- 1Quyết định 126/2005/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản trên biển và hải đảo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Quyết định 04/2005/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Quyết định 242/2006/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4Quyết định 224/1999/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999-2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 6Quyết định 112/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển giống thuỷ sản đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 7Quyết định 131/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 8Nghị định 56/2005/NĐ-CP về khuyến nông, khuyến ngư
- 9Nghị quyết 08/2007/NQ-HĐND thông qua Chương trình phát triển ngành Thủy sản giai đoạn 2006-2010 do tỉnh Quảng Ngãi ban hành
ỦY BAN NHÂN DÂN | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 32/2007/QĐ-UBND | Quảng Ngãi, ngày 22 tháng 10 năm 2007 |
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
Căn cứ Luật Tổ chức HĐND và UBND ngày 26/11/2003;
Căn cứ Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999-2010; Quyết định số 131/2004/QĐ-TTg ngày 16/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản đến năm 2010; Quyết định số 112/2004/QĐ-TTg ngày 23/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển giống thuỷ sản; Quyết định số 242/2006/QĐ-TTg ngày 25/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020;
Căn cứ Quyết định số 04/2005/QĐ-TTg ngày 06/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2010;
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2006 – 2010;
Căn cứ Nghị quyết số 08/2007/NQ-HĐND ngày 16/7/2007 của Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, khóa X kỳ họp thứ 12 về việc thông qua Chương trình phát triển ngành Thủy sản giai đoạn 2006-2010;
Theo đề nghị của Sở Thủy sản tại Tờ trình số 47/TTr-STS ngày 24/9/2007 của Sở Thủy sản về việc đề nghị ban hành Chương trình phát triển ngành Thủy sản giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2015 và Báo cáo thẩm định của Sở Tư pháp tại báo cáo số 136/BC-STP ngày 14/9/2007,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Chương trình phát triển toàn diện ngành Thủy sản giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2015, với những nội dung chính như sau:
1. Tên Chương trình: Chương trình phát triển ngành Thủy sản giai đoạn 2006 – 2010 (có Chương trình kèm theo).
2. Cơ quan quản lý: Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
3. Cơ quan thực hiện: Sở Thuỷ sản (hoặc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sau khi sáp nhập).
4. Phạm vi thực hiện: Trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi.
5. Định hướng, mục tiêu của Chương trình
a) Định hướng:
Xác định kinh tế thuỷ sản tỉnh nằm trong kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế biển của địa phương và khu vực, phải đáp ứng yêu cầu phát triển đồng bộ, bền vững, gắn kết giữa khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thủy sản. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng giá trị nuôi trồng và chế biến, khai thác đi đôi với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, kết hợp bảo vệ chủ quyền lãnh hải Tổ quốc. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên cơ sở quy hoạch hợp lý mặt nước, diện tích đất có khả năng nuôi trồng theo hướng công nghiệp, bền vững, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển mạnh các khu dịch vụ hậu cần nghề cá, các cơ sở chế biến thuỷ sản, tăng nhanh sản phẩm xuất khẩu. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thuỷ sản, trước hết là các công trình cảng, bến, thông luồng, vũng neo đậu tàu thuyền trú bão và các công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản.
b) Mục tiêu:
Tốc độ tăng trưởng toàn ngành bình quân hàng năm 6-7%.
Đến năm 2010 có cơ cấu sản xuất: khai thác chiếm 64,93%, nuôi trồng chiếm 35,07%.
Đến năm 2010 sản lượng thủy sản khai thác đạt 90.000 tấn; diện tích nuôi trồng thủy sản 2.040 ha, trong đó: diện tích nuôi nước lợ 1.100 ha, nước ngọt 920 ha, nước mặn 20 ha; sản lượng nuôi trồng thủy sản 7.200 tấn, trong đó: sản lượng nuôi nước lợ 5.900 tấn, nước ngọt 1.200 tấn, nước mặn 100 tấn; công suất chế biến 9.000 tấn sản phẩm/năm, giá trị thủy sản xuất khẩu 18 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 8 triệu USD.
c) Nhiệm vụ:
- Về khai thác thủy sản:
Phát triển lực lượng tàu thuyền với định hướng đầu tư đóng mới, cải hoán tàu cá để nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ, hạn chế cường độ khai thác ven bờ để bảo vệ nguồn lợi thủy sản; đẩy mạnh chuyển đổi nghề nghiệp và tăng cường sử dụng trang thiết bị, ngư cụ tiên tiến để khai thác thủy sản xa bờ đạt chất lượng sản phẩm cao, tăng hiệu quả kinh tế, góp phần cung cấp nguyên liệu cho chế biến thủy sản. Đến năm 2010 trên 30% số tàu thuyền có công suất từ 90CV trở lên, đưa công suất bình quân toàn tỉnh lên đến 70,93CV/chiếc, tổng công suất đạt 305.000CV. Nhiệm vụ cụ thể:
+ Huy động vốn đầu tư đóng mới 100 tàu có công suất trên 90 CV; cải hoán, nâng cấp 300 tàu hiện có đảm bảo điều kiện khai thác hải sản xa bờ.
+ Đầu tư nâng cấp 6 cơ sở đóng sửa tàu cá trong tỉnh.
+ Xây dựng 4 trạm đăng kiểm, bảo vệ nguồn lợi và kiểm dịch thú y thuỷ sản.
- Về nuôi trồng thủy sản:
Tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản trên các loại mặt nước lợ, ngọt, mặn; nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng thủy sản nuôi trồng.
Quan tâm đầu tư các vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung, có kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ để ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến và đảm bảo môi trường vùng nuôi. Nhiệm vụ cụ thể:
+ Các dự án nuôi tôm nước lợ:
Dự án chuyển tiếp: Đầu tư hoàn thành và đưa vào sử dụng 4 dự án nuôi tôm: Đồng Đá Bia (Bình Sơn), Gò Giữa (Đức Phổ), Đức Minh, Đức Chánh (Mộ Đức).
Dự án đầu tư mới: Triển khai đầu tư 8 dự án nuôi tôm mới với diện tích 272 ha và 7 dự án xử lý môi trường tại các vùng nuôi tôm trên đất cát ven biển.
+ Các dự án nuôi thuỷ sản nước ngọt: Triển khai đầu tư 7 dự án nuôi thuỷ sản nước ngọt với diện tích 83 ha (không tính diện tích hồ chứa Nước Trong).
+ Các dự án sản xuất giống thủy sản: Xây dựng và nâng cấp 4 trại sản xuất tôm giống; nâng cấp 1 trại sản xuất giống nước ngọt; đầu tư hạ tầng Khu sản xuất giống Đức Phong.
+ Đầu tư nâng cấp phòng thí nghiệm hiện có.
- Về chế biến và xuất khẩu thủy sản:
Tập trung đẩy mạnh lĩnh vực chế biến thủy sản xuất khẩu và phát triển làng nghề truyền thống, tạo ra bước đột phá mới nhằm tăng nhanh sản lượng và giá trị sản phẩm thủy sản xuất khẩu; đa dạng hóa sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Nhiệm vụ cụ thể:
+ Thu hút đầu tư xây dựng mới 1 nhà máy chế biến thủy sản có công suất 2.000 tấn sản phẩm/năm.
+ Nâng cấp 4 nhà máy chế biến thủy sản hiện có, nâng công suất chế biến lên 9.000 tấn sản phẩm/năm và kêu gọi đầu tư 1 siêu thị thủy sản.
- Đầu tư hạ tầng cảng, bến:
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nghề cá (cảng cá, thông luồng, vũng neo đậu tàu thuyền trú bão,...) đáp ứng yêu cầu vừa cấp thiết, vừa lâu dài để phục vụ cho các lĩnh vực sản xuất khai thác, thu mua sản phẩm thuỷ sản; đảm bảo an toàn cho người và phương tiện trong quá trình sản xuất, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra.Nhiệm vụ cụ thể:
+ Dự án chuyển tiếp: Đầu tư hoàn thành và đưa vào sử dụng 3 dự án:
Dự án Thông cửa biển và xây dựng cảng cá Sa Huỳnh.
Dự án Vũng neo đậu tàu thuyền và Khu dịch vụ hậu cần nghề cá đảo Lý Sơn.
Dự án Cảng neo trú tàu thuyền Tịnh Hòa.
+ Dự án đầu tư mới:
Bến cá và Khu dịch vụ hậu cần nghề cá tại Tư Nghĩa.
Triển khai đầu tư xây dựng các dự án hạ tầng cảng bến như cảng cá sông Trà Bồng, khu neo đậu tàu thuyền trú bão ưu tiên tại các cửa Mỹ Á, Sa Kỳ - Cổ Lũy, Sa Cần.
- Các kế hoạch, chương trình khác:
+ Kế hoạch hoạt động khuyến ngư (theo Nghị định số 56/CP).
+ Chương trình bảo vệ nguồn lợi và phát triển thủy sản (theo Chương trình 131 của Chính phủ).
+ Kế hoạch nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ thủy sản: Triển khai thực hiện 10 đề tài khoa học và công nghệ thủy sản.
+ Chương trình phát triển thuỷ sản phục vụ Khu kinh tế Dung Quất.
+ Kế hoạch nâng cao năng lực quản lý doanh nghiệp, xúc tiến đầu tư và thương mại thủy sản.
+ Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, phát triển nguồn nhân lực của ngành thuỷ sản.
(Có danh mục chi tiết các dự án, chương trình, kế hoạch phát triển thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010 kèm theo)
6. Nhu cầu vốn đầu tư
a) Tổng vốn: 686.785 triệu đồng
b) Nguồn vốn:
- Vốn ngân sách: 271.681 triệu đồng (40%)
Trong đó:
+ Vốn ngân sách tỉnh: 55.310 triệu đồng
+ Vốn ngân sách trung ương: 216.371 triệu đồng (trong đó vốn ODA: 59.260 triệu đồng).
- Vốn tín dụng: 246.450 triệu đồng (36%)
- Vốn khác: 168.654 triệu đồng (24%)
7. Giải pháp
a) Công tác tuyên truyền: Tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật về thuỷ sản, vai trò và nhiệm vụ phát triển kinh tế thuỷ sản trong sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội chung của tỉnh đối với cán bộ và nhân dân trong tỉnh, cần ngăn chặn và đi đến chấm dứt tình trạng dùng thuốc nổ đánh bắt thuỷ sản.
b) Về quy hoạch: Tiến hành điều tra khảo sát, đánh giá toàn diện các lĩnh vực hoạt động thủy sản, xây dựng và trình duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản giai đoạn 2006-2010, hướng đến năm 2015.
c) Về cơ chế chính sách: Xây dựng cụ thể hoá các chủ trương, chính sách lớn của Chính phủ nhằm khuyến khích phát triển toàn diện các lĩnh vực sản xuất kinh doanh thuỷ sản, đặc biệt là phát triển công nghiệp chế biến và vùng nguyên liệu thuỷ sản phục vụ chế biến, xuất khẩu.
d) Về công tác tổ chức cán bộ và phát triển nguồn nhân lực: Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy ngành thuỷ sản từ tỉnh đến cấp huyện, xã trên cơ sở định biên được giao để vừa đáp ứng được yêu cầu tham mưu tổng hợp, vừa đáp ứng được yêu cầu tổ chức triển khai thực hiện tốt chức năng chuyên sâu trong lĩnh vực thuỷ sản. Phối hợp với các Trường, Viện trong và ngoài tỉnh đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thuyền trưởng, máy trưởng, công nhân kỹ thuật chuyên ngành thuỷ sản đáp ứng yêu cầu phát triển nhân lực cho ngành thuỷ sản trong tương lai.
e) Về công tác quản lý Nhà nước ngành thuỷ sản: Tăng cường sự chỉ đạo điều hành của UBND tỉnh tạo ra sự phối kết hợp đồng bộ cũng như đề cao trách nhiệm của các ngành và địa phương trong quá trình thực hiện Chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản.
f) Về vốn đầu tư: Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của ngành, lập các dự án tiền khả thi để giới thiệu tiềm năng, nhu cầu, đồng thời xây dựng các cơ chế xúc tiến đầu tư, thương mại nhằm kêu gọi các nhà doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước bỏ vốn đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế thuỷ sản của tỉnh. Vốn ngân sách Nhà nước chủ yếu hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng trên cơ sở các dự án được HĐND tỉnh thông qua trong kế hoạch đầu tư hàng năm; lựa chọn có trọng tâm, trọng lực (vốn và cơ chế quản lý tài chính) của tỉnh, đảm bảo tiến độ thực hiện của Chương trình. Tăng cường công tác quản lý tài chính và tiến độ khi dự án được phép thực hiện nhằm đảm bảo hiệu quả các nguồn vốn đầu tư.
g) Về công tác khoa học - công nghệ và môi trường: Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học, các tiến bộ kỹ thuật trong khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí tàu thuyền nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường và nguồn lợi thủy sản.
h) Công tác xúc tiến thị trường và hợp tác quốc tế: Tăng cường công tác kiểm soát và nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản, tiến hành quảng bá giới thiệu sản phẩm, tìm kiếm thị trường, hợp tác quốc tế, kêu gọi đầu tư, hỗ trợ tập huấn đào tạo trong nước và nước ngoài, nhằm phát huy mọi tiềm lực để phát triển toàn diện ngành thuỷ sản.
UBND tỉnh giao nhiệm vụ cho Giám đốc các Sở, ngành, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố như sau:
- Sở Thuỷ sản chủ trì tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện Chương trình; hướng dẫn UBND các địa phương thực hiện Chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản trên địa bàn; theo dõi, tổng hợp phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện; báo cáo UBND tỉnh trình HĐND tỉnh xem xét điều chỉnh bổ sung cho phù hợp.
- Sở Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư và các Sở, ngành liên quan tham mưu cho HĐND, UBND tỉnh bố trí kế hoạch vốn từ các nguồn: Vay tín dụng ưu đãi của Nhà nước, vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh, vay vốn nhàn rỗi của Kho bạc Nhà nước và các nguồn vốn khác để hoàn thành mục tiêu của Chương trình.
- Các Sở, ngành cấp tỉnh, Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất, Khu Công nghiệp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với Sở Thuỷ sản tham mưu, đề xuất và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến Chương trình này.
- UBND các huyện, thành phố có trách nhiệm xây dựng, cụ thể hoá Chương trình phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương để tổ chức thực hiện trên địa bàn quản lý.
- Các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh có trách nhiệm tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi Chương trình này để các tổ chức kinh tế, các đối tượng nhân dân liên quan biết, tham gia thực hiện.
- Đề nghị các tổ chức Mặt trận, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp tích cực phối hợp với các cấp uỷ, chính quyền cùng tham gia tuyên truyền, động viên các tầng lớp nhân dân lao động, nhất là ở những địa phương trọng điểm nghề cá tích cực tham gia đầu tư phát triển kinh tế thuỷ sản, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho một bộ phận nhân dân trong tỉnh.
Điều 3. Chánh Văn phòng UBND tỉnh, Giám đốc các Sở: Thủy sản, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư, Tài nguyên và Môi trường, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thủ trưởng các Sở, Ban ngành, Chủ tịch UBND các huyện, thành phố và các đơn vị liên quan chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này.
Quyết định này có hiệu lực thi hành sau 10 ngày kể từ ngày ký ./.
| TM ỦY BAN NHÂN DÂN |
PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN NGÀNH THỦY SẢN GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2015
(Kèm theo Quyết định số 32/2007/QĐ-UBND ngày 22/10/2007 của UBND tỉnh Quảng Ngãi)
Những căn cứ pháp lý để xây dựng Chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010:
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2006 – 2010, trong đó xác định nhiệm vụ phát triển toàn diện ngành thuỷ sản là 01 trong 08 chương trình trọng điểm của tỉnh giai đoạn 2006 - 2010;
Nghị quyết của HĐND tỉnh về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2006 – 2010;
Nghị quyết số 04 - NQ/TU ngày 14/01/2002 của Tỉnh uỷ Quảng Ngãi về phát triển kinh tế thuỷ sản giai đoạn 2001 – 2005;
Quyết định số 04/2005/QĐ-TTg ngày 06/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2010;
Quyết định số 3479/QĐ-UB ngày 11/12/2002 của Chủ tịch UBND tỉnh về việc phê duyệt dự án Quy hoạch tổng thể nuôi trồng thuỷ sản tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2010;
Quyết định số 224/1999/QĐ-TTg ngày 08/12/1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển nuôi trồng thủy sản thời kỳ 1999-2010;
Quyết định số 131/2004/QĐ-TTg ngày 16/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản đến năm 2010;
Nghị định số 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2004 của Chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư;
Quyết định số 112/2004/QĐ-TTg ngày 23/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển giống thuỷ sản;
Quyết định số 126/2005/QĐ-TTg ngày 01/6/2005 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên biển và hải đảo;
Quyết định số 242/2006/QĐ-TTg ngày 25/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương trình phát triển xuất khẩu thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020,
I. Khái quát tình hình phát triển kinh tế thuỷ sản giai đoạn 2001 –2005
1. Về khai thác thuỷ sản
Trong 5 năm qua, ngư dân trong tỉnh đã đầu tư đóng mới, cải hoán, nâng cấp tàu thuyền, do đó lực lượng tàu thuyền tăng lên rất nhanh, công suất tàu thuyền bình quân/chiếc năm 2001 là 39,3 CV/chiếc, đến năm 2005 là 60,3CV/chiếc. Tàu thuyền đánh bắt xa bờ có công suất trên 90 CV cũng tăng lên đáng kể, năm 2000 chỉ có 65 chiếc, đến nay đã có trên 530 chiếc, hầu hết được trang bị các phương tiện thông tin liên lạc, máy định vị, máy dò cá. Số tàu đánh bắt bằng những nghề có hiệu quả kinh tế cao như câu mực khơi, câu cá ngừ đại dương ngày càng được tăng lên. Nhờ đó sản lượng thủy sản khai thác không ngừng tăng lên, tốc độ tăng trung bình hàng năm là 5,7% (năm 2001 đạt 69.045 tấn, năm 2005 là 87.000 tấn); công tác quản lý tàu thuyền và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đã có nhiều tiến bộ, hạn chế thấp nhất tình trạng dùng thuốc nổ đánh cá ven bờ. Nhìn chung lực lượng tàu thuyền và sản lượng khai thác hải sản tăng nhanh đã tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa cho xã hội, nâng cao đời sống ngư dân và góp phần bảo vệ chủ quyền lãnh hải của quốc gia.
Đầu tư kết cấu hạ tầng cảng bến:
Công tác đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cảng, bến, vũng neo đậu tàu thuyền đang được triển khai thực hiện. Hiện có 03 dự án đang triển khai thi công: Dự án Thông luồng và xây dựng cảng cá Sa Huỳnh, dự án Vũng neo đậu tàu thuyền và khu dịch vụ hậu cần nghề cá Lý Sơn, dự án Cảng neo đậu tàu thuyền Tịnh Hòa, dự kiến cơ bản hoàn thành và đưa vào sử dụng vào cuối năm 2006, đầu năm 2007.
2. Về nuôi trồng thủy sản
a . Về nuôi tôm nước lợ:
Nuôi tôm nước lợ trong 5 năm qua, nhất là trong những năm 2002 -2003 gặp rất nhiều khó khăn do dịch bệnh và biến động bất lợi của thị trường. Từ cuối năm 2003, sau khi mô hình nuôi tôm trên cát thành công, diện tích và sản lượng nuôi tôm trên vùng đất cát ven biển tăng lên rõ rệt, chủ yếu tập trung ở 2 huyện Mộ Đức và Đức Phổ. Từ năm 2004 nhờ áp dụng nhiều biện pháp tích cực, tình hình dịch bệnh đã giảm đáng kể, đến nay nuôi tôm nước lợ bước đầu có sự phục hồi; năng suất nuôi tôm sú tăng từ 1 tấn/ha (2001) lên 1,5 tấn/ha/vụ, năng suất nuôi tôm chân trắng bình quân 8 - 10 tấn/ha/vụ. Do đó năm 2005 sản lượng tôm nuôi đạt trên 3.000 tấn (năm 2001 là 902 tấn), tốc độ tăng sản lượng bình quân năm là 36%/năm, góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 5.000 lao động trực tiếp. Đặc biệt nuôi tôm trên đất cát bằng vật liệu chống thấm đã mở ra tiềm năng lớn khai thác vùng đất cát bãi ngang ven biển, tạo nhiều công ăn việc làm, không chỉ góp phần xoá đói giảm nghèo mà còn làm giàu cho nhiều hộ, mặt khác góp phần đáng kể chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở một số huyện, xã ven biển.
b. Về nuôi thuỷ sản nước ngọt:
Nuôi trồng thủy sản nước ngọt tiếp tục được duy trì và phát triển với nhiều hình thức nuôi đa dạng trên các loại hình mặt nước: ao hồ nhỏ, nuôi lồng trên hồ chứa, nuôi đăng quầng trên mặt nước lớn,.... địa bàn mở rộng từ đồng bằng đến trung du, miền núi. Đến nay diện tích nuôi cá nước ngọt có khoảng 670 ha, tăng 34% so với đầu kỳ, đạt 100% KH năm 2005. Trong những năm qua ngành Thủy sản đã phối hợp với các ngành, địa phương xây dựng và nhân rộng nhiều mô hình nuôi thuỷ sản nước ngọt với nhiều hình thức và đối tượng nuôi như: nuôi cá trong ruộng lúa, nuôi tôm xen với cá rô phi, nuôi cá rô phi trong lồng, nuôi cá lóc trong ao hồ nhỏ, nuôi cá chình, nuôi ếch,.... năng suất bình quân đạt trên 1 tấn/ha. Kết quả bước đầu tuy còn khiêm tốn, chưa đạt được khối lượng sản phẩm lớn nhưng cũng đã mở ra hướng phát triển tích cực cho nhiều hộ nông dân, nhất là vùng trung du, miền núi. Đến nay, ngành thuỷ sản đã sản xuất tại chỗ được nhiều loại giống thuỷ sản nước ngọt, bước đầu đáp ứng nhu cầu nuôi thuỷ sản nước ngọt ở địa phương.
c. Đầu tư hạ tầng nuôi trồng thuỷ sản:
- Trong giai đoạn 2001 - 2005, UBND tỉnh đã cho chủ trương và thực hiện nhiều dự án đầu tư thuộc lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản. Kết quả thực hiện như sau:
+ Hoàn thành 02 Chương trình mục tiêu phát triển NTTS và Chương trình Giống thuỷ sản gồm 11 dự án nhỏ (3 mô hình ao nuôi tôm trên cát, 8 trại sản xuất giống) đã hoàn thành, bàn giao đưa vào sử dụng.
+ Đã thực hiện đầu tư xong giai đoạn 1 Dự án nâng cấp trại thực nghiệm cá giống Phổ Hoà - Đức Phổ, hiện đang tiếp tục lập dự án đầu tư giai đoạn II.
- Đối với các dự án nuôi tôm:
+ Hoàn thành 02 dự án nuôi tôm trên đất cát: Dự án nuôi tôm trên cát Đức Phong - huyện Mộ Đức, đã đưa vào nuôi 25 ha, mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân; Dự án nuôi tôm của Công ty TNHH Thiên Tân tại xã Đức Minh- huyện Mộ Đức (quy mô mặt nước 16 ha), đã đưa vào sản xuất trong năm 2003.
+ Đang triển khai thi công 04 dự án: Nuôi tôm đồng Đá Bia - Bình Chánh, huyện Bình Sơn; Nuôi tôm Gò Giữa - Phổ Minh, huyện Đức Phổ; Nuôi tôm công nghiệp trên cát Đức Minh của Công ty Sản xuất, Thương mại và Dịch vụ Quảng Ngãi; Dự án nuôi tôm công nghiệp trên cát xã Đức Chánh - huyện Mộ Đức của Công ty Thái Phát Hưng. Các dự án này nhìn chung triển khai chậm, dự kiến đầu 2006 mới đưa vào sử dụng.
3. Về chế biến thủy sản
Đến nay, toàn tỉnh có 9 doanh nghiệp tham gia sản xuất, kinh doanh chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Trong đó có 7 doanh nghiệp có mặt bằng nhà xưởng với tổng công suất chế biến khoảng 6.000 tấn SP/năm, trong đó có 5 doanh nghiệp chế biến nằm trong Khu Công nghiệp Quảng Phú. Trong những năm qua hầu hết các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đều trong tình trạng khó khăn chung về vốn và thị trường, các doanh nghiệp nhà nước đã phải chuyển đổi hình thức sở hữu bằng hình thức bán cho tư nhân hoặc phải tiến hành thủ tục phá sản.
Tuy nhiên từ cuối năm 2004 đến nay, hoạt động của các doanh nghiệp tư nhân có bước phát triển hơn những năm trước, đã ký được một số hợp đồng xuất khẩu trực tiếp khá ổn định. Đến cuối năm 2005 giá trị thuỷ sản xuất khẩu đạt 5,8 triệu USD (đạt 101,8%KH năm), trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 2,9 triệu USD (đạt 131,8% KH năm).
II. Đánh giá kết quả thực hiện
1. Những thành tích đạt được
Bước vào thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Nghị quyết 04 của Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế thuỷ sản giai đoạn 2001 – 2005, cùng với các cơ chế chính sách của Trung ương, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, đề án, giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế thuỷ sản một cách toàn diện, đã bước đầu thu hút sự quan tâm đầu tư của các thành phần kinh tế. Nhờ đó kinh tế thuỷ sản có tốc độ phát triển khá theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tốc độ 7,5%), cơ cấu kinh tế thuỷ sản gồm khai thác, nuôi trồng và chế biến đã bước đầu chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng nuôi trồng, giảm tỷ trọng khai thác (cơ cấu KT-NT-CB dịch chuyển từ 71% - 13% - 16% (2000) đến 66% - 18% - 16% (2005). Lực lượng tàu thuyền tăng nhanh, tổng sản lượng thuỷ sản khai thác và nuôi trồng đạt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra (87.500 tấn / 85.000 - 90.000 tấn (NQ). Tuy diện tích nuôi tôm tăng chậm nhưng năng suất, sản lượng tôm nuôi tăng nhanh, đến cuối năm 2005 đạt trên 3.000 tấn, vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. Vùng ven biển đã đưa vào nuôi thành công đối tượng mới là tôm thẻ chân trắng trên đất cát, góp phần giải quyết việc làm, nâng cao đời sống thu nhập cho một bộ phận cư dân ở vùng bãi ngang ven biển. Nuôi thuỷ sản nước ngọt trên miền núi phát triển khá mạnh, góp phần quan trọng xoá đói giảm nghèo cho người dân miền núi. Các chỉ tiêu chế biến thuỷ sản xuất khẩu tuy không đạt nhưng tình hình sản xuất kinh doanh chế biến xuất khẩu đã bước đầu được khôi phục, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã đầu tư xây dựng nhà máy chế biến trong các Khu Công nghiệp, một số doanh nghiệp bước đầu có thị trường xuất khẩu ổn định, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm 2005; các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng cảng bến, vũng neo đậu tàu thuyền tuy triển khai chậm trong thời gian đầu do gặp khó khăn về thiết kế, thẩm định, nhưng đến nay đã và đang khẩn trương thi công, sớm hoàn thành đưa vào quản lý, khai thác trong năm 2006.
(Xem phụ lục: Bảng 1- Kết quả thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế thuỷ sản giai đoạn 2001 – 2010)
2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
a. Hạn chế, yếu kém: Bên cạnh những thành tựu đã đạt được nói trên kinh tế thuỷ sản còn có những hạn chế và yếu kém. Hình thức tổ chức quản lý sản xuất thuỷ sản trong toàn ngành còn mang nặng tính tự phát, quy mô sản xuất hàng hoá còn nhỏ, trình độ công nghệ sản xuất chưa cao, giá trị kim ngạch xuất thuỷ sản đạt thấp. Kinh tế thuỷ sản phát triển chưa toàn diện, các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến chưa có sự gắn kết, thúc đẩy nhau cùng phát triển hướng tới sự ổn định và bền vững. Cụ thể trên một số lĩnh vực như sau:
- Lực lượng tàu thuyền tăng nhanh nhưng công tác quản lý tàu thuyền còn nhiều bất cập, nhiều tàu thuyền chưa được đăng ký, đăng kiểm; còn có hiện tượng sử dụng chất nổ đánh bắt cá chưa được ngăn chặn triệt để; nợ vay vốn đóng tàu xa bờ còn lớn, công tác giải quyết thu hồi nợ triển khai chậm.
- Nuôi trồng thuỷ sản phát triển chưa ổn định, tình trạng ô nhiễm vùng nuôi và dịch bệnh thuỷ sản do vi-rút còn xảy ra khá thường xuyên chưa có biện pháp ngăn chặn triệt để, ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả kinh tế và sức thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.
- Chế biến thuỷ sản chưa có hướng phát triển rõ nét, doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu quy mô nhỏ, khả năng cạnh tranh yếu, sản phẩm chủ yếu là gia công cho các doanh nghiệp khác, dẫn đến kim ngạch xuất khẩu đạt thấp; chưa có doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đầu đàn, thiếu sự liên kết giữa các doanh nghiệp trong tỉnh cũng như liên kết với các doanh nghiệp ngoài tỉnh.
- Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nghề cá, đầu tư nuôi trồng thuỷ sản trong thời gian qua nhìn chung còn rất chậm, chưa đạt được tiến độ đề ra; một số dự án đã triển khai nhưng không thực hiện được do khó khăn về vốn, giải quyết đất đai và đã phải chấm dứt thực hiện.
b. Nguyên nhân: Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan có mối liên hệ ảnh hưởng lẫn nhau. Có thể nêu ra một số nguyên nhân chính sau:
- Nguyên nhân chủ quan:
+ Trong quá trình xây dựng các chỉ tiêu ban đầu, chưa lường thấy hết được những diễn biến phức tạp có thể xảy ra như thời tiết, dịch bệnh, thị trường xuất khẩu thuỷ sản biến động, khả năng vốn ngân sách đầu tư hạn chế,....Cho nên một số chỉ tiêu về diện tích nuôi trồng thuỷ sản, chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản, chỉ tiêu hoàn thành các công trình kết cấu hạ tầng cảng bến,...đề ra trong Nghị quyết quá cao mà thực tế tình hình khách quan không thể đáp ứng được.
+ Việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Tỉnh uỷ cũng như các quyết định của UBND tỉnh đối với các Sở ngành, UBND cấp dưới chưa đồng bộ, có nơi có lúc còn có tính trông chờ, đùn đẩy, chưa thể hiện rõ sự quan tâm, chỉ đạo mang tính đột phá như tinh thần Nghị quyết đề ra: chưa tập trung về nguồn lực, vốn đầu tư, thiếu quan hệ phối hợp chặt chẽ, nhất là giữa ngành với địa phương. Một số cấp uỷ địa phương chưa thật sự quan tâm giải quyết các công việc trọng tâm của ngành thuỷ sản, có tư tưởng “dễ làm, khó bỏ”, gây chậm trễ kéo dài.
+ Nhiều địa phương huyện, xã trọng điểm nghề cá, bộ máy tổ chức và cán bộ chuyên trách về lĩnh vực thuỷ sản thiếu và yếu. Có một số huyện không có cán bộ chuyên trách có chuyên môn về thuỷ sản. Toàn bộ các xã ven biển và hải đảo không có cán bộ chuyên trách theo dõi thuỷ sản. Do đó nhiều chương trình, dự án ở địa phương đã có chủ trương của UBND tỉnh, chỉ đạo của Sở Thuỷ sản nhưng ở địa phương không có cán bộ am hiểu chuyên môn để tham mưu giúp cấp uỷ, chính quyền địa phương trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện, làm hạn chế rất nhiều đến hiệu quả quản lý Nhà nước về thuỷ sản, hạn chế việc thu hút đầu tư phát triển trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thuỷ sản trên địa bàn.
+ Năng lực, trình độ tổ chức thực hiện của một bộ phận cán bộ, công chức ở các cơ quan có chức năng tham mưu quản lý nhà nước về kinh tế thuỷ sản tù tỉnh đến các địa phương còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới nói chung cũng như yêu cầu phát triển của ngành thuỷ sản.
+ Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp còn yếu về năng lực kinh doanh, chưa thoát khỏi tư duy quản lý, làm ăn nhỏ lẻ theo kiểu gia đình, khả năng xúc tiến tìm kiếm thị trường, quan hệ với đối tác trong nước và nước ngoài còn hạn chế.
+ Công tác quản lý chuyên ngành thuỷ sản cũng như cơ chế chính sách đầu tư cho thuỷ sản trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản kể cả cấp Trung ương và địa phương còn tương đối mới, nên chưa sát với yêu cầu thực tế, nhưng chậm được bổ sung, điều chỉnh.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Nguyên nhân bao trùm nhất là cơ sở kết cấu hạ tầng ngành thuỷ sản hầu như chưa có. Hệ thống cảng bến, vũng neo đậu, cơ sở dịch vụ hậu cần nghề cá, công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản,... đều là những công trình kỹ thuật đặc thù khá phức tạp, đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, trong khi địa phương chưa có kinh nghiệm trong thiết kế, xây dựng và hạn chế về vốn, do đó khi tiến hành gặp rất nhiều khó khăn.
+ Hình thức tổ chức sản xuất trong ngành kinh tế thuỷ sản (đánh bắt và nuôi trồng) chủ yếu là kinh tế cá thể, quy mô hộ gia đình nên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc quản lý điều hành, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong tỉnh quy mô còn nhỏ bé, thiếu vốn và thị trường, địa bàn xa những trung tâm kinh tế lớn nên ít có cơ hội tiếp xúc trực tiếp với thị trường và khách hàng nước ngoài.
+ Các lĩnh vực sản xuất khai thác trên biển, nuôi trồng thuỷ sản mang tính đặc thù, chịu nhiều tác động ảnh hưởng của thời tiết, mùa vụ, thiên tai khó lường. Quy trình kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản, sản xuất giống thuỷ sản mang tính sinh học phức tạp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện môi trường, nguồn nước cho nên dễ bị phát sinh dịch bệnh do vi rút gây ra nhưng lại chưa có thuốc đặc trị; sản xuất kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu và sự biến động của thị trường thế giới.
Từ những thành tích và những hạn chế, yếu kém tồn tại sau 5 năm thực hiện Nghị quyết XVI của Đảng bộ tỉnh, Nghị quyết 04 của Tỉnh uỷ về phát triển kinh tế thuỷ sản, có thể rút ra những bài học kinh nghiệm như sau:
1. Cần quán triệt sâu sắc chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách của Nhà nước, kịp thời nắm bắt xu thế phát triển kinh tế thuỷ sản trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương để có những quyết sách thích hợp. Từ đó đề ra những chỉ tiêu, nhiệm vụ và giải pháp phù hợp, tăng cường vai trò tham mưu quản lý nhà nước, phát huy tính năng động sáng tạo, bám sát nhu cầu sản xuất và đời sống của người dân, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của các ngành, các cấp trong tỉnh, kịp thời tham mưu cho Tỉnh uỷ, UBND tỉnh ban hành các chủ trương, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư phát triển các lĩnh vực sản xuất khai thác, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản và các quy định quản lý nhà nước trong từng lĩnh vực cụ thể, đáp ứng yêu cầu thực tế đặt ra.
2. Trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế thuỷ sản, trên cơ sở chương trình, kế hoạch cụ thể đã được đề ra, thường xuyên kiểm tra, giám sát, chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện. Qua thực tế cho thấy nơi nào mà các cấp uỷ Đảng, chính quyền có sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát xây dựng và thực hiện Đề án phát triển kinh tế thuỷ sản ở địa phương (huyện và xã), có kế hoạch và phân công trách nhiệm cụ thể thì ở đó phong trào phát triển kinh tế thuỷ sản khởi sắc và đạt được những kết quả khả quan, thu hút được sự quan tâm đầu tư của các thành phần kinh tế.
3. Từ thực tế yêu cầu quản lý, chỉ đạo, tham mưu phát triển kinh tế thuỷ sản ở các địa phương cho thấy với tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật thuỷ sản ở địa phương, cơ sở mỏng và yếu như hiện nay thì kinh tế thuỷ sản khó có thể phát triển mạnh được. Do đó, cần quan tâm đến công tác tổ chức bộ máy và biên chế đủ cán bộ quản lý thuỷ sản chuyên trách ở các huyện, xã trọng điểm nghề cá, khuyến khích cán bộ kỹ thuật làm việc doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản.
ĐỊNH HƯỚNG, MỤC TIÊU VÀ NHIỆM VỤ CỦA CHƯƠNG TRÌNH PHÁT TRIỂN TOÀN DIỆN NGÀNH THUỶ SẢN GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 VÀ ĐỊNH HƯỚNG ĐẾN NĂM 2015
I. Khái quát tiềm năng phát triển kinh tế thuỷ sản - Những thuận lợi và khó khăn
1. Khái quát tiềm năng, vai trò của kinh tế thuỷ sản Quảng Ngãi
Về điều kiện tự nhiên: Quảng Ngãi là tỉnh duyên hải miền Trung, có chiều dài bờ biển 130 km, có 6 cửa biển lớn nhỏ (Sa Cần, Sa Kỳ, Cổ Luỹ, cửa Lở, Mỹ Á và Sa Huỳnh) trải dọc theo bờ biển, khá thuận lợi cho tàu thuyền đánh cá ra vào khai thác hải sản. Vùng biển đặc quyền kinh tế của tỉnh rộng khoảng 48.150 km2, ngư trường đánh bắt khoảng 11.000 km2, có nhiều loại hải sản phong phú, có khả năng khai thác khoảng 27.000 tấn/năm, đặc biệt là cá nổi. Vùng biển ven bờ có hàng trăm ha mặt nước mặn có khả năng nuôi, trồng thuỷ sản các loại. Ngoài ra, từ vùng đồng bằng ven biển đến trung du, miền núi có thể khai thác khoảng 4.000 – 5.000 ha đất đai, mặt nước để nuôi trồng thuỷ sản nước lợ và nước ngọt, đặc biệt là có nhiều hồ, đập thuỷ lợi lớn (như Thạch Nham, Nước Trong, Núi Ngang,...) có khả năng nuôi thuỷ sản nước ngọt phong phú, tạo ra được nhiều sản phẩm hàng hoá tập trung.
Về điều kiện kinh tế - xã hội: toàn tỉnh có 5 huyện ven biển và 1 huyện đảo với 32 xã có hoạt động kinh tế thuỷ sản, với dân số chiếm gần 20% dân số toàn tỉnh. Lực lượng lao động trực tiếp trong lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thuỷ sản năm 2005 khoảng 60.000 người, đa số lực lượng lao động này có nhiều kinh nghiệm thực tiễn, năng động và sáng tạo trong khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Giá trị sản xuất (Giá hiện hành) toàn ngành năm 2005 chiếm khoảng 28,4% giá trị của ngành nông – lâm – ngư nghiệp, chiếm 8,1 % giá trị sản xuất toàn tỉnh. Kinh tế thuỷ sản phát triển góp phần đáng kể đảm bảo cuộc sống của cư dân vùng ven biển và hải đảo, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà.
Trong thời gian qua, kinh tế thuỷ sản phát triển chưa tương xứng với tiềm năng vốn có, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra trong từng thời kỳ cụ thể do những nguyên nhân khách quan và chủ quan đã nói ở phần trên. Kinh tế thuỷ sản Quảng Ngãi nếu được tập trung chỉ đạo và tổ chức thực hiện đồng bộ từ tỉnh đến cơ sở; đồng thời động viên được sức mạnh và kinh nghiệm quý báu của cộng đồng ngư dân và sự tham gia đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế khác, chắc chắn kinh tế thuỷ sản sẽ phát huy được thế mạnh, trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng của tỉnh.
Trong giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2015, phát triển toàn diện ngành thuỷ sản có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Phát triển kinh tế thuỷ sản phải phù hợp và đáp ứng yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế biển của cả nước và khu vực, có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa các ngành kinh tế biển (gồm giao thông, dầu khí, du lịch,...) như Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 06/5/1993 của Bộ Chính trị (khoá VII) về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển, Chỉ thị số 20-CT/TƯ của Bộ Chính trị (khoá VIII) về phát triển kinh tế biển trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã chỉ ra; và phải phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).
2. Xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình phát triển toàn diện kinh tế thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010, ngành thuỷ sản Quảng Ngãi có những thuận lợi và khó khăn cơ bản như sau:
- Thuận lợi:
Trong giai đoạn tới, thị trường tiêu thụ thuỷ sản xuất khẩu và nội địa tiếp tục được mở rộng; riêng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh, nhất là tại Khu Kinh tế Dung Quất và các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh tăng lên nhanh chóng, tạo ra cơ hội rất thuận lợi cho kinh tế thuỷ sản phát triển một cách toàn diện.
+ Lĩnh vực khai thác thuỷ sản tỉnh ta có nhiều thuận lợi, năng lực đánh bắt thuỷ sản trong tỉnh khá cao, lực lượng tàu thuyền lớn, đội ngũ lao động đánh bắt có truyền thống và kinh nghiệm sản xuất. Ngư dân đang từng bước chuyển đổi sang một số loại nghề đánh bắt xa bờ có hiệu quả cao, sử dụng ngày càng nhiều trang thiết bị, ngư cụ tiên tiến giúp cho nghề khai thác trong thời gian tới có khả năng vươn ra khơi xa, nâng cao được năng suất lao động, đạt hiệu quả kinh tế cao.
+ Sản xuất nuôi trồng thuỷ sản nước lợ và nước ngọt đang trở thành phong trào rộng rãi từ đồng bằng đến trung du, miền núi, đặc biệt là nuôi tôm nước lợ (đối tượng tôm chân trắng) đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, đang thu hút mạnh mẽ sự quan tâm đầu tư của người sản xuất. Trong nhiều năm qua, kiến thức và kinh nghiệm sản xuất của đội ngũ cán bộ kỹ thuật và người nuôi tôm trong tỉnh đã được tích luỹ và nâng lên. Một số giống loài thuỷ sản mới tiếp tục được nghiên cứu đưa vào nuôi sẽ góp phần đa dạng hoá đối tượng sản phẩm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường nội địa và xuất khẩu trong thời gian tới.
+ Trong lĩnh vực chế biến thuỷ sản, tỉnh ta bước đầu đã hình thành được một số nhà máy chế biến thuỷ sản có mặt bằng, nhà xưởng, trang thiết bị tương đối đồng bộ, hiện đại, hầu hết nằm trong Khu Công nghiệp của tỉnh. Một số doanh nghiệp bước đầu có thị thường xuất khẩu tương đối ổn định, đang có hướng đầu tư mở rộng nhà xưởng, kho lạnh và trang bị thêm dây chuyền thiết bị sản xuất mặt hàng có giá trị gia tăng.
+ Cơ sở hạ tầng nghề cá như cảng bến, vũng neo đậu tàu cá đã bước đầu được nhà nước quan tâm đầu tư; mặt khác, một số dự án lớn của tỉnh đang và sẽ được đầu tư như hồ chứa nước Nước Trong, đường ven biển Dung Quất – Sa Huỳnh,... góp phần tác động không nhỏ cho các lĩnh vực thuỷ sản phát triển, nhất là khai thác và nuôi trồng.
- Khó khăn:
+ Kết cấu hạ tầng phục vụ khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ nghề cá trong tỉnh chưa được đầu tư đồng bộ. Các công trình kết cấu hạ tầng nghề cá đều là những công trình lớn, đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, trong khi vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này còn rất hạn chế. Bên cạnh đó các công trình thuộc lĩnh vực hạ tầng nghề cá mang tính kỹ thuật đặc thù trong thiết kế và điều kiện thi công phức tạp, trong khi các cơ quan tư vấn, nhà thầu trong và ngoài tỉnh còn có phần thiếu kinh nghiệm nên quá trình triển khai gặp nhiều khó khăn, phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện.
+ Ngư trường và nguồn lợi thuỷ sản đánh bắt ven bờ trong tỉnh hạn chế, ngày càng có nguy cơ cạn kiệt; giá nhiên liệu ngày càng cao, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động đánh bắt hải sản; cùng với điều kiện, tập quán sản xuất thường xuyên phải di chuyển ngư trường ảnh hưởng lớn đến việc quản lý, quy hoạch phát triển lực lượng khai thác cũng như đối với việc giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản cho ngư dân. Tình hình an ninh, trật tự trên biển, nhất là tranh chấp quốc tế trên vùng biển vẫn còn diễn ra phức tạp cũng là điều ảnh hưởng không thuận lợi đến hoạt động sản xuất của nhiều tàu thuyền đánh bắt xa bờ của ngư dân tỉnh ta.
+ Nuôi trồng thuỷ sản chưa phát triển ổn định, còn mang nặng yếu tố tự phát, quy mô nhỏ lẻ; dịch bệnh đối với nuôi thuỷ sản vẫn còn nhiều nguy cơ xảy ra do ô nhiễm môi trường, do chất lượng con giống và ý thức cộng đồng của người sản xuất chưa cao; các dự án đầu tư vào nuôi trồng thuỷ sản triển khai chậm, ảnh hưởng đến tốc độ gia tăng diện tích và sản lượng thuỷ sản trong thời gian tới.
+ Chế biến thuỷ sản chưa có hướng phát triển đột phá, số doanh nghiệp tham gia chế biến thuỷ sản xuất khẩu chưa nhiều, phần lớn có quy mô nhỏ, trình độ công nghệ thấp, năng lực tài chính yếu, thiếu sức cạnh tranh, nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế, đòi hỏi rất nghiêm ngặt về chất lượng và thương hiệu sản phẩm hàng hoá; các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu trong tỉnh thiếu sự liên kết, hợp tác hỗ trợ sản xuất với nhau; khả năng thu hút vốn đầu tư lớn vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản xuất khẩu ở tỉnh ta còn nhiều hạn chế.
+ Tỉnh ta nằm trong khu vực duyên hải miền Trung, thường xuyên bị bão lũ, nắng hạn. Đây là điều kiện rất bất lợi cho các lĩnh vực sản xuất khai thác và nuôi trồng thuỷ sản, gây trở ngại khá lớn cho sản xuất và đời sống của bà con ngư dân.
+ Tổ chức bộ máy và cán bộ quản lý thuỷ sản từ tỉnh đến cơ sở (nhất là cấp huyện và cấp xã) còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện kinh tế thuỷ sản theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian tới.
II. Định hướng, mục tiêu và chỉ tiêu (giai đoạn 2006 – 2010)
1. Định hướng:
Xác định phát triển kinh tế thuỷ sản phải nằm trong chiến lược phát triển kinh tế biển cả nước và khu vực, gắn với việc phát triển đồng bộ của các ngành giao thông, du lịch, dầu khí trên vùng biển; đồng thời phát triển kinh tế thuỷ sản toàn diện phải gắn với sự ổn định và bền vững, và an ninh, trật tự xã hội. Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVII nhiệm kỳ 2006 - 2010 đã chỉ rõ: Phát triển kinh tế thủy sản đồng bộ, bền vững, gắn kết giữa khai thác, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ thủy sản. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng giá trị nuôi trồng và chế biến. Khai thác phải đi đôi với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, kết hợp bảo vệ chủ quyền lãnh hải Tổ quốc. Phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên cơ sở quy hoạch hợp lý mặt nước, diện tích đất có khả năng nuôi trồng theo hướng công nghiệp, bền vững, phù hợp với nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển mạnh các cơ sở chế biến thuỷ sản, tăng nhanh sản phẩm xuất khẩu. Đẩy mạnh đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng thuỷ sản, trước hết là các công trình cảng, bến, thông luồng, vũng neo đậu tàu thuyền trú bão và các công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản. Quá trình thực hiện, luôn luôn quán triệt quan điểm phát triển thuỷ sản đi đôi với bảo vệ môi trường sinh thái bền vững.
2. Mục tiêu:
Phát triển toàn diện các lĩnh vực sản xuất khai thác, nuôi trồng, chế biến và xây dựng kết cấu hạ tầng nghề cá, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng toàn ngành bình quân hàng năm 6 - 7%. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành đến năm 2010 theo hướng giảm tỷ lệ khai thác, tăng tỷ lệ nuôi trồng, theo đó: khai thác chiếm 64,93%, nuôi trồng 35,07%. Phát triển kinh tế thuỷ sản một cách bền vững, góp phần quan trọng giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo và tiến tới làm giàu cho một bộ phận người dân vùng biển, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế tỉnh nhà và cho nghề cá cả nước.
3. Chỉ tiêu: Trong giai đoạn 2006 – 2010, ngành thuỷ sản phấn đấu đạt được những chỉ tiêu chủ yếu như sau
CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN KINH TẾ THUỶ SẢN CHỦ YẾU GIAI ĐOẠN 2006 - 2010
TT | Chỉ tiêu | ĐVT | Thực hiện 2005 | Tăng% bq/năm (2001-2005) | TH năm 2006 | Đến năm 2010 | Tăng% bq/năm (2006-2010) |
1 | Giá trị SXTS (theo giá SS sánh 1994) | tỷ đồng | 652 | 8,9 | 714,3 | 910 | 6,10 |
2 | Giá trị thuỷ sản chế biến xuất khẩu - Kim ngạch XK | 1.000 USD“ | 5.800
| 12,8
| 6.050
| 18.000
| 26,41
|
3 | Khai thác thủy sản |
|
|
|
|
|
|
- Sản lượng KT | tấn | 87.020 | 5,7 | 88.217 | 90.000 | 0,59 | |
4 | Nuôi trồng TS |
|
|
|
|
|
|
- Diện tích nuôi TS | ha | 1.400 | 4,5 | 1.395 | 2.040 | 7,94 | |
+ DT nuôi tôm | ha | 730 | 3,8 | 715 | 1.100 | 8,73 | |
- S. lượng nuôi TS | tấn | 3.813 | 36,4 | 5.062 | 7.200 | 14,05 | |
+ S.lượng tôm nuôi | tấn | 3.005 | 37,9 | 4.160 | 5.900 | 15,36 | |
+ S.lượng nước mặn | tấn | 0 |
| 0 | 100 |
| |
- S.lượng tôm giống | tr con | 105 | 8,6 | 182 | 413 | 33,31 | |
5 | Chế biến thủy sản |
|
|
|
|
|
|
TS ch.biến c.nghiệp | tấn | 2.600 |
| 3.025 | 5.800 | 17,63 | |
+ Thuỷ sản XK | “ | 1.870 |
| 2.215 | 4.600 | 19,97 | |
6 | Cơ cấu:- Khai thác | % | 78,81% |
| 72,39% | 64,93% |
|
- Nuôi trồng | % | 21,19% |
| 27,61% | 35,07% |
|
(Xem phụ lục chi tiết: Bảng 2 - Chỉ tiêu phát triển kinh tế thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010)
III. Nội dung phát triển toàn diện ngành thuỷ sản (giai đoạn 2006-2010)
1. Lĩnh vực khai thác thuỷ sản
a. Định hướng và mục tiêu:
Phát triển lực lượng tàu thuyền với định hướng đầu tư đóng mới, cải hoán tàu cá để nâng cao năng lực đánh bắt xa bờ, hạn chế cường độ khai thác ven bờ để bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản; đẩy mạnh chuyển đổi nghề nghiệp và tăng cường sử dụng trang thiết bị, ngư cụ tiên tiến để khai thác thuỷ sản xa bờ đạt chất lượng sản phẩm cao, tăng hiệu quả kinh tế, góp phần cung cấp nhiều nguyên liệu cho chế biến thuỷ sản.
Đến năm 2010 trên 30% số tàu có công suất từ 90 CV trở lên, đưa công suất bình quân từ 60,3 CV/chiếc (năm 2005) lên đến 70,93CV/chiếc (năm 2010), tổng công suất đạt 305.000 CV; Công tác quản lý tàu thuyền đi vào nề nếp, trên 95% số tàu thuyền được đăng ký, đăng kiểm đúng quy định; 100% thuyền trưởng, 70% máy trưởng và 50% thuyền viên được qua tập huấn, đào tạo cấp bằng; đảm bảo an toàn cho người và phương tiện trên biển.
b. Nhiệm vụ và giải pháp:
Hướng dẫn, khuyến khích ngư dân phát triển các loại nghề đánh bắt xa bờ như lưới vây, câu khơi, câu mực khơi, câu cá ngừ đại dương, lưới kéo cao tốc,...Hạn chế đi đến chấm dứt những loại nghề đánh bắt ven bờ có khả năng làm cạn kiệt nguồn lợi thuỷ sản.
Điều tra quy hoạch, xây dựng và ban hành cơ chế chính sách nhằm khuyến khích phát triển công suất tàu thuyền và cơ cấu nghề nghiệp đánh bắt hợp lý nhằm đảm bảo cho nghề khai thác đạt được hiệu quả kinh tế, đồng thời đảm bảo yêu cầu bảo vệ và tái tạo nguồn lợi thuỷ sản, nhất là vùng biển ven bờ.
Tăng cường quản lý nhà nước về tàu cá trong việc đăng ký, đăng kiểm, quản lý các cơ sở đóng sửa tàu thuyền nhằm đảm bảo thực hiện đúng các quy trình, quy phạm kỹ thuật, từng bước đầu tư trang thiết bị kỹ thuật, đáp ứng nhu cầu sửa chữa, đóng mới ngày càng nhiều tàu thuyền công suất lớn và trang thiết bị hiện đại.
Tiếp tục tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ thuyền trưởng, máy trưởng và thuyền viên nâng cao trình độ ứng dụng quy trình kỹ thuật và trang thiết bị đánh bắt tiên tiến, ứng dụng kỹ thuật bảo quản sản phẩm sau khai thác; nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật về thuỷ sản, công tác phòng chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn và an ninh, quốc phòng trên biển, đảm bảo khai thác đạt hiệu quả kinh tế và đảm bảo an toàn cho người và phương tiện trên biển.
Tổ chức và đầu tư trang bị hệ thống thông tin đồng bộ giữa các tàu cá trên biển, tàu cá với bờ và các cơ quan chức năng liên quan trong công tác tuần tra kiểm soát bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, phòng chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn trên biển.
Tham gia, phối hợp với Bộ Thuỷ sản, các Viện Nghiên cứu tiến hành điều tra nguồn lợi thuỷ sản trong tỉnh xác định trữ lượng, chủng loại, mùa vụ, đối tượng thuỷ sản khai thác; quy hoạch bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản ven bờ, bảo vệ những bãi đẻ, vùng sinh sống của cá con,... nhằm góp phần tái tạo nguồn lợi thuỷ sản; thực hiện dự án bảo tồn sinh vật biển đảo Lý Sơn theo quy hoạch của Bộ Thuỷ sản.
Đầu tư phát triển hệ thống dịch vụ hậu cần nghề cá đồng bộ, tập trung tại các cảng cá mới được xây dựng nhằm hoàn chỉnh khép kín từ khâu hậu cần phục vụ đánh bắt đến khâu thu mua chế biến nguyên liệu thuỷ sản tại các cảng bến, vũng neo đậu tàu thuyền. Chú trọng đầu tư nâng cấp các cơ sở đóng mới, sửa chữa tàu thuyền hiện có tại các cửa biển: Sa Cần, Sa Kỳ, Cửa Đại, Mỹ Á và Sa Huỳnh.
Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời, đến năm 2010 chấm dứt việc vận chuyển, tàng trữ, mua bán, sử dụng vật liệu nổ, chất độc, xung điện,...để đánh cá nhằm bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đặc biệt là đối với địa bàn huyện đảo Lý Sơn.
c. Nhu cầu vốn đầu tư:
- Vốn đầu tư: 174.500 triệu đồng, trong đó:
+ Đóng mới tàu công suất lớn trên 90 CV: 80.000 triệu đồng.
+ Cải hoán nâng cấp tàu cá, chuyển đổi nghề nghiệp: 90.000 triệu đồng
+ Đầu tư nâng cấp 6 cơ sở đóng mới và sửa chữa tàu cá: 3.000 triệu đồng.
+ Xây dựng 4 trạm đăng kiểm tàu thuyền, thông tin liên lạc phục vụ công tác tìm kiếm cứu nạn; kết hợp với việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản và kiểm dịch thú y thuỷ sản tại các vùng trọng điểm nghề cá của tỉnh: 1.500 triệu đồng.
- Nguồn vốn đầu tư:
+ Vốn ngân sách Nhà nước: 1.500 triệu đồng (0,8%), để xây dựng 4 trạm đăng kiểm, bảo vệ nguồn lợi thủy sản tại 3 cửa biển.
+ Vốn vay tín dụng: 112.000 triệu đồng (64%).
+ Vốn khác : 61.000 triệu đồng (35,2%).
+ Vốn vay và vốn tự có người sản xuất đầu tư trực tiếp vào tàu thuyền, cơ sở sản xuất.
(Xem phụ lục: Bảng 3 – Danh mục đầu tư phát triển thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010, Mục A - Lĩnh vực khai thác thuỷ sản)
2. Nuôi trồng thuỷ sản
a. Định hướng và mục tiêu:
Tập trung phát triển nuôi trồng thuỷ sản trên các loại mặt nước lợ, ngọt, mặn; nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng thuỷ sản nuôi trồng; tích cực phòng ngừa dịch bệnh thuỷ sản. Quan tâm đầu tư các vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung, có kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ để ứng dụng công nghệ nuôi tiên tiến và đảm bảo môi trường vùng nuôi.
Nuôi thuỷ sản nước lợ (chủ yếu là nuôi tôm): Phấn đấu diện tích nuôi tôm đến năm 2010 là 1.100 ha, trong đó nuôi tôm trên đất cát khoảng 300 ha, nuôi vùng triều khoảng 800 ha; sản lượng tôm nuôi đạt khoảng 6.000 tấn; đối tượng tôm nuôi chủ lực là tôm sú và tôm chân trắng, ngoài ra nghiên cứu triển khai nuôi các đối tượng tôm rảo, tôm bạc,...
Nuôi thuỷ sản nước ngọt theo hướng đa dạng hoá đối tượng, phù hợp với thị trường, chú trọng đáp ứng nhu cầu thực phẩm của Khu Kinh tế Dung Quất và các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh. Đến năm 2010 đạt diện tích 920 ha, sản lượng 1.200 tấn; đối tượng nuôi đa dạng bao gồm cá rô phi đơn tính, cá lóc, ếch, cá trắm cỏ, cá mè, cá chép, cá trôi, cá lăng, cua, tôm càng xanh,...
Nuôi trồng thuỷ sản nước mặn: Bước đầu nghiên cứu, khảo sát và lập dự án hoặc xây dựng mô hình đầu tư nuôi, trồng thuỷ sản nước mặn ở những vùng nước có điều kiện với quy mô thích hợp.
b. Nhiệm vụ và giải pháp:
Điều chỉnh, bổ sung quy hoạch tổng thể NTTS đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. Tiến hành quy hoạch chi tiết, cải tạo các vùng nuôi tôm hiện có đảm bảo chất lượng môi trường, nuôi trồng thuỷ sản bền vững.
Tham mưu điều chỉnh, bổ sung Quy định chính sách ưu đãi đầu tư vào NTTS trên địa bàn tỉnh (Quyết định số 97/2003/QĐ-UB ngày 21/5/2003).
Nghiên cứu cải tiến quy trình kỹ thuật nuôi tôm trên đất cát nhằm hạn chế thấp nhất việc ô nhiễm môi trường, hạn chế sử dụng nguồn nước ngầm, đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sinh thái ven biển.
Xây dựng và tổ chức thực hiện Qui chế quản lý vùng nuôi tập trung, an toàn (hạn chế dịch bệnh, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm), các mô hình nuôi sạch và hướng dẫn các địa phương, cơ sở thực hiện.
Thực hiện tốt Quy chế quản lý chất lượng sản xuất kinh doanh giống thuỷ sản, đẩy mạnh công tác kiểm dịch giống, thức ăn, thuốc thú y thuỷ sản,...
Xây dựng các mô hình tổ chức sản xuất cộng đồng thích hợp như các hợp tác xã, tổ hợp tác, câu lạc bộ, chi hội nuôi trồng thuỷ sản,... cùng sản xuất, cùng quản lý, kiểm soát vùng nuôi.
Hoàn thành các dự án nuôi tôm đang dở dang để đưa vào khai thác từ năm 2006 như: Đồng Đá Bia (Bình Chánh - Bình Sơn), Gò Giữa (Phổ Minh - Đức Phổ), Đức Minh - Mộ Đức (giai đoạn 1), Đức Chánh - Mộ Đức (giai đoạn 1).
Lập các dự án, thu hút vốn đầu tư vào những vùng nuôi tôm tập trung tiếp theo trên cơ sở rút kinh nghiệm những dự án đã hoàn thành đi vào sử dụng (về thiết kế - thi công, về công nghệ xử lý môi trường, về tổ chức quản lý và sản xuất trong vùng dự án,...). Gồm các dự án: nuôi tôm trên đất cát Bình Phú, nuôi tôm Châu Me – Bình Châu (huyện Bình Sơn), nuôi tôm Cổ Luỹ - Tịnh Khê, nuôi tôm trên đất cát Tịnh Khê (huyện Sơn Tịnh), nuôi tôm Võ Hồi – Nghĩa Hoà (huyện Tư Nghĩa), dự án ứng dụng KHCN nuôi tôm trên cát Đức Phong, nuôi tôm trên đất cát Đức Thắng (huyện Mộ Đức), nuôi tôm trên đất cát Đồng Tràm - Phổ Vinh (huyện Đức Phổ).
Tổ chức thực hiện các dự án đầu tư xử lý nước thải ở các vùng nuôi tôm tập trung trên cát hiện có như vùng nuôi tôm xã Đức Phong, xã Đức Minh (huyện Mộ Đức), xã Phổ An, xã Phổ Quang, xã Phổ Khánh (huyện Đức Phổ) để củng cố vùng nuôi tôm đất cát theo hướng ổn định và bảo vệ tốt môi trường.
Thực hiện các dự án đầu tư nuôi thuỷ sản nước ngọt Gò Mèn - Đức Lân (huyện Mộ Đức), Gò Chè - Long Sơn (huyện Minh Long), Sông Miếu – Bình Nguyên, Gò Ú – Bình Thới (huyện Bình Sơn) nhằm chuyển đổi vùng ruộng trồng lúa kém hiệu quả sang nuôi thuỷ sản nước ngọt.
Chuẩn bị lập dự án đầu tư nuôi cá nước ngọt tại hồ chứa nước Nước Trong và một số hồ, đập thuỷ lợi lớn khác trong tỉnh.
c. Nhu cầu vốn đầu tư:
- Vốn đầu tư xây dựng trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản trong 5 năm 2006 – 2010 là 210.197 triệu đồng (không tính vốn lưu động), trong đó:
+ Vốn ngân sách: 48.700 triệu đồng (23%) – xây dựng các hạng mục hạ tầng cơ bản phục vụ vùng nuôi trồng thuỷ sản, hỗ trợ xây dựng trại sản xuất giống, nâng cấp phòng kiểm nghiệm NTTS, quy hoạch chi tiết cải tạo vùng nuôi.
+ Vốn tín dụng: 91.900 triệu đồng (43%)
+ Vốn tự có: 69.597 triệu đồng (34%)
+ Vốn tín dụng, vốn tự có dùng để xây dựng đường điện hạ thế, kênh mương, ao hồ trong vùng nuôi, trực tiếp đầu tư các trại sản xuất giống thuỷ sản,...
(Xem phụ lục: Bảng 3 - Danh mục đầu tư phát triển thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010, Mục B - Lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản)
3. Chế biến thuỷ sản và xuất khẩu thuỷ sản
a. Định hướng và mục tiêu: Tập trung đẩy mạnh lĩnh vực chế biến thuỷ sản xuất khẩu, tạo ra bước đột phá mới nhằm tăng nhanh sản lượng và giá trị sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, đa dạng hoá sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa và xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 nâng công suất chế biến lên 9.000 tấn sản phẩm/năm. Sản lượng thuỷ sản chế biến công nghiệp là 5.800 tấn, trong đó xuất khẩu 4.600 tấn, đạt giá trị xuất khẩu là 18 triệu USD, trong đó giá trị kim ngạch xuất khẩu trực tiếp là 8 triệu USD.
b. Nhiệm vụ và giải pháp: Để đạt được mục tiêu nói trên cần thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp sau:
- Xây dựng và ban hành cơ chế chính sách thu hút, kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực chế biến thuỷ sản đông lạnh, chế biến thuỷ sản truyền thống (thuỷ sản khô, nước mắm chất lượng cao,...) tại các Khu Công nghiệp và cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh, đặc biệt là các nhà máy chế biến các mặt hàng, sản phẩm có giá trị gia tăng. Cụ thể:
+ Đầu tư nâng cấp 4 nhà máy chế biến thuỷ sản hiện có trong các khu công nghiệp (Đại Dương Xanh, Phùng Hưng, Hải Phú, Bình Châu), chú trọng đầu tư dây chuyền, trang thiết bị, công nghệ chế biến sản phẩm giá trị gia tăng, đảm bảo các tiêu chuẩn và chất lượng sản phẩm cao. Trong đó xây dựng 1 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản đầu đàn, có đủ năng lực làm nòng cốt thúc đẩy công nghiệp chế biến thuỷ sản trên địa bàn tỉnh.
+ Kêu gọi đầu tư mới từ 1 – 2 nhà máy tại địa bàn thích hợp trong tỉnh, chủ yếu sản xuất mặt hàng thuỷ sản có giá trị gia tăng, chú ý chế biến thuỷ sản nước ngọt phục vụ xuất khẩu và trực tiếp phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng nội địa, nhất là nhu cầu thực phẩm thuỷ sản ở Khu Kinh tế Dung Quất và các khu, cụm công nghiệp trong tỉnh.
- Xây dựng cơ chế chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo cán bộ quản lý, điều hành sản xuất thực sự năng động, thích nghi với cơ chế thị trường và đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao; hỗ trợ cho doanh nghiệp trong công tác xúc tiến thương mại như: cung cấp thông tin thương mại, tư vấn xuất khẩu, tham gia hội chợ triển lãm trong và ngoài nước, khảo sát tìm kiếm thị trường, xây dựng và quảng bá thương hiệu sản phẩm, nhất là những sản phẩm có tính đặc trưng của địa phương.
- Tạo điều kiện thúc đẩy mở rộng liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp và đối tác trong và ngoài tỉnh; tổ chức hiệp hội doanh nghiệp chế biến thuỷ sản trên địa bàn tỉnh để liên kết, hợp tác kinh doanh sản xuất.
- Tăng cường công tác quản lý chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm thuỷ sản, đảm bảo chất lượng và uy tín sản phẩm trên thị trường.
c. Nhu cầu vốn đầu tư:
- Vốn đầu tư là: 46.000 triệu đồng, trong đó:
+ Vốn ngân sách Nhà nước: 4.000 triệu đồng (9%), để hỗ trợ đầu tư ngoài tường rào, điện lưới, hỗ trợ khuyến khích đầu tư dây chuyền công nghệ chế biến sản phẩm giá trị gia tăng,...
+ Vốn vay tín dụng: 28.000 triệu đồng (60%).
+ Vốn tự có của nhà đầu tư 14.000 triệu đồng (31%), đầu tư trực tiếp xây dựng nhà xưởng, trang thiết bị nhà máy chế biến.
(Xem phụ lục: Bảng 3 - Danh mục đầu tư phát triển thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010, Mục C - Lĩnh vực chế biến và xuất khẩu thuỷ sản)
4. Về đầu tư cơ sở hạ tầng và dịch vụ nghề cá
a. Định hướng: Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nghề cá (cảng cá, thông luồng, vũng neo đậu tàu thuyền trú bão,...) là nhiệm vụ vừa cấp thiết, vừa lâu dài, đòi hỏi nhiều vốn đầu tư nhằm trực tiếp phục vụ cho các lĩnh vực sản xuất khai thác, thu mua sản phẩm thuỷ sản, đảm bảo an toàn cho người và phương tiện trong quá trình sản xuất, hạn chế thiệt hại do thiên tai gây ra.
Để phát huy tác dụng các công trình kết cấu hạ tầng, cần phải xây dựng cơ chế, chính sách thu hút các thành phần kinh tế tham gia đầu tư lĩnh vực dịch vụ hậu cần nghề cá và tiêu thụ sản phẩm khai thác tại các cảng cá như chợ cá, cơ sở sơ chế, kho lạnh bảo quản sản phẩm khai thác, cơ sở đóng sửa tàu thuyền, cơ sở cung ứng ngư lưới cụ khai thác, nhiên liệu, đá lạnh, thực phẩm,…nhằm khai thác sử dụng hiệu quả các cảng cá xây dựng hoàn thành.
b. Nhiệm vụ: Trong giai đoạn 2006 – 2010, tiếp tục đầu tư các công trình hạ tầng cảng cá, thông luồng, vũng neo đậu tàu thuyền như sau:
- Xây dựng hoàn thành và đưa vào khai thác hiệu quả các dự án đang thi công (chuyển tiếp) như: Thông luồng và xây dựng Cảng cá Sa Huỳnh (giai đoạn 1), Vũng neo đậu tàu thuyền và khu dịch vụ hậu cần nghề cá Lý Sơn (giai đoạn 1), Cảng neo trú tàu thuyền Tịnh Hoà.
- Tiếp tục khảo sát, lập dự án đầu tư xây dựng hạ tầng Khu dịch vụ hậu cần nghề cá tập trung, cảng bến, nạo vét luồng lạch, thông luồng các cửa biển. Cụ thể như sau:
+ Cầu cảng cá sông Trà Bồng (Khu Kinh tế Dung Quất).
+ Thông luồng Cửa Đại và Khu DV hậu cần nghề cá Cổ Luỹ (Tư Nghĩa).
+ Thông cửa biển & khu trú đậu tàu thuyền Mỹ Á.
+ Khu neo trú bão Sa Kỳ - Cổ Lũy (dọc sông Kinh Giang).
- Ngoài ra, tranh thủ các nguồn vốn trong nước và nước ngoài để tiếp tục đầu tư giai đoạn 2 các dự án sau:
+ Thông cửa biển & Xây dựng cảng cá Sa Huỳnh.
+ Vũng neo đậu tàu thuyền & Khu DVHC đảo Lý Sơn.
c. Nhu cầu vốn đầu tư:
- Vốn đầu tư xây dựng công trình kết cấu hạ tầng trong giai đoạn 2006 – 2010: 186.152 triệu đồng, trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách Nhà nước: 108.465 triệu đồng (58%) đầu tư kết cấu hạ tầng cảng bến, thông luồng, vũng neo đậu, điện lưới, giao thông, mặt bằng cảng, tường rào,... vốn đối ứng với vốn ODA.
+ Nguồn vốn ODA: 59.260 triệu đồng (32%) do các tổ chức quốc tế, các quốc gia tài trợ hoặc cho vay ưu đãi dài hạn.
+ Nguồn vốn vay tín dụng 8.500 triệu đồng (5%).
+ Nguồn vốn khác: 9.927 triệu đồng (6%).
- Vốn vay tín dụng và vốn tự có do doanh nghiệp, chủ đầu tư thuộc các thành phần kinh tế vay vốn đầu tư kinh doanh dịch vụ tại các cảng, bến.
(Xem phụ lục: Bảng 3 – Danh mục đầu tư phát triển thuỷ sản giai đoạn 2006 – 2010, Mục D - Cơ sở hạ tầng và dịch vụ nghề cá)
5. Thực hiện các chương trình, kế hoạch thuỷ sản chuyên đề trong giai đoạn 2006 – 2010
Trong quá trình thực hiện chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản giai đoạn 2006 - 2010, cần triển khai xây dựng và thực hiện 9 chương trình, kế hoạch có tính chuyên đề cụ thể về sản xuất giống thuỷ sản; công tác khuyến ngư; bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản; bảo đảm an toàn cho người và tàu cá hoạt động thuỷ sản; phát triển thuỷ sản phục vụ Khu Kinh tế Dung Quất; hoạt động xúc tiến thương mại thuỷ sản; công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực và cán bộ thuỷ sản; bảo vệ môi trường thuỷ sản; khoa học & công nghệ thuỷ sản. Cụ thể như sau:
a. Chương trình phát triển giống thuỷ sản (Thực hiện Quyết định số 112/2004/QĐ-TTg ngày 23/6/2004 của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình phát triển Giống thuỷ sản):
- Mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2010 chủ động sản xuất đáp ứng 90% nhu cầu con giống tôm sú, 60 % con giống tôm chân trắng và 80% nhu cầu các loại giống thuỷ sản nước ngọt trên địa bàn tỉnh.
- Nhiệm vụ:
+ Đầu tư nâng cấp 3 trại sản xuất tôm giống chân trắng (công suất 250 triệu con PL.12/trại).
+ Thực hiện đầu tư Dự án hạ tầng Khu sản xuất giống thủy sản (lợ, mặn) tập trung tại Đức Phong - Mộ Đức theo quy hoạch chi tiết đã được UBND tỉnh phê duyệt.
+ Đầu tư Trại thực nghiệm nghiên cứu sản xuất giống thuỷ sản nước mặn, lợ quy mô 5 ha.
+ Kêu gọi đầu tư các trại sản xuất giống, lấp trên 50% Khu sản xuất giống thuỷ sản tập trung Đức Phong.
+ Thực hiện các dự án chuyển giao công nghệ & di nhập giống mới.
- Nhu cầu vốn: ước khoảng 12.946 triệu đồng, trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 9.946 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tín dụng: 2.000 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tự có: 1.000 triệu đồng.
b. Chương trình hoạt động khuyến ngư:
(Thực hiện Nghị định 56/2005/NĐ-CP ngày 26/4/2005 của Chính phủ về khuyến nông, khuyến ngư)
- Mục tiêu: Nâng cao nhận thức về chính sách pháp luật, kiến thức khoa học kỹ thuật và quản lý, kinh doanh thuỷ sản; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất thuỷ sản, tạo việc làm tăng thu nhập, góp phàn xoá đói giảm nghèo, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn
- Nhiệm vụ: Tổ chức thực hiện công tác thông tin tuyên truyền; bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo; xây dựng và duy trì hoạt động của mạng lưới khuyến ngư ở địa phương và cơ sở; xây dựng mô hình và chuyển giao khoa học công nghệ, chuyển giao quy trình kỹ thuật nhân ra diện rộng,... góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh thuỷ sản đạt năng suất, chất lượng hiệu quả cao cho cộng đồng nghề cá và các cơ sở sản xuất thuỷ sản.
- Nhu cầu vốn: ước khoảng 3.800 triệu đồng, trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 2.400 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tín dụng: 700 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tự có: 700 triệu đồng.
c. Chương trình bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản: (Theo Quyết định số 131/2004/QĐ-TTg ngày 16/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ):
- Mục tiêu: Phát triển kinh tế thuỷ sản đi đôi với việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản, tăng cường năng lực kiểm soát nguồn lợi thuỷ sản.
- Nhiệm vụ: nâng cao nhận thức về bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản trong cộng đồng; phục hồi, tái tạo và phát triển nguồn lợi thuỷ sản; bảo vệ, bảo tồn tính đa dạng thuỷ sinh vật; quản lý khai thác thuỷ sản vùng ven bờ; xây dựng cơ sở dữ liệu nguồn lợi thuỷ sản trong tỉnh,...
- Nhu cầu vốn cho giai đoạn 2006 – 2010 ước khoảng 6.000 triệu đồng. Trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 5.000 triệu đồng.
+ Vốn huy động của dân: 1.000 triệu đồng.
d. Chương trình đảm bảo an toàn cho người và tàu cá hoạt động thuỷ sản (Thực hiện Chỉ thị số 22/2006/CT-TTg ngày 30/6/2006 của Thủ tướng Chính phủ tăng cường công tác bảo đảm an toàn cho hoạt động đánh bắt hải sản trên các vùng biển, đặc biệt là đánh bắt xa bờ).
- Mục tiêu: đảm bảo an toàn cho người và tàu cá hoạt động khai thác thuỷ sản, hạn chế thấp nhất thiệt hại do thiên tai và thảm hoạ gây ra.
- Nhiệm vụ: Nâng cao nhận thức của người hoạt động nghề cá, nhất là ngư dân khai thác trên biển; đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ đi biển cho đội ngũ thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên; nâng cao năng lực, chất lượng quản lý lực lượng khai thác thuỷ sản.
- Nhu cầu vốn: ước khoảng 12.320 triệu đồng, trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 4.320 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tín dụng: 3.000 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tự có: 5.000 triệu đồng.
e. Chương trình phát triển thuỷ sản phục vụ Khu kinh tế Dung Quất (giai đoạn 2006 – 2010):
- Mục tiêu: Xây dựng hình thành các cơ sở sản xuất thuỷ sản chất lượng cao cung cấp cho Khu kinh tế Dung Quất.
- Nhiệm vụ: Xây dựng trình, lập dự án đầu tư vùng nuôi trồng thuỷ sản và nhà máy chế biến thuỷ sản, tạo ra cơ sở sản xuất nguyên liệu, chế biến sản phẩm liên hoàn, đảm bảo sản phẩm chất lượng cao phục vụ cho nhu cầu thực phẩm sạch cho đội ngũ chuyên gia, công nhân Khu kinh tế Dung Quất và các Khu công nghiệp trong và ngoài tỉnh.
- Nhu cầu vốn đầu tư, khoảng 75.450 triệu đồng, trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 23.150 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tín dụng: 29.850 triệu đồng.
+ Nguồn vốn tự có: 22.450 triệu đồng.
(Danh mục dự án và kinh phí đã tính chung trong chương trình phát triển của ngành thuỷ sản)
f. Chương trình xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường:
- Mục tiêu: Nâng cao chất lượng sản phẩm, tìm kiếm thị trường tiêu thụ trong nước và xuất khẩu hàng hoá thuỷ sản trong tỉnh.
- Nhiệm vụ: Xây dựng thương hiệu, nhãn hiệu hàng hoá; tham gia hội chợ, triển lãm giới thiệu sản phẩm; xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường,...
- Nhu cầu vốn: ước khoảng 4.200 triệu đồng. Trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 1.600 triệu đồng
+ Vốn tín dụng: 300 triệu đồng.
+ Vốn tự có: 2.300 triệu đồng.
g. Chương trình đào tạo phát triển nguồn nhân lực và cán bộ ngành thuỷ sản:
- Mục tiêu: Bồi dưỡng, đào tạo cán bộ, công chức, viên chức đáp ứng yêu cầu quản lý của ngành thuỷ sản từ tỉnh đến cơ sở; phát triển nguồn nhân lực, lao động kỹ thuật cho các lĩnh vực sản xuất khai thác, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản.
- Nhiệm vụ: đào tạo CB-CC đại học, sau đại học; tham gia các khoá học về chuyên môn quản lý, khoa học kỹ thuật, ngoại ngữ,...; đào tạo công nhân kỹ thuật chuyên ngành.
- Nhu cầu vốn: 5.270 triệu đồng. Trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 2.590 triệu đồng
+ Vốn tự có: 2.680 triệu đồng.
h. Kế hoạch bảo vệ môi trường trong sản xuất thuỷ sản:
- Mục tiêu: Đảm bảo phát triển sản xuất đồng thời bảo vệ tốt môi trường sinh thái.
- Nhiệm vụ: thực hiện các dự án xử lý chất thải trong nuôi trồng thuỷ sản, trong các nhà máy chế biến thuỷ sản, trong việc bảo tồn nguồn nước ngọt ngầm ven biển,...
- Nhu cầu vốn: 21.500 triệu đồng, trong đó:
+ Nguồn vốn ngân sách: 21.000 triệu đồng
+ Vốn tự có: 0 triệu đồng.
i. Kế hoạch ứng dụng khoa học – công nghệ thuỷ sản:
- Mục tiêu: Ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ trong các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng (nuôi trồng và sản xuất giống), bảo quản, chế biến sản phẩm và xử lý môi trường và dịch bệnh.
- Nhiệm vụ: Thực hiện 10 đề tài khoa học – công nghệ chủ yếu.
- Nhu cầu vốn đầu tư: 3.900 triệu đồng. Trong đó:
+ Nguồn kinh phí khoa học: 2.400 triệu đồng (61,5%) từ ngân sách nhà nước.
+ Nguồn khác: 1.500 triệu đồng (38,5%), đóng góp của tổ chức, cá nhân.
(Xem phụ lục chi tiết: Bảng 3 - Mục E: Các Chương trình, kế hoạch thuỷ sản chuyên đề)
IV. Tổng hợp nhu cầu vốn đầu tư phát triển thuỷ sản giai đoạn 2006 - 2010
1. Tổng hợp vốn đầu tư
Để thực hiện Chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản giai đoạn 2006 - 2010, ước tính tổng nhu cầu vốn đầu tư khoảng 686.785 triệu đồng, trong đó:
- Vốn ngân sách và vốn ODA: 271.681 triệu đồng (40 %)
(trong đó, vốn ODA: 59.260 triệu đồng)
- Vốn tín dụng: 246.450 triệu đồng (36 %)
- Vốn khác: 168.654 triệu đồng (24 %)
TỔNG HỢP NHU CẦU VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỶ SẢN GIAI ĐOẠN (2006 – 2010)
ĐVT: triệu đồng
Lĩnh vực đầu tư | Tổng vốn đầu tư | Vốn ngân sách + ODA | Vốn tín dụng | Vốn khác |
Khai thác thuỷ sản | 174.500 | 1.500 | 112.000 | 61.000 |
Nuôi trồng thuỷ sản | 210.197 | 48.700 | 91.900 | 69.597 |
Chế biến thuỷ sản | 46.000 | 4.000 | 28.000 | 14.000 |
Cơ sở hạ tầng &DV nghề cá | 186.152 | 167.725 | 8.500 | 9.927 |
CT - KH khác | 69.936 | 49.756 | 6.050 | 14.130 |
Tổng cộng | 686.785 | 271.681 | 246.450 | 168.654 |
2. Nguồn vốn
- Vốn ngân sách Trung ương và địa phương: 271,681 tỷ đồng (40%) (kể cả vốn ODA là 59,260 tỷ đồng) chủ yếu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng: cảng bến, vũng neo đậu tàu thuyền, hạ tầng phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, xử lý môi trường, chương trình khoa học – công nghệ, bồi dưỡng nhân lực và xúc tiến thương mại và tìm kiếm thị trường.
- Vốn vay tín dụng: 246,450 tỷ đồng (36%) là vốn các doanh nghiệp vay của các tổ chức tín dụng, ngân hàng để đầu tư các dự án sản xuất, kinh doanh dịch vụ thuỷ sản.
- Vốn khác, vốn huy động, tự có: 168,654 tỷ đồng (24%) của nhà đầu tư, chủ doanh nghiệp trực tiếp đầu tư xây dựng cơ sở sản xuất, kinh doanh và dịch vụ,...
3. Phân kỳ vốn đầu tư
Trong giai đoạn 5 năm 2006 - 2010, vốn đầu tư được phân kỳ như sau:
TỔNG HỢP PHÂN KỲ VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN THUỶ SẢN (2006 – 2010)
ĐVT: triệu đồng
Nguồn vốn | Tổng số | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | Năm 2009 | Năm 2010 |
Ngân sách+ODA | 271.681 | 38.681 | 50.000 | 60.000 | 65.000 | 58.000 |
Vốn vay TD | 246.450 | 24.450 | 45.000 | 55.000 | 62.000 | 60.000 |
Vốn khác | 168.654 | 14.654 | 25.000 | 35.000 | 42.000 | 52.000 |
Cộng | 686.785 | 77.785 | 120.000 | 150.000 | 169.000 | 170.000 |
V. Định hướng phát triển ngành thuỷ sản tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2015
Sau giai đoạn 2006 - 2010, kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi có bước phát triển với mức độ khá cao, các dự án, công trình lớn của tỉnh đã cơ bản hoàn thành và đi vào hoạt động, sản xuất kinh doanh của ngành thuỷ sản bước đầu đi vào ổn định, có điều kiện thúc đẩy ngành thuỷ sản phát triển toàn diện, sâu rộng hơn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai đoạn đến năm 2015.
Định hướng đến năm 2015, giá trị sản xuất toàn ngành tăng lên gấp 2 lần so với năm 2005, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2010, đạt giá trị 1.337 tỷ đồng (giá CĐ 1994). Cơ cấu giá trị sản xuất trong ngành có sự chuyến biến tích cực, theo hướng giảm tỷ trọng khai thác, tăng tỷ trọng nuôi trồng: khai thác 50,78% - nuôi trồng 49,22%, giá trị sản xuất toàn ngành thuỷ sản chiếm tỷ trọng đáng kể trong ngành nông – lâm - thuỷ sản nói riêng và trong nền kinh tế của tỉnh nói chung.
Trong lĩnh vực khai thác, trên quan điểm bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, đến năm 2015, duy trì ổn định số lượng tàu thuyền ở khoảng 4.300 chiếc, công suất tàu thuyền từ 305.000 CV (năm 2010) tăng lên là 330.000 CV, bình quân công suất 70,93 CV/chiếc (năm 2010) tăng lên 76,74CV/chiếc. Đặc biệt cơ cấu nghề nghiệp đánh bắt có sự chuyển dịch lớn theo hướng tăng năng lực đánh bắt xa bờ, hiện đại hoá trang thiết bị đánh bắt và bảo quản sản phẩm đảm bảo khai thác dài ngày, chất lượng bảo quản cao. Sản lượng khai thác giữ ổn định khoảng 90.000 tấn, trong đó khai thác trong tỉnh là 27.000 tấn, tỷ trọng sản lượng đưa vào chế biến tăng lên, chiếm khoảng 40% (hiện nay là 25%).
Trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản, chủ yếu nuôi thâm canh và công nghiệp, sản phẩm nuôi đạt chất lượng cao chủ yếu phục vụ cho ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu và tiêu dùng nội địa; mặt khác góp phần tạo nguồn nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến thức ăn gia súc trên địa bàn tỉnh.
Tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản là 4.400 ha với tổng sản lượng là 15.200 tấn. Trong đó: diện tích nuôi nước lợ (nuôi tôm) khoảng 1.300 ha, sản lượng đạt 12.000 tấn; diện tích nuôi cá nước ngọt khoảng 3.000 ha, chủ yếu là nuôi trên hồ chứa nước thuỷ lợi, sản lượng khoảng 3.000 tấn; diện tích nuôi nước mặn khoảng 100 ha, sản lượng 200 tấn.
Trong lĩnh vực chế biến xuất khẩu, tiếp tục tập trung đẩy mạnh chế biến sản phẩm thuỷ sản có giá trị gia tăng. Tổng sản lượng chế biến đạt 9.000 tấn, giá trị xuất khẩu đạt 25 triệu USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt 15 triệu USD.
Trong lĩnh vực xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, phấn đấu xây dựng hoàn chỉnh hệ thống hạ tầng dịch vụ hậu cần nghề cá tại các cửa biển. Hình thành khu công nghiệp nghề cá tổng hợp (bao gồm chế biến thuỷ sản và dịch vụ hậu cần nghề cá), dự kiến nằm trên trục giao thông ven biển Dung Quất – Sa Huỳnh.
Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy và cán bộ ngành thuỷ sản từ tỉnh đến cơ sở đáp ứng yêu cầu quản lý ngành ngày càng chất lượng và hiệu quả; đào tạo phát triển nguồn nhân lực đáp ứng số lượng và chất lượng cho nhu cầu phát triển ngành thuỷ sản giai đoạn này và các giai đoạn tiếp theo.
GIẢI PHÁP VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Công tác tuyên truyền
Tăng cường công tác tuyên truyền, quán triệt chủ trương, chính sách, pháp luật về thuỷ sản, vai trò và nhiệm vụ phát triển kinh tế thuỷ sản trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh đối với cán bộ và nhân dân trong tỉnh, nhất là những địa phương trọng điểm nghề cá. Chú trọng quán triệt, nâng cao nhận thức trong cả hệ thống chính trị về nhiệm vụ phát triển kinh tế thuỷ sản tỉnh ta, nhất là đối với đội ngũ lãnh đạo các cấp, các ngành từ tỉnh tới địa phương và cơ sở, thông qua quá trình xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế thuỷ sản trên địa bàn tỉnh.
2. Về quy hoạch
Tiến hành điều tra khảo sát, đánh giá toàn diện các lĩnh vực hoạt động thủy sản, xây dựng và trình duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản giai đoạn 2006-2010, hướng đến năm 2015.
Tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh, bổ sung Qui hoạch tổng thể phát triển nuôi trồng thủy sản đến năm 2010 trên cơ sở phân tích khoa học, thực tế những năm qua và nhu cầu trong giai đoạn tới để có quy hoạch sát đúng nhằm phát triển NTTS một cách bền vững.
Các huyện tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế thuỷ sản của địa phương, gắn với quy hoạch phát triển thuỷ sản của tỉnh, trong đó tập trung quy hoạch chi tiết, phân vùng nuôi trồng thuỷ sản ở địa phương.
Tiến hành quy hoạch, bố trí, khuyến khích chuyển đổi ngành nghề, cơ cấu tàu thuyền - nghề nghiệp khai thác thuỷ sản cho phù hợp với mùa vụ, đối tượng, ngư trường đánh bắt trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh nhằm góp phần bảo vệ môi trường sinh thái và nguồn lợi thuỷ sản.
3. Về cơ chế chính sách
Xây dựng cụ thể hoá các chủ trương, chính sách lớn của Chính phủ phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh riêng của tỉnh, trong đó đặc biệt chú trọng xây dựng chính sách khuyến khích phát triển chế biến thuỷ sản xuất khẩu gắn với đầu tư phát triển vùng nguyên liệu phục vụ cho công nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu, góp phần tăng nhanh giá trị hàng hoá xuất khẩu của tỉnh.
4. Về công tác tổ chức, cán bộ và phát triển nguồn nhân lực
Tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức, bộ máy ngành thủy sản vừa đáp ứng được yêu cầu tham mưu tổng hợp, vừa đáp ứng được yêu cầu tổ chức triển khai thực hiện tốt chức năng chuyên sâu trong lĩnh vực thủy sản.
Từng bước hoàn thiện tổ chức và biên chế cán bộ quản lý có hiểu biết chuyên môn thủy sản ở cấp huyện, xã. Cán bộ chuyên trách thuỷ sản cấp huyện vùng biển trọng điểm nghề cá phải có từ 2 - 3 người, cấp xã trọng điểm nghề cá phải có từ 1 – 2 người.
Chú trọng công tác cải cách hành chính để tăng cường năng lực quản lý ngành thủy sản; đẩy mạnh việc thực hiện kỷ luật, kỷ cương hành chính, quy chế dân chủ trong cơ quan.
Phối hợp với các Viện, Trường trong và ngoài tỉnh trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ thuyền trưởng, máy trưởng, công nhân kỹ thuật chuyên ngành thuỷ sản để đảm bảo số lượng, chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực ngày càng cao của ngành thủy sản trong giai đoạn tới.
Tiếp tục vận động thành lập các HTX nghề cá, HTX dịch vụ Nuôi trồng thuỷ sản, hiệp hội chế biến thuỷ sản, củng cố và mở rộng tổ chức Hội Nghề cá ở các địa phương và cơ sở nhằm phát huy sức mạnh của cộng đồng trong việc phát triển kinh tế thuỷ sản.
5. Về công tác quản lý Nhà nước ngành thuỷ sản
- Công tác lãnh đạo, chỉ đạo:
Tăng cường sự chỉ đạo, điều hành của UBND tỉnh nhằm tạo ra sự phối kết hợp đồng bộ cũng như việc đề cao trách nhiệm của các ngành và địa phương trong quá trình thực hiện chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản trên địa bàn tỉnh.
- Công tác quản lý tàu cá và bảo vệ nguồn lợi:
+ Thực hiện tốt công tác quản lý lực lượng tàu thuyền thông qua công tác đăng ký, đăng kiểm, hướng dẫn thực hiện đầy đủ các quy định nhất là trang thiết bị cứu sinh, phương tiện thông tin liên lạc nhằm đảm bảo an toàn cho người và phương tiện trong quá trình sản xuất trên biển.
+ Tăng cường công tác bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản, hạn chế và tiến tới loại bỏ hoàn toàn việc khai thác thủy sản bằng thuốc nổ, xung điện, hoá chất bị cấm,...
+ Nghiên cứu điều tra xác định các bãi cá đẻ và có biện pháp hạn chế hoặc cấm khai thác để bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
- Công tác quản lý chất lượng, VSAT thực phẩm và thú y thủy sản:
+ Tăng cường thực hiện công tác kiểm tra, giám sát tại các vùng nuôi về dư lượng kháng sinh, tình hình dịch bệnh, môi trường, kiểm dịch thú y thuỷ sản; kiểm tra điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
+ Thực hiện kiểm tra điều kiện kinh doanh các cơ sở kinh doanh thức ăn và thuốc thú y thủy sản, tăng cường công tác quản lý chất lượng hàng hoá theo phân cấp quy định.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác khuyến ngư trên cơ sở xây dựng và thực hiện Chương trình khuyến ngư được duyệt.
6. Về vốn đầu tư và kêu gọi vốn đầu tư
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể của ngành, tiến hành lập các dự án kêu gọi các thành phần kinh tế trong nước và tổ chức kinh tế nước ngoài đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế thuỷ sản của tỉnh.
Tranh thủ vốn ngân sách Trung ương và địa phương, vốn vay ODA để tập trung đầu tư cho công tác qui hoạch, xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật quan trọng đối với nghề cá như các công trình cảng bến, khu neo đậu tàu thuyền, thông luồng, công trình thuỷ lợi phục vụ nuôi trồng thuỷ sản, công trình bảo vệ môi trường sinh thái, công tác nghiên cứu khoa học – công nghệ; hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng ngoài tường rào nhà máy chế biến thuỷ sản.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng, chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đặc biệt là chế biến sản phẩm thuỷ sản có giá trị gia tăng, sản phẩm thuỷ sản ăn liền phục vụ xuất khẩu và nhu cầu của các Khu Kinh tế, Khu Công nghiệp lớn trong và ngoài tỉnh.
7. Về công tác khoa học - công nghệ và môi trường
Chú trọng nghiên cứu ứng dụng các công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ sinh học, các tiến bộ kỹ thuật trong khai thác, nuôi trồng, chế biến, cơ khí tàu thuyền nhằm tăng năng suất, chất lượng, giảm dần mức hao phí nguyên liệu trong khâu sản xuất, thu mua và bảo quản sản phẩm thu hoạch đưa vào chế biến nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Ứng dụng tiến bộ khoa học & công nghệ trong việc phát triển và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản, bảo vệ môi trường sinh thái (xử lý chất thải, bảo vệ nguồn nước ngọt ngầm, bảo vệ rừng phòng hộ ven biển, bảo tồn sinh vật thuỷ sản,...) vùng ven biển - đảo trong tỉnh.
8. Công tác xúc tiến thị trường và hợp tác quốc tế
Tăng cường công tác kiểm soát nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng; tiến hành quảng bá, giới thiệu sản phẩm tiêu thụ tại thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế nhằm tiếp thu chuyển giao khoa học và công nghệ, tìm kiếm thị trường, quảng bá sản phẩm, kêu gọi đầu tư nước ngoài, tập huấn đào tạo,... để tăng năng lực phát triển toàn diện kinh tế thuỷ sản.
II. Tổ chức và phân công thực hiện
1. UBND tỉnh
Là cơ quan quản lý chương trình phát triển toàn diện kinh tế thuỷ sản. Có trách nhiệm chỉ đạo các Sở, ngành, địa phương tổ chức thực hiện những nhiệm vụ có liên quan; ban hành cơ chế chính sách có liên quan để thực hiện Chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản trên địa bàn toàn tỉnh.
2. Sở Thủy sản
Chủ trì tham mưu cho UBND tỉnh chỉ đạo thực hiện Chương trình; hướng dẫn UBND các địa phương thực hiện Chương trình phát triển toàn diện ngành thuỷ sản trên địa bàn.
Xây dựng, trình phê duyệt và tổ chức thực hiện các dự án, kế hoạch được UBND tỉnh giao làm chủ đầu tư.
3. Các Sở, ngành cấp tỉnh, Ban Quản lý Khu kinh tế Dung Quất, các khu Công nghiệp tỉnh có trách nhiệm phối hợp với Sở Thuỷ sản tham mưu, đề xuất và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến Chương trình này.
4. UBND các huyện, thành phố có trách nhiệm xây dựng, cụ thể hoá Chương trình phù hợp với tình hình thực tế ở địa phương để tổ chức thực hiện trên địa bàn quản lý.
5. Các cơ quan thông tin đại chúng của tỉnh có trách nhiệm tuyên truyền, giới thiệu rộng rãi Chương trình này để các tổ chức kinh tế, các đối tượng nhân dân liên quan biết, tham gia thực hiện.
6. Các tổ chức Mặt trận, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp tích cực phối hợp với các cấp uỷ, chính quyền cùng tham gia tuyên truyền, động viên các tầng lớp nhân dân lao động, nhất là ở những địa phương trọng điểm nghề cá tích cực tham gia đầu tư phát triển kinh tế thuỷ sản, góp phần xoá đói giảm nghèo, tiến tới làm giàu cho một bộ phận nhân dân trong tỉnh./.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
|
- 1Quyết định 2305/QĐ-UBND năm 2013 phê duyệt Đề cương và dự toán kinh phí điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành thủy sản tỉnh Quảng Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
- 2Chỉ thị 05/CT-UBND năm 2014 đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 12-NQ/TU về phát triển ngành thủy sản tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đến năm 2015
- 3Quyết định 300/QĐ-UBND năm 2019 công bố kết quả hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi trong kỳ hệ thống hóa 2014-2018
- 1Quyết định 126/2005/QĐ-TTg về một số chính sách khuyến khích phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản trên biển và hải đảo do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 2Quyết định 04/2005/QĐ-TTg phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Chỉ thị 22/2006/CT-TTg về việc tăng cường công tác bảo đảm an toàn cho hoạt động đánh bắt hải sản trên các vùng biển, đặc biệt là đánh bắt xa bờ do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 4Quyết định 242/2006/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 5Quyết định 224/1999/QĐ-TTg phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 1999-2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 6Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban Nhân dân 2003
- 7Quyết định 112/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phát triển giống thuỷ sản đến năm 2010 do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 8Quyết định 131/2004/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thuỷ sản do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 9Nghị định 56/2005/NĐ-CP về khuyến nông, khuyến ngư
- 10Nghị quyết 08/2007/NQ-HĐND thông qua Chương trình phát triển ngành Thủy sản giai đoạn 2006-2010 do tỉnh Quảng Ngãi ban hành
- 11Quyết định 2305/QĐ-UBND năm 2013 phê duyệt Đề cương và dự toán kinh phí điều chỉnh Quy hoạch phát triển ngành thủy sản tỉnh Quảng Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030
- 12Chỉ thị 05/CT-UBND năm 2014 đẩy nhanh tiến độ thực hiện chương trình hành động thực hiện Nghị quyết 12-NQ/TU về phát triển ngành thủy sản tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu đến năm 2015
Quyết định 32/2007/QĐ-UBND phê duyệt Chương trình phát triển toàn diện ngành Thủy sản giai đoạn 2006-2010, định hướng đến năm 2015 do tỉnh Quảng Ngãi ban hành
- Số hiệu: 32/2007/QĐ-UBND
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 22/10/2007
- Nơi ban hành: Tỉnh Quảng Ngãi
- Người ký: Nguyễn Xuân Huế
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 01/11/2007
- Ngày hết hiệu lực: 01/01/2016
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực