BỘ LÂM NGHIỆP | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1171-QĐ | Hà Nội, ngày 30 tháng 12 năm 1986 |
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ nghị định số 35-CP ngày 9-2-1981 của Hội đồng Chính phủ quy định nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ trưởng và chức năng của Bộ trong một số lĩnh vực quản lý Nhà nước;
Xét yêu cầu cấp bách của công tác quản lý, sử dụng 3 loại rừng là rừng sản xuất, rừng phòng hộ, rừng đặc dụng;
Theo đề nghị của Cục trưởng Cục Kiểm lâm nhân dân,
- Quy chế quản lý, kinh doanh rừng sản xuất;
- Quy chế quản lý rừng phòng hộ;
- Quy chế quản lý rừng đặc dụng.
Những quy định trước đây trái với 3 Quy chế này đều bãi bỏ.
| Phan Xuân Đợt (Đã ký) |
QUẢN LÝ, KINH DOANH RỪNG SẢN XUẤT
Bản quy chế này được ban hành nhằm mục đích đưa công tác quản lý kinh doanh rừng sản xuất vào nền nếp, đạt hiệu quả cao, chấm dứt tình trạng kinh doanh rừng một cách tuỳ tiện, lãng phí.
- Rừng sản xuất gỗ lớn;
- Rừng sản xuất gỗ nhỏ;
- Rừng sản xuất tre, nứa;
- Rừng sản xuất đặc sản.
- Đối với rừng giàu, rừng trung bình, khi khai thác lâm sản phải theo đúng quy hoạch, kế hoạch, phương án điều chế, thiết kế sản xuất, quy trình kỹ thuật và chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước giao hàng năm.
- Đối với rừng nghèo, kiệt, phải nhanh chóng tu bổ, cải tạo để làm giàu rừng; những nơi đất trống, đồi núi trọc phải trồng rừng kịp thời theo đúng quy hoạch và bảo đảm mục đích kinh tế.
MỤC 1. VỀ XÂY DỰNG CƠ CHẾ QUẢN LÝ RỪNG
a) Phân loại rừng:
Phải xác định trên bản đồ, trên thực địa, làm rõ vị trí, giới hạn, diện tích của rừng và đất rừng sản xuất, phân biệt với rừng đặc dụng, rừng phòng hộ và các đất đai khác, để thuận tiện cho việc tổ chức xây dựng, quản lý và kinh doanh rừng.
b) Về tổ chức rừng:
Rừng sản xuất phải được quy hoạch xác định mục đích và phương hướng sử dụng, kinh doanh để làm căn cứ lập kế hoạch, tổ chức sản xuất và kiểm tra việc sử dụng rừng.
1. Đối với khu vực rừng do ngành Lâm nghiệp tổ chức kinh doanh, toàn bộ rừng và đất rừng sản xuất phải được phân chia thành các đơn vị để thống nhất việc quản lý và kinh doanh:
- Lâm trường là đơn vị kinh tế cơ sở của ngành Lâm nghiệp, có nhiệm vụ quản lý và kinh doanh rừng, cần được bố trí gọn trong địa bàn một huyện, với diện tích trung bình 20.000 hécta.
- Phân trường bao gồm nhiều tiểu khu rừng, là cấp quản lý rừng, quản lý kế hoạch sản xuất của lâm trường có diện tích từ 4.000 - 5000 hécta.
- Tiểu khu rừng là đơn vị cơ bản để quản lý rừng có diện tích trung bình 1.000 hécta.
- Khoảnh là đơn vị thống kê tài nguyên rừng và lập hồ sơ thiết kế sản xuất hàng năm, có diện tích trung bình 100 hécta.
- Lô là đơn vị chia nhỏ của khoảnh có diện tích trung bình 10 hécta.
2. Đối với khu vực rừng giao cho các hợp tác xã, các cơ quan, đơn vị khác kinh doanh, tuỳ theo điều kiện địa lý, đất đai, loại rừng, luân kỳ kinh doanh, trình độ quản lý mà phân chia thành các đơn vị quản lý như tiểu khu, phân trường hoặc có thể là lâm trường. Đối với diện tích giao mới thì giao theo đơn vị tổ chức rừng.
c) Về tổ chức quản lý:
Căn cứ vào tổ chức rừng để bố trí lực lượng chuyên trách quản lý rừng:
- Ở lâm trường:Giám đốc lâm trường là người chịu trách nhiệm cao nhất về công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ rừng ở lâm trường. Giám đốc uỷ nhiệm một Phó giám đốc chuyên trách công tác xây dựng, quản lý, bảo vệ rừng và tổ chức phòng quản lý, bảo vệ rừng để làm tham mưu giúp Giám đốc về công tác này.
- Ở phân trường: Bố trí Quản đốc phân trường có trình độ kỹ sư hoặc trung cấp lâm nghiệp lâu năm và cán bộ chuyên trách xây dựng, quản lý, bảo vệ rừng.
- Ở tiểu khu rừng: Bố trí tiểu khu trưởng có trình độ trung cấp lâm nghiệp hoặc cán bộ quản lý, bảo vệ rừng lâu năm có kinh nghiệm trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý bảo vệ rừng ở tiểu khu.
Biên chế của lực lượng chuyên trách quản lý, bảo vệ rừng nói trên thuộc biên chế lâm trường. Chi phí về tiền lương của số cán bộ, nhân viên này, được tính vào giá thành sản phẩm do cơ quan chủ quản duyệt cấp.
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật,
- Phương án điều chế,
- Hồ sơ thiết kế sản xuất,
- Quy trình, quy phạm và các quy định khác về kinh doanh rừng.
Bước 1. Chuẩn bị rừng và giao rừng cho khai thác.
Căn cứ vào phương án quy hoạch, phương án điều chế, các lâm trường xúc tiến việc thiết kế khai thác hàng năm cho đơn vị mình. Thiết kế khai thác hàng năm phải được xét duyệt từ cơ sở theo trình tự như sau:
- Ở các lâm trường địa phương, giám đốc lâm trường chủ trì việc xét duyệt, có trưởng phòng quản lý, bảo vệ rừng, các trưởng phòng nghiệp vụ, kỹ thuật khác của lâm trường, hạt trượng lâm nghiệp - kiểm lâm nhân dân huyện sở tại tham gia xét duyệt; sau đó, Giám đốc lâm trường báo cáo lên Giám đốc Sở Lâm nghiệp phê duyệt.
- Ở các Sở Lâm nghiệp, lâm trường, Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp và các đơn vị khác trực thuộc Trung ương, thủ trửong các đơn vị đó chủ trì việc xét duyệt; có trưởng phòng quản lý, bảo vệ rừng (ở Sở Lâm nghiệp là Chi cục trưởng kiểm lâm nhân dân) và các trưởng phòng nghiệp vụ, kỹ thuật khác của đơn vị tham gia xét duyệt; sau đó, thủ trưởng đơn vị tổng hợp báo cáo lên Bộ Lâm nghiệp phê chuẩn chính thức.
Khi thiết kế khai thác được Bộ Lâm nghiệp phê duyệt cùng với quyết định của Bộ cho phép mở cửa rừng để khai thác, Giám đốc lâm trường phải tiến hành bàn giao khu vực rừng khai thác cho đơn vị khai thác tại thực địa với tài liệu thiết kế khai thác kèm theo biên bản giao rừng để đơn vị khai thác chuẩn bị thi công.
Bước 2. Chặt hạ và dọn rừng sau khai thác.
Phải chặt đúng cây có dấu bài; gỗ chặt hạ đến đâu phải vận xuất ngay đến đó. Thời gian cho phép tối đa để vận xuất hết gỗ ra khổi lô không quá 20 ngày kể từ khi chặt hạ, cắt khúc cây cuối cùng. Nếu khả năng vận xuất không cân đối với chặt hạ thì cấm không được khai thác các lô tiếp theo nữa.
Chặt xong lô nào phải dọn rừng ngay lô đó. Thời gian hoàn thành dọn rừng tối đa là 1 tháng kể từ khi vận xuất hết gỗ ra khỏi rừng và không quá 1 tháng 15 ngày kể từ khi chặt hạ xong cây cuối cùng trong lô.
Bước 3. Nghiệm thu rừng sau khai thác.
Thời hạn khai thác quy định từ khi giao nhận đến khi nghiệm thu rừng xong là 1 năm tính từ ngày 1 tháng 1 đến hết ngày 31 tháng 12. Trường hợp cá biệt có thể cho phép kết thúc không quá ngày 15 tháng 1 năm sau.
Sau khi khai thác xong, đơn vị khai thác phải báo cáo với Giám đốc lâm trường. Tiếp đó Quản đốc phân trường, Tiểu khu trưởng, Đội trưởng đội khai thác cùng kiểm tra tại hiện trường tình hình thực hiện quy trình kỹ thuật đồng thời xử lý các sai sót, lập biên bản thu hồi rừng và đóng cửa rừng.
- Từ 250 đến 300, sản lượng lấy ra không quá 25% trữ lượng rừng.
- Trên 300 sản lượng lấy ra không vượt quá 15% trữ lượng rừng.
Rừng trồng đưa vào khai thác phải căn cứ vào tuổi thành thục công nghệ, nhưng đối với rừng hỗn loại tự nhiên bảo đảm được luân kỳ nuôi dưỡng.
Những diện tích rừng trồng sau khi đã hết giai đoạn chăm sóc ban đầu phải được nghiệm thu, đánh giá số lượng, chất lượng rừng.
Các diện tích rừng tự nhiên, rừng trồng bị chết, bị cháy, bị chặt phá nghiêm trọng... phải được Hội đồng thanh lý xác định cụ thể để xử lý trách nhiệm và điều chỉnh lại số liệu.
Hội đồng thanh lý do cơ quan chủ quản cấp trên triệu tập và chủ trì, có đại diện cơ quan tài chính, ngân hàng, hạt lâm nghiệp kiểm lâm nhân dân sở tại và cơ quan, đơn vị kinh doanh các diện tích rừng ấy tham dự.
Những diện tích rừng và đất lâm nghiệp chưa giao cho đơn vị nào sử dụng, kinh doanh thì Ban lâm nghiệp xã sở tại có trách nhiệm đăng ký với hạt lâm nghiệp kiểm lâm nhân dân huyện.
Đối với rừng của hợp tác xã đến thời kỳ khai thác cũng phải được hạt lâm nghiệp - kiểm lâm nhân dân sở tại hướng dẫn, kiểm tra và phải tuân theo quy trình kỹ thuật khai thác.
TRÁCH NHIỆM, QUYỀN HẠN CỦA CÁC CƠ QUAN,
Tổng Giám đốc các Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp, Giám đốc lâm trường quốc doanh khi chuẩn bị thay đổi công tác phải tổ chức đánh giá lại tài nguyên rừng để xác định hiệu quả quản lý, kinh doanh rừng của nhiệm kỳ ấy và bàn giao coi như bàn giao tài sản cố định; nếu có sự hao hụt người Giám đốc cũ phải báo cáo rõ và chịu trách nhiệm.
Giám đốc Sở Lâm nghiệp, Chi cục trưởng chi cục kiểm lâm nhân dân có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra và chứng kiến việc đánh giá tài nguyên và xác định hiệu qủa quản lý, kinh doanh rừng trong nhiệm kỳ của Tổng giám đốc Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp, Giám đốc lâm trường.
- Phải có biện pháp thực hiện để ngăn chặn mọi hành động làm cháy rừng, phá rừng làm rẫy, chặt phá rừng bừa bãi, sâu bệnh phá hại rừng, lấn chiếm rừng trái phép, săn băn chim thú rừng bừa bãi;
- Không được để diện tích rừng hao hụt, đất rừng thoái hoá mà phải làm cho tài nguyên rừng ngày càng phát triển;
- Phải giao nộp đầy đủ sản phẩm cho Nhà nước theo quy định;
- Phải có biện pháp tham gia xây dựng kinh tế địa phương như thu hút lao động làm lâm nghiệp, vận động định canh, định cư... góp phần đưa kinh tế địa phương phát triển.
Khi cần thu hồi lại rừng và đất lâm nghiệp đã giao Nhà nước xem xét đền bồi thiệt hại về những công trình xây dựng trên đất ấy hoặc có thể đổi cho một diện tích khác để sử dụng.
Trường hợp bị kẻ khác lấn chiếm đất đai hoặc chặt phá cây cối sẽ được xử lý theo luật pháp hiện hành.
KIỂM TRA, THANH TRA VIỆC CHẤP HÀNH CÁC
Cơ quan chuyên trách quản lý bảo vệ rừng (Cục kiểm lâm nhân dân, Chi cục kiểm lâm nhân dân, hạt lâm nghiệp kiểm lâm nhân dân) có trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc thực hiện nguyên tắc, thủ tục và trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị trong và ngoài ngành Lâm nghiệp về việc sử dụng, kinh doanh rừng sản xuất.
Quản đốc phân trường, Tiểu khu trưởng giúp Tổng giám đốc Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp và Giám đốc lâm trường thực hiện việc giám sát, kiểm tra thường xuyên tất cả các hoạt động sản xuất của lâm trường như khai thác, tu bổ, cải tạo, chăm sóc, tỉa thưa, trồng rừng tại địa bàn phân trường, tiểu khu theo đúng thiết kế sản xuất được duyệt, để ngăn ngừa sai sót và xử lý hoặc đề nghị cấp trên xử lý những vi phạm xảy ra.
Điều 22. Việc thanh tra, kiểm tra nhằm mục đích phát hiện, ngăn ngừa và xử lý các hiện tượng.
- Các bản thiết kế sản xuất đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, nhưng đơn vị thực hiện làm trái với thiết kế. Trách nhiệm này thuộc về đơn vị trực tiếp thi công. Do đó Tiểu khu trưởng, Quản đốc phân trường hoặc cơ quan quản lý rừng cấp trên lập biên bản yêu cầu sửa chữa và không chấp nhận nghiệm thu.
Những quy định về nguyên tắc, thủ tục kinh doanh rừng nói ở chương II, chương III không được chấp hành đầy đủ để rừng bị tàn phá, trách nhiệm này thuộc về Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị kinh doanh rừng. Trường hợp này cơ quan chuyên trách quản lý bảo vệ rừng các cấp lập biên bản, có quyền ra quyết định đình chỉ việc kinh doanh rừng ở khu vực ấy; đồng thời xem xét trách nhiệm và hiệu quả kinh doanh rừng của thủ trưởng đơn vị ấy để xử lý hoặc đề nghị lên cấp trên xử lý theo luật pháp.
QUẢN LÝ, SỬ DỤNG RỪNG PHÒNG HỘ
Các khu rừng phòng hộ có nhiều mục đích phòng hộ nhưng để tiện cho việc quản lý, bảo vệ , xây dựng, cần chia các khu rừng phòng hộ có mục đích khác nhau nhưng cùng dạng địa hình, cùng biện pháp tác động, tổ chức quản lý thành 3 loại như sau: phòng hộ đầu nguồn, phòng hộ chắn gió chống cát bay, phòng hộ chắn sóng.
Khu rừng phòng hộ cần được xây dựng ổn định lâu dài; việc chuyển dịch khu rừng phòng hộ sang mục đích khác phải được cấp đã quyết định thành lập khu đó ra quyết định.
TỔ CHỨC XÂY DỰNG VÀ QUẢN LÝ BẢO VỆ KHU RỪNG PHÒNG HỘ
a) Khu rừng phòng hộ đầu nguồn: điều tiết nguồn nước để hạn chế lũ, lụt; cung cấp nước cho các dòng chảy, hồ trong mùa khô; hạn chế xói mòn bảo vệ đất; hạn chế bồi lấp các lòng sông, hồ.
b) Khu rừng phòng hộ chắn gió chống cát bay; ngăn cản tác hại do gió, bão, chắn cát di động để bảo vệ xóm làng, đồng ruộng, đường giao thông, v. v... cải tạo bãi cát thành đất canh tác.
c) Khu rừng phòng hộ chắn sóng: ngăn cản sóng để bảo vệ các công trình ven biển, cố định bùn cát lắng đọng để hình thành đất mới ...
a) Phòng hộ đầu nguồn, tận dụng hết khả năng lập địa tạo nên rừng hỗn giao, không đều tuổi, nhiều tầng, mật độ dày, bộ rễ sâu và bám chắc, diện tích tán lá lớn, có độ tán che 0,6, có lớp thảm mục dày.
b) Phòng hộ chắn gió chống cát bay có từ hai đai chính trở lên, bề rộng mỗi đai 20m, kết hợp với các đai phụ tạo thành ô khép kín, mỗi đai gồm nhiều hàng cây khác loài hay khác tuổi khép tán theo cả bề mặt cũng như chiều thẳng đứng.
c) Phòng hộ chắn sóng có ít nhất hai đai, mỗi đai rộng 30m, đã khép tán, các đai có cửa sổ so le nhau theo hướng sóng chính.
a) Theo đề nghị của Bộ Lâm nghiệp, Hội đồng Bộ trưởng quyết định khu có diện tích từ 50.000 hécta trở lên hoặc nhỏ hơn nhưng có tầm quan trọng đặc biệt đối với lợi ích quốc gia, nằm trên lãnh thổ của nhiều tỉnh.
b) Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp quyết định khu có diện tích trên 10.000 hécta đến dưới 50.000 hécta và các khu nằm trong Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp, lâm trường trực thuộc Bộ.
c) Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh quyết định khu có diện tích từ 5000 hécta đến 10.000 hécta hoặc khu rừng phòng hộ nằm trên lãnh thổ nhiều huyện (hoặc cấp tương đương).
d) Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân huyện quyết định khu có diện tích nhỏ hơn 5000 hécta nằm trong lãnh thổ huyện.
a) Khu rừng phòng hộ như điểm a, điều 6 thì thành lập Ban quản lý trực thuộc Bộ Lâm nghiệp.
b) Khu rừng phòng hộ như điểm b, c, điều 6 thì thành lập trạm quản lý trực thuộc Sở Lâm nghiệp.
c) Khu rừng phòng hộ nằm trong các liên hiệp, lâm trường, nông trường, công ty, đơn vị vũ trang, v.v... Thủ trưởng các cơ quan này có trách nhiệm tổ chức việc quản lý, bảo vệ, xây dựng theo kế hoạch, luận chứng kinh tế kỹ thuật đã được duyệt.
d) Khu rừng phòng hộ nằm trong phạm vi giao cho xã, hợp tác xã, thì Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân xã chịu trách nhiệm tổ chức quản lý, bảo vệ, xây dựng dưới sự hướng dẫn về nghiệp vụ, kỹ thuật của hạt kiểm lâm nhân dân sở tại.
CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ, XÂY DỰNG LỢI DỤNG LÂM SẢN
a) Bộ Lâm nghiệp duyệt kế hoạch, thiết kế cho các ban quản lý khu rừng phòng hộ, các khu rừng phòng hộ nằm trong các liên hiệp, công ty, lâm trường trực thuộc Bộ và hồ sơ tổng hợp về rừng phòng hộ của Sở lâm nghiệp.
b) Sở Lâm nghiệp duyệt thiết kế, kế hoạch cho các trạm quản lý khu rừng phòng hộ, các liên hiệp, lâm trường, các cơ quan thuộc tỉnh quản lý và hồ sơ tổng hợp về rừng phòng hộ của các hạt kiểm lâm nhân dân.
c) Hạt kiểm lâm nhân dân xác nhận thiết kế, kế hoạch của các khu rừng phòng hộ thuộc các xã, hợp tác xã quản lý và tổng hợp trình Sở duyệt.
a) Những khu rừng phòng hộ đầu nguồn trong quá trình nuôi dưỡng được chặt tỉa những cây ở nơi mật độ quá dày, cây già, cây sâu bệnh, được thu hái hạt giống, đặc sản, ở những nơi trữ lượng giàu có thể được khai thác lâm sản chính với cường độ chặt không quá 20%.
b) Những khu rừng phòng hộ chắn gió chống cát bay, phòng hộ chân sóng khi đã khép tán, được chặt tỉa cành, thu hái lá, hoa , quả, v.v... khi đã phát huy cao độ chức năng phòng hộ, có thể được chặt tỉa hay khai thác theo hàng nhưng phải trồng lại vào vụ trồng rừng ngay sau đó.
c) Lợi dụng lâm sản chính phải có thiết kế, lợi dụng đặc sản phải có kế hoạch; thiết kế và kế hoạch phải được duyệt từ năm trước.
không được Nhà nước quyết định là khu rừng chuyên phòng hộ thì không thuộc đối tượng áp dụng Quy chế này.
QUẢN LÝ RỪNG ĐẶC DỤNG
- Bảo tồn các mẫu sinh cảnh rừng khác nhau;
- Bảo tồn nguồn gen động vật và thực vật rừng;
- Bảo tồn các khu rừng có giá trị về cảnh quan, về văn hoá, về lịch sử, về bảo vệ sức khỏe;
- Nghiên cứu khoa học, giáo dục và đào tạo.
- Khu vực còn rừng nguyên hoặc ít bị tàn phá, đại diện cho các hệ sinh thái rừng khác nhau của nước ta;
- Khu rừng hiện đang là nơi sinh trưởng của các loại động vật, thực vật có giá trị về khoa học hoặc kinh tế;
- Khu rừng có các di tích lịch sử hoặc văn hoá đã được Nhà nước xếp hạng;
- Khu rừng có phong cảnh đặc sắc, có tác dụng bảo vệ môi trường, vui chơi giải trí phục vụ các trung tâm dân cư lớn, nơi nghỉ mát hoặc các vùng công nghiệp.
1. Vườn quốc gia là khu bảo vệ có giá trị sử dụng toàn diện về các mặt bảo vệ thiên nhiên, nghiên cứu khoa học, bảo tồn di tích văn hoá, phục vụ tham quan du lịch. Các vườn quốc gia do Bộ Lâm nghiệp quản lý và xây dựng.
2. Khu rừng bảo tồn thiên nhiên là khu bảo vệ có giá trị khoa học, giữ nguồn gen động vật và thực vật có thể mở cho nghiên cứu khoa học nhưng không mở rộng cho việc phục vụ du lịch hoặc các nhu cầu văn hoá khác. Các khu bảo tồn thiên nhiên tuỳ theo diện tích, tính chất quan trọng do Bộ Lâm nghiệp quản lý, hoặc do Uỷ ban Nhân dân tỉnh chịu trách nhiệm quản lý và xây dựng. Riêng các khu rừng đặc dụng bảo tồn thiên nhiên nằm trong các Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp do ngành Lâm nghiệp chịu trách nhiệm quản lý và xây dựng.
3. Khu rừng văn hoá và bảo vệ môi trường là khu rừng có các di tích lịch sử, văn hoá và các cảnh quan có giá trị thẩm mỹ hoặc bảo vệ môi trường, có tác dụng phục vụ tham quan du lịch, giải trí, nghỉ ngơi. Các khu rừng này do Bộ Lâm nghiệp thống nhất quản lý và tuỳ theo diện tích và tính chất mà có thể giao cho các ngành liên quan quản lý, xây dựng.
NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ XÂY DỰNG RỪNG ĐẶC DỤNG
Mỗi vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, khu văn hoá và bảo vệ môi trường lớn được chia thành các phân khu chức năng, có 3 loại phân khu chức năng:
- Phân khu bảo vệ nghiêm ngặt.
- Phân khu bảo vệ vùng đệm và phục hồi sinh thái.
- Phân khu dịch vụ, hành chính, sản xuất, vui chơi giải trí.
Các khu rừng văn hoá và bảo vệ môi trường có diện tích nhỏ vài trăm hécta không áp dụng cách phân chia như trên và chỉ tổ chức một khu duy nhất do một trạm thống nhất quản lý.
Một vườn quốc gia hoặc khu rừng bảo tồn thiên nhiên có thể có 1 hoặc nhiều phân khu bảo vệ nghiêm ngặt. Giữa các phân khu này hoặc bao quanh chúng, có thể bố trí các phân khu bảo vệ vùng đệm (gọi tắt là phân khu đệm).
Phân khu dịch vụ hành chính phải được bố trí xa các phân khu bảo vệ nghiêm ngặt.
Việc phân chia các phân khu thành các tiểu khu phải căn cứ vào tính chất đồng nhất về sinh thái và mức độ khó, dễ của việc quản lý bảo vệ.
- Tình hình cơ bản, đánh giá các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên văn hoá, lịch sử, khoa học; các tiềm năng khác của khu rừng.
- Những vấn đề về kinh tế, xã hội của vùng có dự kiến khoanh rừng đặc dụng.
- Tình hình sử dụng đất đai hiện tại.
- Mục tiêu thành lập khu rừng đặc dụng xếp loại - tên gọi.
- Phân chia các phân khu chức năng, các tiểu khu, bố trí mạng lưới giao thông, các công trình.
- Bố trí mạng lưới quản lý, bảo vệ.
- Kế hoạch và chương trình về tốc độ - hướng đi - nhu cầu lao động, vật tư, vốn.
- Đề xuất những biện pháp cần thiết về chuyển hướng sản xuất - phối hợp trách nhiệm giữa các ngành và các địa phương.
- Hiệu quả (ước tính hiệu quả các mặt kinh tế, văn hoá, môi trường và các mặt khác).
- Phân công và phân cấp thực hiện.
Các khu rừng đặc dụng khác được thành lập Ban quản lý hoặc trạm quản lý khu rừng đặc dụng do quyết định của Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh có rừng.
Đối với các khu rừng đặc dụng nằm trong các Liên hiệp lâm - nông - công nghiệp thì Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp ra quyết định thành lập Ban quản lý của khu rừng đặc dụng.
Thủ trưởng cơ quan quản lý rừng đặc dụng có trách nhiệm:
- Xây dựng luận chứng kinh tế kỹ thuật hay dự án đầu tư của khu rừng đặc dụng.
- Tổ chức thực hiện luận chứng kinh tế kỹ thuật hay dự án đầu tư được duyệt sao cho vừa thực hiện được mục tiêu của khu rừng đặc dụng, vừa tận dụng được các lợi ích khác của khu rừng, giảm nhẹ nguồn chi cho ngân sách Nhà nước.
- Xây dựng nội quy và tổ chức thực hiện nội quy đó trên toàn bộ khu rừng được giao.
- Quản lý hoạt động, chỉ huy trực tiếp các tiểu khu trưởng.
- Báo cáo tình hình đầy đủ, kịp thời, chính xác lên cấp có thẩm quyền quản lý.
1. Nắm sát tình hình rừng, tình hình động vật, thực vật rừng và các tài nguyên khác trong tiểu khu thông qua việc lập lý lịch tiểu khu và duy trì nhật ký tiểu khu.
2. Tổ chức tuần tra rừng, kiểm tra kiểm soát, hướng dẫn những người được phép vào rừng. Ngăn ngừa việc phá rừng, chặt cây, lấy sản phẩm rừng trái phép, lấn chiếp đất rừng, vi phạm nội quy khu rừng cấm.
3. Tổ chức thực hiện việc phòng cháy, chữa cháy rừng và phòng trừ sâu hại rừng.
4. Tổ chức ngăn chặn việc săn bắt chim thú rừng, câu cá ở những nơi không được phép.
5. Phối hợp với cấp trên để tổ chức thực hiện phương án quy hoạch quản lý, bảo vệ và phương án quy hoạch mở mang đã được xét duyệt cho tiến hành trong phạm vi tiểu khu.
6. Phối hợp với các tiểu khu bạn để thực hiện nhiệm vụ chung của cả khu rừng đặc dụng khi cần thiết.
7. Tổ chức lực lượng quần chúng bảo vệ rừng trong địa phận (nếu có) và bồi dưỡng cho lực lượng này.
8. Lập biên bản và tạm giữ tang vật của các vụ vi phạm báo cáo Giám đốc xử lý.
NGUYÊN TẮC VỀ QUẢN LÝ VÀ BẢO VỆ RỪNG ĐẶC DỤNG
Toàn bộ tài nguyên trong khu rừng đặc dụng phải được điểu tra tỷ mỷ, ghi thành lý lịch ở cấp khu rừng và tiểu khu rừng và phải được thể hiện trên bản đồ.
Toàn bộ diễn biến các mặt hoạt động của rừng và của tiểu khu rừng đặc dụng phải được ghi thành nhật ký của khu rừng và tiểu khu phải xuất trình cho cấp trên kiểm tra khi cần thiết.
Một số quy định cơ bản để áp dụng trong các bản nội quy rừng đặc dụng:
1. Đối với tất cả các khu rừng đặc dụng cấm săn bắt động vật rừng với bất kỳ hình thức và phương tiện nào; cấm gây cháy rừng.
2. Đối với các phân khu bảo vệ nghiêm ngặt:
a) Không được làm thay đổi cảnh quan tự nhiên của khu rừng.
b) Không được thả rông gia súc, gia cầm.
c) Không được mang các loại động vật, thực vật của nơi khác vào trong rừng.
d) Không được đốt lửa bừa bãi. Chỉ được đốt lửa ở những nơi quy định.
e) Không được ô nhiễm môi trường hoặc có các hành động có hại đến sinh sống bình thường của các loài động vật.
g) Không được tiến hành các nội dung nghiên cứu khoa học, lấy mẫu nếu không được phép.
h) Người ngoài ban quản lý khu rừng đặc dụng không được tự do ra vào hoặc ngủ lại đêm trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt nếu không được phép.
i) Không mang vũ khí, chất nổ vào phân khu.
3. Đối với các phân khu đệm:
a) Được Tiến hành các công việc dọn rừng, trồng rừng, tu bổ rừng nhằm phục hồi cảnh quan rừng theo đúng như đã được duyệt trong luận chứng kinh tế kỹ thuật hoặc dự án đầu tư.
b) Không được chặt cây rừng theo kiểu chặt trắng.
c) Có thể cho cắm trại ở lại ban đêm.
d) Không được phát rừng làm rẫy.
4. Đối với phân khu dịch vụ - sản xuất.
a) Có thể xây dựng các công trình kiên cố, đường sá, cầu cống phục vụ cho cán bộ, công nhân viên ban quản lý rừng đặc dụng và khách đến làm việc hoặc tham quan.
b) Có thể cho thu hái một số sản phẩm của rừng như nấm, cây thuốc theo một danh sách do ban quản lý quy định.
c) Có thể cho tiến hành các hoạt động chăn nuôi, trồng trọt.
d) Có thể cho đánh cá, câu cá bằng những phương tiện được phép.
Quyết định 1171-QĐ năm 1986 ban hành các loại quy chế rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng đặc dụng do Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp ban hành
- Số hiệu: 1171-QĐ
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 30/12/1986
- Nơi ban hành: Bộ Lâm nghiệp
- Người ký: Phan Xuân Đợt
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 5
- Ngày hiệu lực: 14/01/1987
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định