Hệ thống pháp luật

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------

Số: 327/TB-VPCP

Hà Nội, ngày 13 tháng 11 năm 2009

 

THÔNG BÁO

Ý KIẾN KẾT LUẬN CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ NGUYỄN TẤN DŨNG TRONG CHUYẾN KIỂM TRA VÀ LÀM VIỆC TẠI TỈNH LAI CHÂU VỀ DỰ ÁN THỦY ĐIỆN LAI CHÂU

Ngày 04 tháng 11 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã đến thăm và làm việc tại tỉnh Lai Châu để kiểm tra địa điểm xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu, nghe báo cáo về kế hoạch triển khai xây dựng nhà máy và kế hoạch di dân, tái định cư.

Cùng đi và làm việc có các đồng chí: Ksor Phước, Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội, Thái Phụng Nê, Phái viên của Thủ tướng Chính phủ; đại diện lãnh đạo các Bộ, cơ quan: Công Thương, Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Xây dựng, Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Lao động - Thương binh và Xã hội, Công an, Quốc phòng, Văn phòng Chính phủ; lãnh đạo Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu; lãnh đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Tổng công ty Sông Đà.

Sau khi nghe lãnh đạo Tập đoàn Điện lực Việt Nam và tỉnh Lai Châu báo cáo; ý kiến của lãnh đạo các Bộ, cơ quan; Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng kết luận như sau:

I. ĐÁNH GIÁ CHUNG

Đảng và Nhà nước đã quan tâm đến quy hoạch và khai thác tiềm năng thủy điện của sông Đà, là dòng sông có công suất thủy điện lớn nhất trong các dòng sông của cả nước. Cùng với các công trình thủy điện đã và đang xây dựng trên dòng chính là Hòa Bình (1920MW) và Sơn La (2400 MW); các công trình thủy trên các dòng nhánh gồm: Huội Quảng (560 MW), Bản Chát (220 MW), Nậm Chiến (200 MW)…; Chính phủ đã báo cáo Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư dự án thủy điện Lai Châu, công suất 1200 MW, là bậc thang trên cùng của dòng chính sông Đà. Khi xây dựng xong thủy điện Lai Châu, tiềm năng thủy điện trên sông Đà cơ bản được khai thác hết.

Việc đầu tư xây dựng công trình thủy điện Lai Châu là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, có ý nghĩa quan trọng đối với Quốc gia và đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lai Châu nói chung, huyện Mường Tè nói riêng.

Thủy điện Lai Châu là công trình lớn, phức tạp về địa hình, tiến độ xây dựng công trình cần phải khẩn trương vì liên quan đến tiến độ tích nước của thủy điện Sơn La; nếu chậm, khi mức nước hồ thủy điện Sơn La lên cao, việc thi công sẽ khó khăn và làm tăng chi phí xây dựng công trình, nên có thể xem đây là dự án cấp bách cần có cơ chế thực hiện đặc biệt.

Chính phủ đánh giá cao nỗ lực của các cơ quan chức năng trong quá trình chuẩn bị đầu tư dự án, từ Quy hoạch bậc thang sông Đà đến lập Báo cáo đầu tư trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư, đồng thời tiến hành công tác khảo sát để phục vụ việc lập Dự án đầu tư và thiết kế kỹ thuật công trình để khi Quốc hội thông qua sẽ triển khai được ngay các bước tiếp theo.

Thống nhất về nguyên tắc với kế hoạch khởi công xây dựng thủy điện Lai Châu vào cuối năm 2010, ngăn sông Đà cuối năm 2011, phát điện tổ máy đầu tiên vào năm 2016 và hoàn thành toàn bộ công trình vào năm 2017. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cần tìm ra các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ, nâng cao hiệu quả của dự án.

Về công tác di dân tái định cư, cần thực hiện tốt yêu cầu người dân di chuyển đến nơi cư trú mới có cuộc sống tốt hơn nơi ở cũ. Tỉnh Lai Châu đã thực hiện tốt công tác di dân tái định cư của các dự án thủy điện Sơn La, Huội Quảng, Bản Chát, tỉnh cần nhân rộng để đảm bảo thành công trong công tác di dân, tái định cư thủy điện Lai Châu; cần kết hợp tái định cư với sắp xếp lại dân cư trên địa bàn tỉnh, gắn với xóa nghèo đói, để trẻ em được đến trường, nâng cao trình độ văn hóa. Xây dựng các dự án tái định cư chi tiết, trong đó chú ý phát triển các công trình cơ sở hạ tầng: giao thông, quỹ đất, nguồn nước, trường học, trạm y tế; lập các dự án trồng cây công nghiệp (cây cao su) để xóa nghèo và ổn định cuộc sống lâu dài cho người dân.

Chính phủ biểu dương tinh thần nỗ lực của tập thể cán bộ, công nhân viên Tập đoàn Điện lực Việt Nam đã tập trung triển khai các bước chuẩn bị theo đúng tiến độ. Hoan nghênh và biểu dương Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc tỉnh Lai Châu và huyện Mường Tè đã không quản ngại khó khăn, sẵn sàng thực hiện công tác di dân, tái định cư, nhường đất cho việc xây dựng công trình, vì dòng điện tương lai của Tổ quốc.

II. CÁC NGUYÊN TẮC CHÍNH TRONG QUẢN LÝ VÀ THỰC HIỆN DỰ ÁN THỦY ĐIỆN LAI CHÂU

Dự án thủy điện Lai Châu cần được triển khai thực hiện ngay sau khi Quốc hội thông qua chủ trương đầu tư. Từ kinh nghiệm thực hiện Dự án thủy điện Sơn La, các nguyên tắc chính trong quản lý và thực hiện Dự án thủy điện Lai Châu như sau:

1. Ngoài thủy điện Sơn La, Ban chỉ đạo Nhà nước Dự án thủy điện Sơn La được thành lập theo Quyết định số 09/2004/QĐ-TTg ngày 15 tháng 01 năm 2004 của Thủ tướng Chính phủ sẽ đồng thời chỉ đạo việc thực hiện Dự án thủy điện Lai Châu.

2. Các cơ chế đặc thù trong quản lý, thực hiện dự án và công tác di dân tái định cư về nguyên tắc được áp dụng cơ chế như với dự án thủy điện Sơn La.

3. Nhằm phát huy nội lực của các doanh nghiệp trong nước và nâng cao hiệu quả dự án; về nguyên tắc, các đơn vị hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong quá trình thực hiện dự án thủy điện Sơn La sẽ tiếp tục thực hiện dự án thủy điện Lai Châu, bao gồm: đơn vị tư vấn, Tổng thầu xây dựng và các đơn vị tham gia xây dựng, các nhà thầu chế tạo thiết bị cơ khí thủy công.

III. NHIỆM VỤ CỦA CÁC BỘ, NGÀNH, ĐỊA PHƯƠNG VÀ CÁC ĐƠN VỊ LIÊN QUAN

1. Bộ Công Thương:

- Chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo, giải trình Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư tại kỳ họp thứ 6 đang diễn ra tại Thủ đô Hà Nội; chỉ đạo chủ đầu tư và đơn vị tư vấn giải quyết những vấn đề còn tồn tại trong quá trình lập Dự án đầu tư thủy điện Sơn La.

- Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương có liên quan có ý kiến về cơ chế đặc thù trong quản lý và thực hiện Dự án thủy điện Lai Châu, tổ hợp nhà thầu xây dựng dự án do Tập đoàn Điện lực Việt Nam đề nghị, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư:

- Chủ trì thẩm định Dự án đầu tư thủy điện Lai Châu trên cơ sở duy trì Hội đồng thẩm định Nhà nước được thành lập tại Quyết định số 222/QĐ-TTg ngày 22 tháng 02 năm 2008 của Thủ tướng Chính phủ.

- Bố trí đủ vốn cho tuyến đường từ thị trấn Mường Tè đi Pắc Ma là tuyến đường đã có kế hoạch đầu tư.

3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn:

Chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu, khẩn trương hoàn thành Quy hoạch tổng thể di dân tái định cư để có thể trình duyệt đồng thời với Dự án đầu tư.

IV. VỀ CÁC KIẾN NGHỊ CỦA TẬP ĐOÀN ĐIỆN LỰC VIỆT NAM VÀ TỈNH LAI CHÂU

1. Về các đề nghị của Tập đoàn Điện lực Việt Nam:

Đồng ý về nguyên tắc với các đề nghị của Tập đoàn:

- Cho phép chỉ định Công ty cổ phần Tư vấn xây dựng Điện 1 là tư vấn lập Dự án đầu tư công trình thủy điện Lai Châu được tiếp tục thực hiện tư vấn chính lập thiết kế kỹ thuật, thiết kế bản vẽ thi công Dự án thủy điện Lai Châu. Những phần việc kỹ thuật phức tạp mà tư vấn trong nước chưa có nhiều kinh nghiệm, cho phép thuê tư vấn nước ngoài làm tư vấn phụ theo hợp đồng.

- Để đảm bảo mục tiêu tiến độ khởi công dự án thủy điện Lai Châu cuối năm 2010 và ngăn sông Đà cuối năm 2011, phù hợp với tiến độ tích nước của hồ chứa thủy điện Sơn La, cho phép triển khai thiết kế, phê duyệt thiết kế - dự toán và thi công xây dựng trước một số hạng mục công trình. Danh mục cụ thể, Bộ Công Thương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần có ý kiến sớm, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

- Cho phép phê duyệt riêng thiết kế kỹ thuật, bản vẽ thi công các hạng mục công trình dẫn dòng thi công trước khi thiết kế kỹ thuật công trình được duyệt.

- Đồng ý về nguyên tắc giao Hội đồng Quản trị Tập đoàn Điện lực Việt Nam chỉ định thầu tư vấn thiết kế, phê duyệt thiết kế - dự toán, chỉ định các nhà thầu có năng lực trong nước thi công trước các hạng mục công trình nêu trên đảm bảo chất lượng, tiến độ và phù hợp với thiết kế cơ sở thuộc Dự án thủy điện Lai Châu.

- Về cơ chế thu xếp vốn cho dự án, Tập đoàn đưa vào cơ chế quản lý và thực hiện Dự án thủy điện Lai Châu, trình duyệt theo quy định.

2. Về các đề nghị của tỉnh Lai Châu:

- Đồng ý gắn đầu tư xây dựng nhà máy thủy điện Lai Châu với việc di dân, tái định cư và phát triển kinh tế - xã hội huyện Mường Tè, phù hợp với trình độ phát triển của các huyện khác trong tỉnh và khu vực Tây Bắc.

- Đồng ý về nguyên tắc, sau năm 2012 tách huyện Mường Tè thành hai huyện. Giao Bộ Nội vụ chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu xem xét phân định địa giới hành chính của các huyện, trình Chính phủ xem xét, quyết định. Giao Bộ Xây dựng giúp tỉnh Lai Châu lập quy hoạch thị trấn huyện mới tại Nậm Hàng gắn với công trình xây dựng thủy điện Lai Châu.

- Giao Bộ Giao thông vận tải chủ trì, phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Lai Châu và các Bộ, ngành liên quan lập dự án đầu tư 03 cầu qua sông Đà và hệ thống đường ngang để phát triển kinh tế, sắp xếp, bố trí dân cư phía tây huyện Mường Tè (tả ngạn Sông Đà); lập dự án nâng cấp tuyến đường Tỉnh lộ 127 đoạn từ đập thủy điện Lai Châu (thuộc xã Nậm Hàng) đến Pắc Ma từ quy mô cấp VI miền núi lên quy mô đường cấp V miền núi.

- Giao Bộ Giao thông vận tải nghiên cứu, quy hoạch kéo dài đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai về 2 nhánh đến Lai Châu và Hà Giang.

- Về dự án Sân bay Lai Châu: giao Bộ Giao thông vận tải tiếp tục hoàn chỉnh, phê duyệt quy hoạch chi tiết, lập dự án đầu tư, Chính phủ sẽ đầu tư khi có điều kiện về vốn.

Văn phòng Chính phủ xin thông báo để các Bộ, ngành, địa phương và các đơn vị liên quan biết, thực hiện.

 

 

Nơi nhận:
- Thủ tướng, các PTT Chính phủ;
- Hội đồng Dân tộc của Quốc hội;
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc CP;
- Tỉnh ủy, UBND tỉnh Lai Châu;
- Tập đoàn Điện lực Việt Nam;
- Tổng công ty Sông Đà;
- Đ/c Thái Phụng Nê, Phái viên TTgCP;
- VPCP: BTCN, các PCN, Cổng TTĐT, Các Vụ: TKBT, TH, KTTH, ĐP;
- Lưu: Văn thư, KTN (5).

KT. BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM
PHÓ CHỦ NHIỆM




Văn Trọng Lý

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Thông báo 327/TB-VPCP về ý kiến kết luận của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng trong chuyến kiểm tra và làm việc tại tỉnh Lai Châu về dự án thủy điện Lai Châu do Văn phòng Chính phủ ban hành

  • Số hiệu: 327/TB-VPCP
  • Loại văn bản: Thông báo
  • Ngày ban hành: 13/11/2009
  • Nơi ban hành: Văn phòng Chính phủ
  • Người ký: Văn Trọng Lý
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 13/11/2009
  • Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực
Tải văn bản