THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 626/QĐ-TTg | Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 1993 |
QUYẾT ĐỊNH
CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ SỐ626/QĐ-TTg NGÀY 30 THÁNG 12 NĂM 1993 VỀ VIỆC QUY TẬP MỘ VÀ XÂY DỰNG NGHĨA TRANG LIỆT SỸ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật tổ chức Chính phủ ngày 30/9/1992
Theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng,
QUYẾT ĐỊNH
Điều 2- Trong quá trình tìm kiếm, quy tập mộ liệt sỹ ở trong nước và trên đất Lào, tổ chức đưa hài cốt những liệt sỹ xác định rõ tên và quê quán về các nghĩa trang nơi cư trú của gia đình liệt sỹ; và quy tập hài cốt những liệt sỹ khuyết danh hoặc không xác định rõ quê quán vào nghĩa trang liệt sỹ gần nhất.
Từ nay về sau việc xây dựng các công trình tưởng niệm liệt sỹ phải đi dần vào quy hoạch theo hướng: ở những địa danh gắn với chiến tích lịch sử tiêu biểu cần có tượng đài hay nghĩa trang liệt sỹ, các công trình này được quản lý như đối với các di tích lịch sử, văn hoá: ở cấp tỉnh, thành phố và huyện quận nếu chưa có nghĩa trang liệt sỹ thì xây dựng đài tưởng niệm liệt sỹ; ở xã, phường có bia ghi tên liệt sỹ.
Giao cho chính quyền địa phương quản lý, phải phân công người trông nom, bảo quản chu đáo, các nghĩa trang, đài tưởng niệm, bia ghi tên liệt sỹ.
Điều 4- Giao cho các Bộ, ngành ở Trung ương trách nhiệm cụ thể trong việc quy tập mộ và nghĩa trang liệt sỹ:
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chịu trách nhiệm cùng với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố:
- Quy tập vào nghĩa trang liệt sỹ các hài cốt liệt sỹ do các đơn vị quân đội bàn giao.
- Tổ chức việc tìm kiếm, cất bốc hài cốt còn lại theo sơ đồ mộ chỉ do các đơn vị quân đội giao lại hoặc do nhân dân phát hiện, nếu có sự xác nhận của đơn vị quân đội.
- Tổ chức thu thập, xử lý các thông tin, tài liệu có liên quan tới việc xác nhận liệt sỹ, xác định tên ở những mộ khuyết danh, tìm kiếm hài cốt chưa được quy tập về nghĩa trang liệt sỹ và thông báo với Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố địa điểm phần mộ liệt sỹ của địa phương.
2. Bộ Quốc phòng chịu trách nhiệm chỉ đạo các đơn vị quân đội tiếp tục tìm kiếm hài cốt liệt sỹ ở hải đải, biên giới, miền núi thưa dân để cất bốc hài cốt liệt sỹ bàn giao cho các địa phương. Trên cơ sở thống nhất với các cơ quan hữu trách của nước Lào, chỉ đạo các đơn vị quân đội tổ chức thực hiện việc tìm kiếm, cất bốc, chuyển hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện Việt Nam còn lại trên đất Lào về nước và chủ trì phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Văn hoá - Thông tin về việc lập đề án xây dựng đài tưởng niệm liệt sỹ quân tình nguyện Việt Nam trên đất bạn theo sự thoả thuận của Chính phủ hai nước.
3. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính bố trí kế hoạch ngân sách đáp ứng yêu cầu và tiến độ triển khai việc quy tập mộ, xây dựng nghĩa trang liệt sỹ và các đài tưởng niệm liệt sỹ.
4. Bộ Văn hoá - Thông tin có trách nhiệm chỉ đạo các phương tiện thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương cổ vũ phong trào quần chúng thực hiện công tác thương binh liệt sỹ và tham gia quản lý các nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm liệt sỹ.
5. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo các cấp các ngành và nhân dân địa phương thực hiện việc phát hiện, tìm kiếm, cất bốc hài cốt liệt sỹ còn lại trong địa bàn; tiếp nhận quy tập hài cốt liệt sỹ từ các địa phương khác chuyển về và xây dựng nâng cấp tu bổ, giữ gìn các công trình tưởng niệm, nghĩa trang liệt sỹ của địa phương; tổ chức báo tin về phần mộ liệt sỹ phù hợp với tập quán địa phương và hoàn cảnh của từng gia đình liệt sỹ, khen thưởng các đơn vị, cá nhân có thành tích và xử lý nghiêm khắc các vụ việc tiêu cực trong công tác quy tập và xây dựng nghĩa trang liệt sỹ.
Đối với các tỉnh, thành phố còn nhiều hài cốt liệt sỹ chưa tìm được để quy tập cần thành lập Ban công tác liên ngành để giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ này theo sự hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Quốc phòng.
Kinh phí phải được huy động từ nhiều nguồn:
1. Ngân sách Trung ương bảo đảm chi cho các yêu cầu: Tìm kiếm, quy tập, di chuyển, xây dựng mộ liệt sỹ (bao gồm cả việc khảo sát tìm nơi còn hài cốt, thu thập, xử lý thông tin, tài liệu có liên quan tới việc tìm kiếm hài cốt và thông báo về phần mộ tới gia đình liệt sỹ, xây dựng, nâng cấp, tu bổ giữ gìn các nghĩa trang, đài tưởng niệm gắn với các chiến tích lịch sử tiêu biểu và các nghĩa trang có nhiều mộ liệt sỹ.
2. Ngân sách địa phương bảo đảm chi cho các yêu cầu xây dựng nâng cấp, tu bổ, giữ gìn nghĩa trang liệt sỹ, đài tưởng niệm liệt sỹ của cấp tỉnh và huyện.
3. Chính quyền phối hợp với các đoàn thể quần chúng và huy động sự đóng góp của nhân dân trong xã, phường bảo đảm yêu cầu xây dựng bia ghi tên liệt sỹ của xã phường.
4. Ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương hỗ trợ một phần kinh phí cho thân nhân chủ yếu của liệt sỹ đi viếng phần mộ liệt sỹ ở xa gia đình, điều kiện đi lại khó khăn, tốn kém, theo sự hướng dẫn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Tài chính.
5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Tài chính, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước xây dựng kế hoạch chi cho công tác quy tập mộ và xây dựng nghĩa trang liệt sỹ trong cả nước và tổng hợp vào ngân sách Nhà nước hàng năm trình Chính phủ; trực tiếp quản lý, thực hiện và quyết toán phần kinh phí của Bộ, theo dõi, kiểm tra, đôn đốc các ngành các địa phương thực hiện đúng mục tiêu và kế hoạch kinh phí đã được duyệt cho ngành và địa phương...
Điều 6- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ Quốc phòng xây dựng và trình Chính phủ quy hoạch tổng thể việc quy tập mộ nghĩa trang liệt sỹ và kế hoạch thực hiện hàng năm, từ nay đến năm 1997. Lập ban chỉ đạo liên Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Quốc phòng, Tài chính, Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước về công tác quy tập mộ, nghĩa trang liệt sỹ để phối hợp hoạt động, hướng dẫn, đôn đốc các cấp, các ngành thực hiện và giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội làm cơ quan thường trực.
Điều 7- Quyết định này có hiệu lực kể từ ngày ký.
| Phan Văn Khải (Đã ký) |
Quyết định 626/QĐ-TTg năm 1993 về việc quy tập mộ và xây dựng nghĩa trang liệt sỹ do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 626/QĐ-TTg
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 30/12/1993
- Nơi ban hành: Thủ tướng Chính phủ
- Người ký: Phan Văn Khải
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 30/12/1993
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định