ đồ... có giá trị chứng minh cho nội dung khiếu nại; phải ghi theo thứ tự thời gian, trung thực, rõ ràng chính xác.
* Mẫu đơn khiếu nại này ban hành kèm theo Thông tư số 1118/TT. TTNN ngày 20 tháng 7 năm 1996 của Tổng Thanh tra Nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay.
| Tạ Hữu Thanh (Đã ký) |
Thông tư 1118/TT-TTNN-1996 hướng dẫn giải quyết khiếu nại hành chính hiện nay do Thanh Tra Nhà Nước ban hành
- Số hiệu: 1118/TT-TTNN
- Loại văn bản: Thông tư
- Ngày ban hành: 20/07/1996
- Nơi ban hành: Thanh tra Nhà nước
- Người ký: Tạ Hữu Thanh
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 04/08/1996
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định