ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 5066/QĐ-UBND | TP. Hồ Chí Minh, ngày 09 tháng 11 năm 2007 |
QUYẾT ĐỊNH
VỀ VIỆC ĐIỀU CHỈNH QUYẾT ĐỊNH GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI SỐ 6178/QĐ-UB NGÀY 26 THÁNG 9 NĂM 2001 CỦA ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ.
CHỦ TỊCH ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Căn cứ Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ngày 26 tháng 11 năm 2003;
Căn cứ Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 02 tháng 12 năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 15 tháng 0 năm 2004 và điều 3 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Khiếu nại, tố cáo năm 2005 có hiệu lực từ ngày 01 tháng 06 năm 2006;
Căn cứ Luật Đất đai năm 2003;
Xét phần đất đang có tranh chấp, khiếu nại có diện tích 320m2 (8m x 40m) thuộc một phần thửa 293, tờ 1, ấp 2, xã Tân Quy Đông, huyện Nhà Bè (tài liệu đăng ký 299/TTg). Thửa 293 có diện tích chung là 7.745m2, loại thổ tập trung, có nhiều cá nhân đăng ký, trong đó có ông Nguyễn Thanh Vân đăng ký sử dụng 160m2.
Ngày 10 tháng 12 năm 1991, vợ chồng ông Nguyễn Thanh Vân và bà Nguyễn Thị Tốt lập giấy sang nhượng 119m2 (7m x 17m) nằm trong diện tích đăng ký cho vợ chồng ông Nguyễn Minh Hùng và bà Tạ Thị Kim Lan (thường trú tại số 88/11/2/4 Nguyễn Khoái, phường 2, quận 4), có xác nhận việc chuyển nhượng của Ủy ban nhân dân xã Tân Quy Đông. Sau đó, bà Lan lập thủ tục xin sử dụng đất để xây dựng nhà ở và được Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè cấp Quyết định giao đất số 86/QĐGĐ ngày 12 tháng 5 năm 1993 với diện tích 119m2. Bà Lan đã thực hiện nghĩa vụ tài chính vào năm 1994. Ngoài ra, vợ chồng bà Tốt còn làm giấy tay ngày 18 tháng 11 năm 1991 sang nhượng một phần đất khác diện tích 160m2 (8m x 20m) (phía sau lô đất 119m2) cho bà Trần Muối (ngụ tại 109/34B/11 Bến Vân Đồn, phường 9, quận 4); đến ngày 25 tháng 11 năm 1991, bà Trần Muối làm giấy tay bán lại cho bà Lan. Bà Lan đứng tên đăng ký Chỉ thị 02/CT với tổng diện tích 349m2 (189m2 + 160m2).
Năm 1993, vợ chồng bà Lan làm giấy tay bán toàn bộ đất có diện tích 320m2 cho ông Nguyễn Văn Bảnh (thường trú tại số 60/3 Trần Xuân Soạn, huyện Nhà Bè) với giá 30 lượng vàng. Việc mua bán có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã vào ngày 10 tháng 6 năm 1993 về nguồn gốc đất là của bà Lan, có nhượng lại cho ông Bảnh và hồ sơ đang chờ huyện có Quyết định sử dụng chính thức. Trên thực tế, việc mua bán đã hoàn thành, ông Bảnh đã giao đủ 30 lượng vàng cho bà Lan.
Như vậy, bà Tạ Thị Kim Lan đứng tên đăng ký Chỉ thị 02/CT (349m2), trong đó có 119m2/349m2 có Quyết định giao đất của Ủy ban nhân dân huyện Nhà Bè. Căn cứ Điều 4 Nghị định số 03/HĐBT ngày 23 tháng 3 năm 1989 của Hội đồng Bộ trưởng quy định: “Người đang sử dụng đất hợp pháp là người được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người có tên trong sổ địa chính”. Do đó, bà Lan là người sử dụng đất hợp pháp. Bà Lan chuyển nhượng đất cho ông Bảnh có thông qua Ủy ban nhân dân xã, việc chuyển nhượng đã hoàn thành, không có tranh chấp nên được xem là hợp lệ.
- Do ông Nguyễn Văn Bảnh có nợ của ông Phạm Văn Sinh (ngụ tại số 650B lô V, Đoàn Văn Bơ, phường 10, quận 4) và bà Trương Thị Hiền (ngụ tại số 226/7 ấp 4, xã Tân Quy Tây, huyện Nhà Bè) một số vàng là 14 lượng, không có khả năng chi trả, nên ngày 06 tháng 3 năm 1994 ông Nguyễn Văn Bảnh làm “Giấy thế chấp đất” để thế chấp phần đất 320m2 cho ông Sinh với thời hạn 5 tháng kể từ tháng 3 năm 1994; trong thời hạn này ông Bảnh được quyền bán đất để trả nợ cho ông Sinh và bà Hiền, nếu quá thời hạn trên mà không bán được đất để trả nợ thì phần đất 320m2 thuộc quyền sử dụng của ông Sinh, bà Hiền. Giấy thế chấp có xác nhận ngày 03 tháng 8 năm 1994 của Ủy ban nhân dân xã Tân Qui Đông về vị trí đất có tọa lạc tại xã.
Ngoài việc nợ ông Sinh, ông Bảnh còn nợ tiền của ông Đỗ Minh Hải (ngụ tại 60D cư xá Cửu Long, phường 22, quận Bình Thạnh) và ông Lê Phi Long (ngụ tại 117/4 ấp 4, xã Tân Quy Tây, huyện Nhà Bè); 2 khoản nợ này ông Bảnh cũng không có khả năng thanh toán. Do đó, ngày 09 tháng 4 năm 1994, ông Bảnh làm “Giấy cam kết sang nhượng” chuyển nhượng và phân chia phần đất 320m2 cho ba người để trừ nợ, gồm :
+ Ông Đỗ Minh Hải: 80m2/320m2 (4m x 20m), mặt tiền đường 79.
+ Ông Phạm Văn Sinh: 80m2/320m2 (4m x 20m), mặt tiền đường 79.
+ Ông Lê Phi Long: 160m2/320m2 (8m x 20m), nằm phía sau hai lô đất của ông Hải và ông Sinh, mặt tiền đường 77.
Ông Đỗ Minh Hải và ông Lê Phi Long có kiện ông Bảnh ra Tòa án nhân dân quận 7. Tòa án nhân dân quận 7 có Quyết định công nhận sự thỏa thuận số 54 ngày 05 tháng 8 năm 2000 và số 53 ngày 09 tháng 8 năm 2000. Theo đó, ông Bảnh đồng ý trả số nợ 10 lượng vàng 24K cho ông Hải và trả số nợ 29 lượng vàng 24K cho ông Long. Tuy nhiên, cho đến nay ông Bảnh chưa trả được. Sau đó, ngày 22 tháng 12 năm 2003, ông Bảnh lập hợp đồng hứa chuyển nhượng đất (160m2) cho ông Long để cấn trừ nợ. Ông Long lập thủ tục xin sử dụng đất, Ủy ban nhân dân quận 7 đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và sau đó ra Quyết định số 351/QĐ-UBND ngày 16 tháng 11 năm 2006 thu hồi hủy bỏ giấy chủ quyền với lý do: Kê khai việc mua đất không đúng đối tượng.
Ngoài việc thế chấp, chuyển nhượng đất cho 03 người nêu trên, ông Bảnh còn lập hợp đồng chuyển nhượng phần đất này (ngày 23 tháng 6 năm 2004) cho ông Hồ Văn Kiên (sau khi Ủy ban nhân dân thành phố có Quyết định giải quyết khiếu nại công nhận 320m2 đất cho ông Bảnh). Do phần đất này còn đang tranh chấp, chưa xử lý dứt điểm nên ông Kiên đã kiện ông Bảnh ra Tòa án nhân dân quận 7. Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận (số 03/2006/QĐ-CNTT ngày 23 tháng 02 năm 2006), ông Bảnh đồng ý trả lại tiền đặt cọc 200.000.000 đồng và bồi thường tiền cọc 325.000.000 đồng cho ông Kiên. Đến nay, ông Bảnh chưa trả được.
Như vậy, việc thế chấp đất có qua Ủy ban nhân dân xã, nhưng Ủy ban nhân dân xã không xác nhận nội dung thế chấp. Ông Bảnh chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên việc thế chấp đất không đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai ngày 14 tháng 07 năm 1993: “Không được chuyển quyền sử dụng đất: - Đất sử dụng không có giấy tờ hợp pháp”.
Việc ông Bảnh làm “cam kết sang nhượng” cho 03 Ông nêu trên có thông qua Ủy ban nhân dân xã, nhưng Ủy ban nhân dân xã chỉ xác nhận chữ ký của ông Bảnh, không xác nhận việc khác. Trường hợp này cũng không đúng quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai năm 1993 đã nêu ở trên.
- Ngày 24 tháng 9 năm 1994, ông Phạm Văn Sinh căn cứ vào “Giấy thế chấp đất” để lập “Giấy thỏa thuận chuyển quyền sử dụng đất” bán phần đất diện tích 320m2 cho bà Huỳnh Thị Trí Nghĩa (ngụ tại H24 cư xá Vĩnh Hội, phường 6, quận 4) và bà Hà Thị Mai Trâm (ngụ tại 272 Bà Hạt, phường 9, quận 10) với giá 22 lượng vàng, có xác nhận chữ ký của Ủy ban nhân dân xã Tân Qui Đông ngày 08 tháng 11 năm 1994. Qua làm việc với ông Trần Quốc Phương (ngụ tại 36 Đồng Khởi, phường Bến Nghé, quận 1) và tường trình của ông Huỳnh Hữu Tâm, được biết: Trên thực tế phần đất diện tích 320m2 là do ông Trần Quốc Phương và ông Huỳnh Hữu Tâm mua của ông Sinh với giá 22 lượng vàng, nhưng nhờ bà Nghĩa và bà Trâm đứng tên giùm (quan hệ bà con). Đến năm 1998, thì ông Tâm bán lại phần đất 160m2/320m2 cho ông Phương (giấy tay bị thất lạc).
Như vậy, việc chuyển nhượng có thông qua Ủy ban nhân dân xã xác nhận chữ ký, nhưng việc chuyển nhượng này là bất hợp pháp thể hiện ở chỗ:Thực chất ông Sinh chuyển nhượng đất cho ông Trần Quốc Phương và ông Huỳnh Hữu Tâm, nhưng để bà Nghĩa, bà Trâm đứng tên trên giấy tờ mua bán. Sau đó, ông Phương mua lại ½ diện tích 320m2 của ông Tâm. Mặt khác ông Sinh căn cứ vào giấy thế chấp đất của ông Bảnh để chuyển nhượng là không đủ yếu tố pháp lý và việc chuyển nhượng này đã phát sinh tranh chấp từ phiá ông Bảnh và ông Long, ông Hải.
Hành vi chuyển nhượng đất của ông Sinh, ông Phương và các cá nhân nêu trên là vi phạm khoản 1 Điều 30 Luật Đất đai ngày 14 tháng 7 năm 1993 đã nêu ở trên.
- Đầu năm 1999, ông Trần Quốc Phương (cán bộ Phòng Quản lý đô thị quận 7) lập hồ sơ hợp thức hóa căn nhà không số (vách cót tre, mái lá), diện tích 24m2 do ông Phương xây dựng trên phần đất diện tích 187m2/320m2 (ông Sinh có làm giấy tái xác nhận chỉ mua bán diện tích 160m2/320m2). Theo ông Phương trình bày, ông không xin hợp thức hóa toàn bộ diện tích 320m2 là vì không đủ tiền để đóng tiền sử dụng đất. Hồ sơ xin hợp thức hóa của ông Phương đã được Ủy ban nhân dân phường Tân Quy, Phòng Quản lý đô thị quận 7, Ủy ban nhân dân quận 7 xác nhận không có tranh chấp, khiếu nại; Kiến trúc sư trưởng thành phố xác nhận nhà ở phù hợp quy hoạch; Sở Địa chính-Nhà đất thành phố xác nhận nhà ở, đất ở đủ điều kiện để hợp thức hóa. Trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân thành phố đã cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 11844/99 ngày 11 thámg 10 năm 1999 công nhận chủ quyền căn nhà mang số 347A/8 khu phố 1, đường 79, phường Tân Qui, quận 7 cho ông Phương với diện tích 24m2, diện tích đất 166m2, ông Phương đã nộp tiền sử dụng đất là 33.200.000 đồng.
Như vậy, việc ông Phương lập thủ tục hợp thức hóa và được Ủy ban nhân dân thành phố cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (số 11844 ngày 11 tháng 10 năm 1999) là không đúng Quyết định số 6280/QĐ-UB-QLĐT ngày 26 tháng 8 năm 1995 của Ủy ban nhân dân thành phố quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở vì đất đang có tranh chấp, khiếu nại và đang được Ủy ban nhân dân quận 7 xem xét giải quyết, chưa dứt điểm. Thể hiện qua các tài liệu sau:
+ Ngày 18 tháng 5 năm 1995, ông Lê Phi Long và ông Đỗ Minh Hải cùng đứng đơn khiếu nại ông Phạm Văn Sinh tự ý bán phần đất 320m2 mà không thông qua hai ông. Sự việc đã được Ủy ban nhân dân xã tiếp nhận, lập biên bản tiếp xúc các bên ngày 06 tháng 12 năm 1996 và chuyển hồ sơ lên cấp trên giải quyết.
+ Ngày 20 tháng 07 năm 1998, ông Nguyễn Văn Bảnh làm đơn khiếu nại việc ông Sinh tự ý bán đất và yêu cầu Ủy ban nhân dân quận 7 buộc ông Sinh trả lại đất cho Ông. Đến ngày 26 tháng 10 năm 1999, Ủy ban nhân dân quận 7 ban hành Quyết định giải quyết tranh chấp đất số 126/QĐ-UB không công nhận việc thế chấp đất, mua bán đất giữa các cá nhân có liên quan.
Trách nhiệm chính trong việc xác nhận sai hồ sơ không có tranh chấp thuộc Ủy ban nhân dân phường Tân Quy, Phòng Quản lý đô thị quận 7 và Ủy ban nhân dân quận 7. Qua phát hiện nêu trên, Ủy ban nhân dân thành phố đã có Quyết định số 78/QĐ-UB ngày 08 tháng 01 năm 2004 thu hồi và hủy bỏ giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã cấp cho ông Trần Quốc Phương là đúng pháp luật.
- Căn cứ vào giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở (diện tích 166m2/320m2), ông Trần Quốc Phương đã bán cho 02 người. Cụ thể như sau:
+ Ngày 07 tháng 6 năm 2000, ông Phương lập hợp đồng bán một phần căn nhà 347A/8 khu phố 1, đường 79, phường Tân Quy có diện tích nhà 12m2/24m2, diện tích đất 79m2/166m2, cho bà Nguyễn Thị Hoa Sen với giá 120.000.000đ, hợp đồng có chứng nhận của Phòng Công chứng Nhà nước số 1. Sau đó, bà Sen lập thủ tục xin cấp, đổi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở và được Ủy ban nhân dân thành phố cấp Giấy chủ quyền số 1438/2001 ngày 05 tháng 02 năm 2001 mang số nhà mới là 138A khu phố 1, đường số 79, phường Tân Quy, quận 7.
+ Ngày 20 tháng 6 năm 2001, ông Phương lập hợp đồng bán tiếp phần căn nhà còn lại có diện tích nhà 12m2/24m2, diện tích đất 87m2/166m2, cho bà Phạm Thị Bình với giá 120.000.000 đồng, hợp đồng có chứng nhận của Phòng Công chứng Nhà nước số 1. Ngày 09 tháng 7 năm 2001, bà Bình đã hoàn tất thủ tục đăng bộ tại Sở Địa chính-Nhà đất. Ngày 08 tháng 8 năm 2001, Ủy ban nhân dân quận 7 cấp giấy phép xây dựng số 208/GPXD cho bà Bình được xây dựng căn nhà 4 tầng, nhưng thực tế đến nay bà chưa xây dựng (giấy phép xây dựng có hiệu lực 01 năm). Hiện trạng là đất trống, cỏ dại, người mua chưa xây dựng nhà ở.
Như vậy, việc ông Phương lập hợp đồng bán một phần căn nhà 347A/8 cho bà Nguyễn Thị Hoa Sen (sau đó được Ủy ban nhân dân thành phố cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 1438/2001 ngày 05 tháng 02 năm 2001) và lập hợp đồng bán tiếp phần còn lại của căn nhà cho bà Phạm Thị Bình (đã đăng bộ tại Sở Địa chính và Nhà đất ngày 09 tháng 7 năm 2001) là sai, vì đất đang tranh chấp, khiếu nại và việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại đang được các cơ quan Nhà nước tiến hành, chưa có kết quả cuối cùng (Quyết định giải quyết tranh chấp số 126/QĐ-UB ngày 26 tháng 10 năm 1999 và Quyết định giải quyết khiếu nại số 54/QĐ-UB ngày 04 tháng 7 năm 2000 của Ủy ban nhân dân quận 7; Tờ trình số 3300/TT-ĐCNĐ-TT ngày 06 tháng 4 năm 2001 của Sở Địa chính-Nhà đất về việc giải quyết khiếu nại). Việc mua bán này đã gây thiệt hại cho bà Sen, bà Bình là người mua hợp pháp, ngay tình.
Về trường hợp sai sót trên, Ủy ban nhân dân thành phố đã có Văn bản số 5474/UB-PC ngày 03 tháng 11 năm 2003 chỉ đạo xử lý cụ thể. Phòng Công chứng Nhà nước số 1 đã có Văn bản (số 258/CV-CC ngày 24 tháng 12 năm 2003) thông báo cho các bên về việc rút lại phần lời chứng của Công chứng viên trong 02 hợp đồng mua bán. Đến nay, còn thiếu thủ tục hủy bỏ việc đăng bộ tại Sở Địa chính- Nhà đất cũ đối với bà Bình và thủ tục ra Quyết định thu hồi giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của Ủy ban nhân dân thành phố cấp cho bà Sen (bà Sen cho biết Ủy ban nhân dân quận 7 đang tạm giữ giấy chủ quyền).
Đối với Giấy phép xây dựng số 208/GPXD ngày 08 tháng 8 năm 2001 của Ủy ban nhân dân quận 7 cấp cho bà Bình, đến nay cũng đã hết hiệu lực, do đó Ủy ban nhân dân quận 7 cần ra Quyết định thu hồi, hủy bỏ giấy phép này.
- Theo ông Trần Quốc Phương trình bày, ngoài phần nhà đất tại địa chỉ 347A/8 có diện tích 166m2/320m2 mà Ông đã bán cho bà Bình, bà Sen, thì phần diện tích còn lại khoảng 160m2 (phía sau căn nhà 347A/8) ông Phương xây dựng 01 căn nhà cấp 4 diện tích khoảng 21m2 và có bán cho ông Trần Ngọc Khanh. Đến năm 2001, do đất đang có tranh chấp kéo dài, nên ông Phương lấy lại nhà đất và trả lại tiền cho ông Khanh. Tuy nhiên, khi làm việc với ông Khanh, ông Khanh khẳng định Ông không có mua đất của ông Phương, mà chỉ đứng tên giùm cho ông Phương và cũng không biết vị trí lô đất ở đâu, ông Khanh xác định Ông không có liên quan gì đối với phần đất đang tranh chấp ở phường Tân Quy, quận 7.
Như vậy, chưa có cơ sở kết luận ông Phương có chuyển nhượng đất cho ông Trần Ngọc Khanh, nhưng có cơ sở kết luận ông Phương là người có hành vi xây dựng không phép căn nhà cấp 4 trên phần đất diện tích 160m2. Việc vi phạm xây dựng của ông Phương cần phải được xử lý theo đúng pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
- Tóm lại: Cùng 01 lô đất diện tích 320m2 toạ lạc tại phường Tân Quy, quận 7 đã xuất hiện 03 mối quan hệ mua bán phức tạp. Mối quan hệ mua bán; thế chấp để cấn trừ nợ thứ 1: Giữa ông Lê Văn Bảnh với 04 ông Lê Phi Long, Đỗ Minh Hải, Phạm Văn Sinh, Hồ Văn Kiên; mối quan hệ mua bán thứ 2: Giữa ông Phạm Văn Sinh với ông Trần Quốc Phương và mối quan hệ mua bán thứ 3: Giữa ông Trần Quốc Phương với 02 bà Nguyễn Thị Hoa Sen, Phạm Thị Bình. Các mối quan hệ này đều mua bán bất hợp pháp (hai mối quan hệ mua bán đầu tiên) hoặc có thông qua cơ quan có thẩm quyền nhưng sai về thủ tục (mối quan hệ mua bán thứ 3), gây hậu quả phức tạp khi xử lý. Do đó, cơ quan Nhà nước không công nhận các quan hệ mua bán, thế chấp nêu trên và nhất thiết phải hủy bỏ các giấy tờ liên quan đến việc này, kể cả giấy tờ hợp pháp, để chuyển vụ việc sang Tòa án giải quyết. Cơ quan Nhà nước cũng không thể thu hồi lại đất để điều phối cho các cá nhân có nhu cầu sử dụng đất, vì sẽ phát sinh các khiếu nại, so bì đối với các cá nhân khác, mà trước mắt tạm thời quản lý đất để chờ phán quyết của Tòa án. Do đó, cần phải điều chỉnh lại Quyết định giải quyết khiếu nại của Ủy ban nhân dân theo hướng trên.
- Trách nhiệm chính làm phát sinh tình hình phức tạp trên thuộc về ông Nguyễn Văn Bảnh, ông Phạm Văn Sinh, ông Trần Quốc Phương và các cán bộ thuộc Ủy ban nhân dân phường Tân Quy quận 7, Phòng Quản lý đô thị quận 7, Ủy ban nhân dân quận 7. Trong đó, ông Trần Quốc Phương - cán bộ Phòng Quản lý đô thị quận 7, đã vi phạm quy định của Luật Đất đai và lợi dụng chức năng của mình để hợp thức hóa nhà, đất, làm cho tình hình vụ việc thêm phức tạp cần phải kiểm điểm nghiêm túc.
Xét Quyết định giải quyết khiếu nại số 6178/QĐ-UB ngày 26 tháng 9 năm 2001 của Ủy ban nhân dân thành phố và Báo cáo số 216/BC-TTTP-XKT ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Thanh tra thành phố,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Điều chỉnh Quyết định giải quyết khiếu nại số 6178/QĐ-UB ngày 26 tháng 9 năm 2001 của Ủy ban nhân dân thành phố như sau:
1.1- Không công nhận việc thế chấp đất giữa ông Nguyễn Văn Bảnh với ông Phạm Văn Sinh; việc phân chia đất giữa ông Nguyễn Văn Bảnh với ông Phạm Văn Sinh, ông Đỗ Minh Hải, ông Lê Phi Long, cũng như việc chuyển nhượng đất với ông Hồ Văn Kiên; việc chuyển nhượng đất giữa ông Phạm Văn Sinh với bà Huỳnh Thị Trí Nghĩa, bà Hà Thị Mai Trâm, ông Trần Quốc Phương, ông Huỳnh Hữu Tâm; việc hợp thức hóa nhà đất của ông Trần Quốc Phương; việc mua bán giữa ông Phương với bà Nguyễn Thị Hoa Sen, bà Phạm Thị Bình.
1.2- Các tranh chấp về tiền, vàng phát sinh giữa các cá nhân từ các quan hệ không được công nhận nêu trên, do Tòa án nhân dân quận 7 xem xét giải quyết theo thẩm quyền.
1.3- Giữ nguyên hiện trạng phần đất tranh chấp diện tích 320m2 và tạm giao cho Ủy ban nhân dân quận 7 quản lý, chờ phán quyết của Tòa án nhân dân về việc khởi kiện của các cá nhân có liên quan đến phần đất 320m2 nêu trên.
Điều 2. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Các Văn bản trái với Quyết định này đều bị bãi bỏ.
Giao Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 7 tổ chức thực hiện Quyết định và báo cáo kết quả cho Ủy ban nhân dân thành phố.
Điều 3. Chánh Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố, Chánh Thanh tra thành phố, Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường, Giám đốc Sở Xây dựng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 7 và các ông bà Nguyễn Văn Bảnh, Phạm Văn Sinh, Lê Phi Long, Đỗ Minh Hải, Hồ Văn Kiên, Trần Quốc Phương, Nguyễn Thị Hoa Sen, Phạm Thị Bình, Huỳnh Thị Trí Nghĩa, Hà Thị Mai Trâm, Huỳnh Hữu Tâm có trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
Nơi nhận | KT. CHỦ TỊCH |
- 1Luật Khiếu nại, tố cáo sửa đổi 2005
- 2Luật Khiếu nại, tố cáo 1998
- 3Luật Đất đai 2003
- 4Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 5Luật Khiếu nại, Tố cáo sửa đổi 2004
- 6Kế hoạch 57/KH-UBND năm 2013 về giải quyết khiếu nại đã thụ lý trước 31/7/2013, thuộc thẩm quyền Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định
Quyết định 5066/QĐ-UBND năm 2007 điều chỉnh Quyết định 6178/QĐ-UB về giải quyết khiếu nại do Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh ban hành
- Số hiệu: 5066/QĐ-UBND
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 09/11/2007
- Nơi ban hành: Thành phố Hồ Chí Minh
- Người ký: Nguyễn Hữu Tín
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 09/11/2007
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực