VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 79/TB-VPCP | Hà Nội, ngày 04 tháng 07 năm 2000 |
THÔNG BÁO
Ý KIẾN KẾT LUẬN CỦA PHÓ THỦ TƯỚNG PHẠM GIA KHIÊM TẠI HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC VỀ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ CHUYÊN GIA
Trong hai ngày 08 và 09 tháng 6 năm 2000, tại Trung tâm Hội nghị quốc tế Hà Nội, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã chủ trì Hội nghị toàn quốc về xuất khẩu lao động. Tham dự Hội nghị có đại diện lãnh đạo một số Bộ, ngành, Ban của Đảng, ủy ban của Quốc hội, đoàn thể chính trị - xã hội, cơ quan ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và Giám đốc các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, một số doanh nghiệp tham gia xuất khẩu lao động.
Thủ tướng Phan Văn Khải đã đến dự và phát biểu ý kiến chỉ đạo quan trọng.
Trong phiên họp bế mạc, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã phát biểu kết luận Hội nghị như sau :
Hội nghị toàn quốc về xuất khẩu lao động đã thành công tốt đẹp. Hội nghị đã đánh giá kết quả bước đầu triển khai thực hiện Chỉ thị số 41 của Bộ Chính trị và Nghị định số 152 của Chính phủ về công tác xuất khẩu lao động và thảo luận về phương hướng, cơ chế chính sách và những biện pháp cần thiết để đẩy mạnh công tác này trong thời gian tới. Khẳng định xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế - xã hội có ý nghĩa chiến lược, là nhu cầu khách quan của nền kinh tế nước ta, góp phần đáng kể vào việc phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao tay nghề cho người lao động, góp phần tăng thu cho đất nước và tăng cường hợp tác quốc tế.
I. Đánh giá chung :
Trong vài năm gần đây, nhất là từ sau khi có Chỉ thị số 41 của Bộ Chính trị, Nghị định số 152 của Chính phủ công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia có tiến bộ rõ rệt, bước đầu đã đạt được những kết quả khả quan, tạo được đà cho sự phát triển trong thời kỳ tới :
1. Thị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia đang dần được mở rộng ra nhiều nước, từ 12 nước năm 1992 đến 38 nước năm 1999; số lượng lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài đang từng bước gia tăng, từ 1,3 vạn người năm 1996, tăng lên 2,2 vạn người năm 1999; số ngoại tệ do người lao động chuyển về nước ngày càng lớn. Riêng số lao động xuất khẩu từ năm 1996 đến nay đã gửi về bình quân 250 triệu USD/năm trong số khoảng 1 tỷ USD/năm tiền gửi về nước của lao động và chuyên gia Việt Nam đang làm việc ở nước ngoài.
2. Công tác đào tạo nguồn lao động và chuyên gia để đi làm việc ở nước ngoài bước đầu được đặt ra và tổ chức thực hiện.
3. Nhà nước đã ban hành các văn bản pháp quy để điều chỉnh hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia; phân biệt ngày càng rõ hơn công tác quản lý Nhà nước và hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp xuất khẩu lao động, tạo ra cơ chế đã tương đối thông thoáng, đơn giản thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất khẩu lao động.
II. Những tồn tại :
Chiến lược xuất khẩu lao động chưa được xác định thật rõ, đây là trách nhiệm thuộc các cơ quan quản lý; chất lượng lao động còn thấp; hệ thống văn bản pháp luật vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ; chưa có chính sách và biện pháp đầu tư chủ động mở thị trường; công tác đào tạo nguồn lao động và chuyên gia cho xuất khẩu chưa được coi trọng; công tác quản lý, tổ chức thực hiện xuất khẩu lao động còn có những yếu kém, bất cập và những tiêu cực... cần phải khẩn trương và kiên quyết khắc phục.
III. Về phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia :
Nước ta có tiềm năng lớn về lao động và chuyên gia, thị trường lao động trên thế giới mà ta có thể tiếp cận còn rộng mở, vì thế công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia trong thời gian tới cần phải chú trọng những vấn đề như sau :
1. Các Bộ, ngành, các cấp chính quyền địa phương, các doanh nghiệp phải đặt công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia đúng với vị trí và yêu cầu của nó đối với đất nước. Cần quán triệt sâu sắc ý kiến chỉ đạo của đồng chí Thủ tướng tại Hội nghị này, phải coi vấn đề xuất khẩu lao động và chuyên gia là một trong các nhiệm vụ chính trị không chỉ có ý nghĩa kinh tế, mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn, không chỉ có ý nghĩa trước mắt, mà còn có ý nghĩa lâu dài... để từ đó có kế hoạch và giải pháp thiết thực và hiệu quả.
2. Phải coi trọng việc duy trì và mở rộng trị trường xuất khẩu lao động và chuyên gia. Cần tổ chức tốt công tác tìm kiếm và khai thác thị trường xuất khẩu lao động. Các cơ quan đại diện ngoại giao của ta ở nước ngoài phải coi đây là một nhiệm vụ quan trọng, cần chủ động và có sự phối hợp với đại diện của các công ty của Việt Nam tại nước ngoài, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài để thực hiện tốt nhiệm vụ này. Phấn đấu để đến năm 2005, ta có được 50 vạn và đến 2010 có tối thiểu 1 triệu lao động và chuyên gia làm việc ở nước ngoài.
3. Tăng cường quản lý vĩ mô về công tác xuất khẩu lao động. Tăng cường và đẩy mạnh công tác kiểm tra và thanh tra về xuất khẩu lao động. Các tỉnh, các ngành có số lượng lao động xuất khẩu lớn cần củng cố tổ chức và cơ chế quản lý xuất khẩu lao động. Khẩn trương củng cố và tăng cường năng lực các đơn vị làm công tác quản lý xuất khẩu lao động, nghiên cứu hình thành các tổ chức quản lý lao động ở nước ngoài.
4. Tiếp tục đổi mới hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia :
- Các đơn vị doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động cần ý thức rõ đây không phải là hoạt động kinh doanh thuần túy, chỉ vì lợi nhuận, mà còn là một nhiệm vụ xã hội lớn. Do đó phải tạo điều kiện thuận lợi và quan tâm đến lợi ích chính đáng của người lao động, bảo vệ lợi ích của người lao động.
- Về đối tượng đi xuất khẩu lao động : trước hết cần ưu tiên cho những người chưa có công ăn việc làm, nhất là ở nông thôn, người nghèo, các gia đình chính sách; số thanh niên đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự; đội ngũ chuyên gia...
- Đa dạng hóa thị trường và ngành nghề lao động. Khuyến khích lao động và chuyên gia làm việc trong các công trình nhận thầu ở nước ngoài.
- Tổ chức lại các cơ sở đào tạo, xây dựng quy hoạch và xác định rõ nội dung, chương trình đào tạo nhằm đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn lao động, nâng cao chất lượng lao động. Trong đào tạo, chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm của người lao động, nâng cao ý thức dân tộc, bản chất tốt đẹp của người Việt Nam, giới thiệu đất nước và dân tộc Việt Nam với bè bạn, chú trọng nâng cao trình độ ngoại ngữ và phổ biến phong tục, tập quán của nước đến lao động; nâng cao tay nghề lao động cho phù hợp với từng loại công việc. Hình thành hệ thống đào tạo phù hợp, bên cạnh các trường lớn, phải có cơ chế và hình thức xã hội hóa đào tạo, song nhất thiết phải quản lý được chất lượng đào tạo, chế độ chính sách đào tạo, nội dung chương trình đào tạo.
- Phải chấn chỉnh sắp xếp, tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Chỉ các doanh nghiệp có điều kiện và bảo đảm chất lượng mới được làm xuất khẩu lao động và chuyên gia. Các doanh nghiệp phải dựa vào các cấp chính quyền địa phương và các đoàn thể trong công tác tổ chức tuyển chọn người lao động.
5. Tiếp tục bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp quy về xuất khẩu lao động và chuyên gia :
Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng chính sách tái đầu tư thuế xuất khẩu lao động cho doanh nghiệp; chính sách hỗ trợ doanh nghiệp từ Quỹ phát triển thị trường; phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng quy định về phí môi giới.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xây dựng chính sách tín dụng cho người nghèo đi xuất khẩu lao động.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì cùng các cơ quan liên quan xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo nguồn lao động và kiến nghị sửa đổi, bổ sung chính sách bảo hiểm xã hội.
Bộ Tư pháp triển khai ký kết các Hiệp định tương trợ tư pháp với một số nước có nhiều lao động và chuyên gia Việt Nam, để bảo vệ quyền lợi người lao động Việt Nam ở nước ngoài.
6. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính : Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì phối hợp với các Bộ, ngành hữu quan, nghiên cứu trình Thủ tướng Chính phủ quy trình tuyển dụng lao động, quản lý người lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài. Bảo đảm dân chủ và công khai trong tuyển chọn lao động. Rà soát lại các thủ tục hành chính, đơn giản công khai các thủ tục nhằm giảm phiền hà cho người lao động và doanh nghiệp, đồng thời chống các tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia; giảm đến mức thấp nhất và công khai các khoản người lao động phải đóng góp.
7. Các cơ quan bảo vệ pháp luật phối hợp chặt chẽ với ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và các cấp chính quyền kiểm tra, phát hiện và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia, loại trừ các tiêu cực trong lĩnh vực này.
8. Các cơ quan thông tin đại chúng cần tăng cường công tác thông tin tuyên truyền để nhân dân hiểu rõ chủ trương, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu lao động và chuyên gia của Đảng và Nhà nước, tham gia quảng bá về lao động Việt Nam ra nước ngoài, chống các tiêu cực trong hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia... nhằm góp phần xây dựng ý thức trách nhiệm của người lao động, bảo đảm thông tin chính xác, không đưa tin bất lợi cho việc mở rộng thị trường lao động, làm lộ bí mật hoặc ảnh hưởng không tốt đến quan hệ đối ngoại.
9. Những việc cần làm ngay :
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội :
+ Có kế hoạch và thực hiện các giải pháp cụ thể chấn chỉnh ngay công tác quản lý xuất khẩu lao động. Xây dựng quy chế, cơ chế cho một số doanh nghiệp ngoài quốc doanh thí điểm tham gia xuất khẩu lao động.
+ Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan xây dựng quy hoạch đào tạo nghề phục vụ xuất khẩu lao động để trình Chính phủ trong tháng 9 năm 2000.
+ Phối hợp với Bộ Ngoại giao xây dựng quy chế phối hợp để duy trì và mở rộng thị trường lao động và quản lý lao động Việt Nam ở nước ngoài.
+ Phối hợp với Bộ Giao thông vận tải để có đề án đào tạo và tuyển thuyền viên đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
- Bộ Quốc phòng có đề án về việc đưa lực lượng bộ đội xuất ngũ tham gia xuất khẩu lao động.
- Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì phối hợp cùng các Bộ, ngành liên quan xây dựng đề án đào tạo và đưa chuyên gia đi lao động ở nước ngoài.
Xuất khẩu lao động và chuyên gia không phải là công việc mới, nhưng cần được tăng cường mạnh mẽ trong những năm sắp tới, để trở thành một trong những hướng quan trọng của chương trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, đưa đất nước ta phát triển nhanh trong những năm đầu của thế kỷ 21. Các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị cần quán triệt và triển khai có hiệu quả công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia.
Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các cơ quan có liên quan biết và thực hiện./.
Nơi nhận : | KT. BỘ TRƯỞNG, |
- 1Công văn số 4140/TM-TCCB ngày 25/08/2004 của Bộ Thương mại về việc công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia
- 2Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi 1998
- 3Công văn số 105/QLLĐNN-TTLĐ về việc danh sách các doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt động xuất khẩu lao động do Cục Quản lý lao động ngoài nước ban hành
- 4Chỉ thị 41/CT-TW năm 1998 về xuất khẩu lao động và chuyên gia do Bộ Chính trị ban hành
- 5Thông báo 332/TB-VPCP năm 2013 kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải -Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước dự án thủy điện Sơn La-Lai Châu tại cuộc họp Ban Chỉ đạo do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 1Công văn số 4140/TM-TCCB ngày 25/08/2004 của Bộ Thương mại về việc công tác xuất khẩu lao động và chuyên gia
- 2Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi 1998
- 3Công văn số 105/QLLĐNN-TTLĐ về việc danh sách các doanh nghiệp đã được cấp phép hoạt động xuất khẩu lao động do Cục Quản lý lao động ngoài nước ban hành
- 4Chỉ thị 41/CT-TW năm 1998 về xuất khẩu lao động và chuyên gia do Bộ Chính trị ban hành
- 5Thông báo 332/TB-VPCP năm 2013 kết luận của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải -Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước dự án thủy điện Sơn La-Lai Châu tại cuộc họp Ban Chỉ đạo do Văn phòng Chính phủ ban hành
Thông báo số 79/TB-VPCP về ý kiến kết luận của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm tại Hội nghị toàn quốc về xuất khẩu lao động và chuyên gia do Văn phòng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 79/TB-VPCP
- Loại văn bản: Thông báo
- Ngày ban hành: 04/07/2000
- Nơi ban hành: Văn phòng Chính phủ
- Người ký: Trần Quốc Toản
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 04/07/2000
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực