Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
TỔNG LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG VIỆT NAM | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 59/BC-TLĐ | Hà Nội, ngày 01 tháng 11 năm 2004 |
BÁO CÁO THÁNG 10 NĂM 2004
1. Một số hoạt động chào mừng ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10 và phong trào thi đua trong CNVCLĐ.
Kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, các cấp công đoàn đã có nhiều hoạt động ôn lại truyền thống đấu tranh cách mạng, những đóng góp của phụ nữ Việt Nam trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước như tổ chức các buổi toạ đàm về chủ đề gia đình, giới; tổ chức gặp mặt nữ CNLĐ tiêu biểu trong lao động, sản xuất; tổ chức các hội thi kiến thức pháp luật - gia đình, nữ công gia chánh; thi văn nghệ, thể thao và phát động phong trào thi đua thu hút đông đảo nữ CNVCLĐ tham gia. LĐLĐ thành phố Hà Nội tổ chức tổng kết 5 năm phong trào “Mẹ lao động giỏi, con học giỏi” trong nữ CNVCLĐ thủ đô; Công đoàn Ngân hàng VN tổ chức hội nghị biểu dương “Nữ CNVCLĐ vượt khó lao động giỏi, nuôi con học giỏi” toàn ngành ngân hàng; LĐLĐ tỉnh Bình Dương tổ chức toạ đàm về chủ đề “Nâng cao vai trò của phụ nữ trong giai đoạn hiện nay”; LĐLĐ tỉnh Nghệ An tổ chức hội thảo “Cán bộ nữ quản lý với gia đình và xã hội”; Công đoàn ngành Công nghiệp phối hợp với Ban Vì sự tiến bộ phụ nữ Bộ Công nghiệp tổ chức hội thi nữ công giỏi toàn ngành ...
Thiết thực lập thành tích chào mừng các ngày kỷ niệm lớn của đất nước trong 2 năm 2004-2005, Đại hội thi đua CNVCLĐ toàn quốc và Đại hội thi đua toàn quốc lần thứ VII, các cấp công đoàn đã vận động đoàn viên, CNVCLĐ hăng hái thi đua, khắc phục mọi khó khăn, phát huy nội lực, năng động sáng tạo trong lao động sản xuất và công tác với mục tiêu năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội cao và bảo đảm ATVSLĐ. Tổng Liên đoàn đã có Chỉ thị số 04 chỉ đạo, hướng dẫn các cấp công đoàn phát động phong trào thi đua đặc biệt từ nay đến cuối năm 2005, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2004-2005.
Tổng Liên đoàn phối hợp với Ban Tư tưởng văn hoá TW, Hội đồng thi đua khen thưởng nhà nước tổ chức phổ biến, triển khai những ngày hội “Bàn tay vàng - sản phẩm vàng” đến LĐLĐ tỉnh, thành phố, CĐ ngành, Tổng công ty, lực lượng vũ trang và 200 DN tiêu biểu phía Nam sẽ diễn ra tại thành phố Hồ Chí Minh từ ngày 19 đến ngày 26/11/2004.
Thời gian qua, phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” đã thu hút hàng vạn nữ CNVCLĐ tham gia; kịp thời động viên, khen thưởng chị em trong lao động, sản xuất và xây dựng gia đình hạnh phúc. Tổng Liên đoàn đã có văn bản hướng dẫn công đoàn cấp dưới tổng kết 5 năm phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” trong nữ CNVCLĐ. Văn bản xác định thời gian, phương pháp tổng kết cho từng cấp công đoàn, tiêu chuẩn, hình thức khen thưởng và kinh phí tổ chức hội nghị nhằm đánh giá kịp thời kết quả phong trào thi đua “Giỏi việc nước, đảm việc nhà” 5 năm (2001 - 2005), từ đó xây dựng phương hướng, mục tiêu cho phong trào thi đua mới trong nữ CNVCLĐ.
2. Công tác đào tạo cán bộ và phát triển đoàn viên.
Nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ công đoàn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công đoàn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Đoàn Chủ tịch Tổng Liên đoàn đã ra Nghị quyết về “Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn”, phấn đấu đến năm 2008 đạt 80% cán bộ công đoàn chuyên trách có trình độ đại học và được bồi đưỡng lý luận nghiệp vụ công tác công đoàn; 40% có trình độ lý luận chính trị trung cao cấp trở lên, 100% cán bộ công đoàn không chuyên trách được tập huấn, bồi dưỡng công tác công đoàn trong nhiệm kỳ. Nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố tổ chức hội thảo tìm biện pháp nâng cao nghiệp vụ, trình độ học vấn cho cán bộ công đoàn và tổ chức tập huấn nghiệp vụ công đoàn. Công đoàn ngành Công nghiệp tổ chức tập huấn cho cán bộ CĐCS về thương lượng tập thể và kinh nghiệm hoạt động công đoàn trong công ty đa quốc gia. LĐLĐ tỉnh Khánh hoà tập huấn công tác nữ công cho cán bộ công đoàn. Công đoàn giáo dục VN tổ chức hội thảo “Tình hình đội ngũ và nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công đoàn”...
Triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Tổng Liên đoàn LĐVN (khoá IX) về chương trình phát triển 1 triệu đoàn viên, các LĐLĐ địa phương, công đoàn ngành TW đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động và xây dựng kế hoạch phát triển đoàn viên công đoàn cơ sở xã, phường, thị trấn, CĐCS khu vực NQD đến hết năm 2004. Nhiều địa phương đã tổ chức hội nghị, hội thảo đánh giá kết quả thực hiện chương trình từ Đại hội IX đến nay và tìm giải pháp thực hiện trong năm 2005. LĐLĐ Phú Thọ tổ chức hội nghị đánh giá kết quả phát triển đoàn viên, thành lập và hoạt động công đoàn mẫu giáo mầm non ngoài công lập. LĐLĐ Quảng Nam tổ chức hội nghị rút kinh nghiệm về phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS xã, phường, thị trấn và phát triển CĐ khu vực NQD. Công đoàn ngành Công nghiệp cùng với Công đoàn Kim khí quốc tế khu vực Châu á TBD (IMF) tổ chức hội thảo với chủ đề Chương trình hành động và phát triển tổ chức công đoàn...
Trong tháng, các cấp công đoàn thành phố Hải Phòng đã thành lập 62 CĐCS, phát triển 4.273 đoàn viên; Bình Dương 23 CĐCS, 1.836 đoàn viên; Đồng Nai 9 CĐCS, 1.089 đoàn viên; Quảng Ninh 11 CĐCS, 246 đoàn viên; Đồng Tháp 8 CĐCS, 345 đoàn viên; Cần Thơ 11 CĐCS, 423 đoàn viên; Khánh Hoà 44 CĐCS, 570 đoàn viên; Vĩnh Phúc 2 CĐCS, 351 đoàn viên; Quảng Nam 3 CĐCS, 149 đoàn viên; Vĩnh Long 2 nghiệp đoàn, 111 đoàn viên; Đắk Lắc 13 CĐCS, 286 đoàn viên; Ninh Thuận 6 CĐCS, 254 đoàn viên; Bắc Ninh 1 CĐCS, 100 đoàn viên; Hà Tĩnh 4 CĐCS, 135 đoàn viên; Bà Rịa - Vũng Tàu, 10 CĐCS, nghiệp đoàn, 240 đoàn viên; Trà Vinh, 4 CĐCS, 78 đoàn viên...
3. Một số hoạt động chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động và hoạt động xã hội.
Hiện nay, nhu cầu nhà ở, thuê chỗ ở cho CNLĐ rất lớn, cả nước có 107 KCN, KCX với khoảng 737.500 CNLĐ, trong đó có khoảng 70% là lao động nhập cư, 80% có nhu cầu thuê chỗ ở. Để tìm giải pháp, góp phần giải quyết nhu cầu về nhà ở cho CNLĐ, Tổng Liên đoàn đã phối hợp với Tổng Hội Xây dựng VN tổ chức hội thảo về nhà ở cho người có thu nhập thấp tại các đô thị và khu công nghiệp với mục đích đánh giá một cách đầy đủ thực trạng nhà ở của người thu nhập thấp ở đô thị và KCN, từ đó đưa ra các giải pháp kiến nghị sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách để từng bước giải quyết nhà ở cho các đối tượng trên.
Tổng Liên đoàn đã tham gia góp ý dự thảo Thông tư hướng dẫn Nghị định 113/2004/NĐ-CP về BHXH theo hướng cần quy định xử phạt hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật lao động trong lĩnh vực bảo hiểm, tăng mức phạt đối với hành vi trốn đóng BHXH nhằm hạn chế tình trạng trốn đóng và nợ đọng BHXH.
Trong tháng, nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố tổ chức tổng kết 10 thực hiện Nghị quyết 01/TLĐ về cải thiện nội dung, phương thức hoạt động của tổ chức công đoàn trong công tác BHLĐ. Qua kiểm tra và báo cáo tổng kết của các đơn vị, việc thực hiện BHLĐ đã được chú trọng, quan tâm hơn, nhiều địa phương đã có 100 CĐCS thành lập hội đồng bảo hộ lao động, song đối với một số đơn vị NQD điều kiện làm việc của NLĐ chưa được cải thiện.
Uỷ ban kiểm tra TLĐ đã tiến hành kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Công đoàn VN tại một số LĐLĐ tỉnh, thành phố và công đoàn cơ sở. Qua kiểm tra, hầu hết các đơn vị đều tổ chức phổ biến, triển khai Nghị quyết Đại hội IX CĐVN, các Chỉ thị, Nghị quyết của TLĐ đến CNVCLĐ; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt, hoạt động của công đoàn và quy định việc công khai tài chính công đoàn; xây dựng và thực hiện các Chỉ thị, Nghị quyết, qui chế hoạt động của Ban Chấp hành, ban Thường vụ, UBKT công đoàn các cấp theo đúng quy định... Nhiều LĐLĐ tỉnh, thành phố đã xây dựng và triển khai thực hiện chương trình phối hợp hàng năm với UBND, các Sở, ban, ngành.
Trong tháng, đã xảy ra 12 cuộc tranh chấp lao động và đình công, nâng tổng số tranh chấp lao động và đình công 10 tháng đầu năm lên 99 cuộc, tăng 10 cuộc so với cùng kỳ năm 2003. Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh 6, Hải Phòng 2, Đồng Nai 2, Đà Nẵng, Bình Dương mỗi địa phương xảy ra 1 cuộc. Có 10 cuộc xảy ra tại DN có vốn đầu tư nước ngoài (Hàn Quốc 3, Đài Loan 2, Nhật Bản 2, Trung Quốc 1, Pháp 1, Singapore 1), 1 DNNN và 1 ngoài quốc doanh khác. Nguyên nhân chủ yếu là do người sử dụng lao động vi phạm quy định về chế độ tiền lương, không đóng BHXH, tăng ca nhiều, môi trường làm việc không bảo đảm an toàn vệ sinh... Ngay sau khi xảy ra sự việc, các cấp công đoàn đã chủ động phối hợp với chính quyền, cơ quan chức năng yêu cầu người sử dụng lao động giải quyết chế độ cho người lao động theo đúng quy định của pháp luật và vận động CNLĐ trở lại làm việc.
Hoạt động xã hội của các cấp công đoàn trong tháng tập trung vận động CNVCLĐ tham gia ủng hộ xây dựng nhà ở cho CNLĐ có hoàn cảnh khó khăn, gia đình chính sách. Công đoàn Cao su vận động CNLĐ ủng hộ xây dựng 20 căn nhà tình thương với tổng trị giá 140 triệu đồng; Quảng Ninh, 6 căn nhà với tổng số tiền 71 triệu đồng; Bà Rịa - Vùng Tàu trao 9 căn nhà tình thương với tổng trị giá 63 triệu đồng; Hải Phòng trao nhà “Mái ấm công đoàn” cho 9 gia đình; Đồng Tháp, 30 căn nhà cho người nghèo; Bến Tre, 5 căn nhà tình nghĩa, tình thương...
4. Một số tình hình đời sống công nhân, lao động trong các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Trong thời gian qua, thực hiện đường lối đổi mới, Đảng và chính phủ đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách giải quyết việc làm cho người lao động. Nhiều KCN- KCX, khu kinh tế được thành lập; hàng vạn DN mới được thành lập theo Luật DN; xuất khẩu lao động ngày càng tăng… đã góp phần giải quyết việc làm cho hàng triệu lao động. Tuy nhiên, xu hướng chuyển dịch, biến động lao động và giải quyết lao động dôi dư trong quá trình sắp xếp lại, cổ phần hoá DNNN đang gây sức ép lớn cho công tác quản lý, sử dụng lao động ở nhiều DN thuộc các tỉnh, TP lớn, các KCN tập trung.
Tiền lương bình quân của CNLĐ ở các KCN- KCX nhìn chung còn thấp, chỉ đạt từ 650.000 đến 750.000 đồng/ người/ tháng và không có khoản thu nhập nào khác, trong khi giá cả các mặt hàng thiết yếu ngày càng tăng và người lao động thường xuyên phải làm việc thêm giờ với cường độ lao động cao.
Bên cạnh nhiều DN quan tâm cải thiện điều kiện làm việc vẫn còn không ít DNTN và DN có vốn ĐTNN, điều kiện và môi trường làm việc của người lao động chưa tốt, có những hành xử làm xấu quan hệ lao động, vi phạm pháp luật lao động, phổ biến là: Kéo dài thời gian làm việc, định mức lao động cao, tăng cường độ lao động, tăng ca triền miên; không công khai đơn giá tiền lương, không nâng lương, nâng bậc, cúp phạt tiền lương, không trả lương ngừng việc; đóng chậm, đóng không đủ, nợ đọng và không đóng BHXH, BHYT; quản lý lao động khắc nghiệt, đối xử thô bạo, chửi mắng, đánh, nhục mạ người lao động; sa thải, kỷ luật, chấm dứt HĐLĐ tuỳ tiện…
Thực trạng trên là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến xảy ra tranh chấp lao động và đình công. Mặc dù CĐ đã chủ động cùng các cơ quan chức năng giải quyết, nhưng tình hình tranh chấp lao động và đình công vẫn diễn biến ngày càng phức tạp. Theo báo cáo chưa đầy đủ, 10 tháng đầu năm 2004 (tính đến 30/10), cả nước đã xảy ra 99 cuộc tranh chấp lao động, lãn công và đình công. Tính chất các cuộc đình công phức tạp hơn so với các năm trước, có vụ người lao động tham gia đình công sử dụng băng rôn, kích động, hăm doạ những người không tham gia đình công, cá biệt có vụ phản ứng dây chuyền khi thấy công ty khác đình công thì cũng đình công theo. Hầu hết các cuộc đình công đều không đúng trình tự quy định của pháp luật và không do CĐCS lãnh đạo.
Nhà ở và điều kiện sống của CNLĐ đang là vấn đề lớn và rất bức xúc ở các tỉnh, thành phố lớn, các khu công nghiệp tập trung, có đông CNVCLĐ. Trong khi đó, việc qui hoạch, xây dựng các KCX- KCN chưa gắn với việc xây dựng nhà ở và các công trình phúc lợi phục vụ công nhân.
Trên thực tế, khi phát triển các KCN - KCX, các nhà quản lý ít chú ý đến khía cạnh xã hội mà nặng về mục tiêu kinh tế. Nhiều DN không muốn đầu tư xây dựng nhà ở cho CN vì vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi rất chậm. Mặc dù đã có Nghị định 71 của Chính Phủ nhưng nhiều nơi không có chính sách ưu đãi về thuế, giá đất, vay vốn…vì vậy, càng nhiều KCN ra đời thì sức ép về nhà ở cho CN càng lớn, khiến đa số công nhân phải tự thuê chỗ ở, sống và sinh hoạt trong khu nhà trọ tạm bợ, nhếch nhác, không có điều kiện sống tối thiểu, ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ, giống nòi và là những yếu tố phát sinh tệ nạn xã hội, gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội.
Theo báo cáo của các cấp công đoàn, TP Hà Nội có khoảng 17.000 CNLĐ đang làm việc tại các KCN- KCX nhưng vẫn chưa có khu nhà ở nào dành cho CNLĐ; TP Hồ Chí Minh, tuy các công ty hạ tầng KCN - KCX đều có đề án xây dựng nhà ở cho CNLĐ nhưng số được UBND thành phố phê duyệt chưa nhiều. Trong số gần 1 triệu công nhân làm việc tại các KCN- KCX và các DN khác nhưng chỉ có khoảng 2% công nhân được ở nhà trọ có điều kiện tương đối đảm bảo; trong các KCN tỉnh Bình Dương mới có 07 DN xây dựng 74 nhà trọ, giải quyết chỗ ở cho 250 công nhân; tỉnh Đồng Nai có 15 KCN đang hoạt động nhưng có khoảng hơn 100.000 công nhân phải ở nhà trọ tư nhân; TP Đà Nẵng hiện có gần 98 ngàn lao động đang làm việc trong các DN thuộc các thành phần kinh tế, riêng 5 KCN- KCX có khoảng 3 vạn công nhân, đa số đến từ địa phương khác nhưng chưa có KCN nào có chỗ ở cho công nhân; TP Hải Phòng có 6 vạn công nhân trong hai ngành công nghiệp Da- Giày và May mặc với 90% là nữ đều phải sống trong các nhà trọ, thậm chí có phòng trọ chỉ rộng 13 m2 mà có tới 8 nữ CN ở chung; các KCN tỉnh Vĩnh Phúc có 5000 công nhân phải tự thuê nhà ở với giá 150.000 đ- 200.000 đ/ng/tháng trong khi thu nhập chỉ đạt gần 500.000 đ/ng/tháng…
Vì thu nhập thấp, người lao động chỉ tạm đủ chi tiêu trong cuộc sống ở mức tối thiểu của bản thân (chi tiền thuê nhà trọ, tiền ăn, tiền điện nước sinh hoạt và phục vụ sinh hoạt cá nhân) và với áp lực công việc căng thẳng, điều kiện sống tạm bợ, thiếu thốn trong các khu nhà trọ, chịu tác động của đủ thứ TNXH, nên đời sống văn hoá, tinh thần của phần lớn CNLĐ làm việc ở các KCN- KCX rất thấp kém, các cấp CĐ đã cố gắng tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao tại các DN, nhưng chưa được nhiều. Các nhu cầu đời thường khác như học tập nâng cao trình độ học vấn, tay nghề, có khu vui chơi giải trí, mua sắm, dịch vụ, nhà gửi trẻ… chưa được nhà nước và DN chú ý đầu tư. Bên cạnh đó, do thời gian nghỉ rất hạn hẹp nên nhiều người không được tham gia các sinh hoạt văn hoá tinh thần lành mạnh, rất nhiều công nhân giải trí bằng cờ bạc, rượu chè, tiềm ẩn nhiều nguy cơ dẫn đến tha hoá một bộ phận người lao động và đang làm phát sinh nhiều tiêu cực. Sự mất cân đối nghiêm trọng về giới, nam ít, nữ nhiều trong các DN dệt may, da giày (90% là nữ), KCN- KCX tập trung đông CNLĐ gây khó khăn cho sự tìm hiểu, kết bạn của nữ CNLĐ, ảnh hưởng đến việc xây dựng tình yêu, hạnh phúc gia đình. Đáng chú ý, ở một số DN đã có hiện tượng chủ DN là người nước ngoài lôi kéo, dụ dỗ CNLĐ tham gia lập hội, hoạt động truyền đạo trái phép.
Trước thực trạng trên, đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội sớm ban hành Pháp lệnh về đình công và giải quyết tranh chấp lao động. Đề nghị Chính phủ sớm ban hành cơ chế, chính sách ưu đãi đặc biệt về đất, lãi suất tín dụng vốn vay, thuế... coi chính sách nhà ở là chính sách xã hội, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và chính quyền địa phương xây dựng nhà ở để bán theo hình thức trả góp cho người lao động có thu nhập thấp, cho CNLĐ thuê với giá phù hợp... Quan tâm chỉ đạo xây dựng các thiết chế văn hoá trong các doanh nghiệp, xây dựng cụm các công trình công cộng phục vụ đời sống CNLĐ gồm nhà ở, bệnh viện, trường học, nhà trẻ, nhà mẫu giáo, dịch vụ... góp phần ổn định cuộc sống CNLĐ ở các KCN tập trung.
5. Một số hoạt động khác
- Trong các ngày 14, 19 tháng 10, Đoàn Chủ tịch TLĐ đã làm việc với CĐ Tổng công ty Hoá chất Việt Nam, CĐ Tổng công ty Dệt may VN về tình hình CNVCLĐ và hoạt động công đoàn từ Đại hội IX đến nay. Đoàn Chủ tịch đã ghi nhận, biểu dương những thành tích mà các cấp công đoàn đạt được trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội IX CĐVN, giải đáp các kiến nghị cụ thể của các CĐ ngành, công đoàn TCT và đề nghị các cấp công đoàn cần tham gia có hiệu quả hơn nữa vào việc sắp xếp DN, sắp xếp lại lao động và chăm lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của CNLĐ, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước.
- Từ ngày 10 -17/10, đoàn đại biểu Tổng Liên đoàn LĐVN đi thăm và làm việc tại Hoa Kỳ. Đoàn đã trao đổi với Chủ tịch Phòng Thương mại Hoa Kỳ; Chủ tịch tập đoàn Nike; với đại diện Bộ Ngoại giao; Bộ Lao động Hoa kỳ; Uỷ ban Tài chính Hạ viện Hoa kỳ; Trung tâm đoàn kết của Trung ương Công đoàn Hoa Kỳ về Công đoàn VN; việc thực thi các điều ước quốc tế về lao động, tiêu chuẩn lao động, quyền lao động; quyền công đoàn và các vấn đề trong quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.
- Trong tháng 10, lãnh đạo Tổng Liên đoàn đã tiếp Đoàn đại biểu Trung tâm Công đoàn ấn độ (CITU), đoàn đại biểu Công đoàn những người lao động phổ thông Đan Mạch (SID), đoàn đại biểu Công đoàn Nauy (LO Nauy). Tại các buổi tiếp, lãnh đạo Tổng Liên đoàn đã trao đổi với đại diện CITU, SID, LO Nauy về hoạt động công đoàn, phát triển đoàn viên công đoàn, việc thực thi chế độ, chính sách cho người lao động và tăng cường hợp tác hữu nghị giữa Tổng Liên đoàn với CITU, SID, LO Nauy.
- Ngày 5/10, Tổng Liên đoàn ra Nghị quyết số 02/NQ-TLĐ của Đoàn Chủ tịch TLĐLĐVN (khoá IX) về đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức công đoàn. Nghị quyết đánh giá tình hình nghiên cứu lý luận và hoạt động khoa học trong tổ chức công đoàn thời gian qua; mục tiêu thời gian tới; nêu 5 giải pháp đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, hoạt động khoa học và ứng dụng các kết quả nghiên cứu; trách nhiệm của các cấp công đoàn trong việc triển khai thực hiện Nghị quyết.
| T/L. ĐOÀN CHỦ TỊCH TỔNG LIÊN ĐOÀN LĐVN |
Thông báo số 59/BC-TLĐ về báo cáo tháng 10 năm 2004 do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành
- Số hiệu: 59/BC-TLĐ
- Loại văn bản: Văn bản khác
- Ngày ban hành: 01/11/2004
- Nơi ban hành: Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam
- Người ký: Hoàng Ngọc Thanh
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra