BỘ CÔNG NGHIỆP NẶNG | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số : 1148-BCNNg/GD | Hà Nội, ngày 26 tháng 11 năm 1966 |
BÀN HÀNH QUY CHẾ TẠM THỜI VỀ TỔ CHỨC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP TẠI CHỨC
BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG NGHIỆP NẶNG
Căn cứ Nghị định số 101-TTg ngày 11-10-1962 của Thủ tướng Chính phủ về quy chế tổ chức các trường, lớp đại học và trung học chuyên nghiệp tại chức.
Căn cứ Nghị định số 171-CP ngày 20-11-1963 của Hội đồng Chính phủ về quy chế mở trưởng và lớp đại học và trung học chuyên nghiệp.
Căn cứ nhu cầu mở rộng và nâng cao chất lượng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng hình thức học tại chức.
Xét đề nghị của Vụ tổ chức giáo dục.
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. – Nay ban hành quy chế tạm thời về tổ chức trường đại học và trung học chuyên nghiệp tại chức.
Điều 2. - Vụ tổ chức giáo dục có trách nhiệm hướng dẫn thi hành quy chế này.
| KT. BỘ TRƯỞNG BỘ CÔNG NGHIỆP NẶNG |
VỀ TỔ CHỨC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP TẠI CHỨC
(ban hành kèm theo Quyết định số 1148-BCNNG/GD ngày 26-11-1966 của Bộ Công nghiệp nặng)
Ở Bộ ta, việc mở các lớp đại học và trung học chuyên nghiệp tại chức đã bắt đầu từ năm 1960. Đến nay, phong trào đã phát triển khá mạnh. Nhiều cơ sở đã mở thường xuyên hàng năm nhiều lớp đại học và trung học chuyên nghiệp tại chức, hầu như đã hình thành một trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng hình thức học tại chức tương đối có nề nếp. Tuyn hiên, do chưa thực sự hoạt động theo quy chế của một trường tại chức, nên cả về quy mô và chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ ở đấy còn bị hạn chế.
Để tạo điều kiện cho các cơ sở trên có thể phát triển hơn nữa là nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng hình thức học tại chức, để thực hiện nghị quyết của Bộ Chính trị về việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý kinh tế (số 142-TƯ ngày 28-06-1966), nghị quyết có đoạn ghi: “phải phấn đấu để mỗi xí nghiệp, công trường… có đông cán bộ, công nhân đều có một lớp hoặc trường đào tạo và bồi dưỡng cán bộ bằng hình thức học tại chức” nay Bộ ban hành quy chế tạm thời về tổ chức trường đại học và trung học chuyên nghiệp tại chức.
I. ĐIỀU KIỆN TỔ CHỨC TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP TẠI CHỨC
Điều 1. - Điều kiện tối thiểu cho một cơ sở được tổ chức trường tại chức là:
a) Trong các năm trước đây đã mở được một số lớp đại học hoặc trung học tại chức, hiện tại vẫn còn các lớp đang học, và trong những năm tới sẽ có kế hoạch tuyển sinh hàng năm từ 100 học viên trở lên;
b) Có phong trào bổ túc văn hóa tương đối phát triển ở cấp II và cấp III, có thể bảo đảm nguồn tuyển sinh hàng năm cho các lớp đại học và trung học tại chức.
c) Có đội ngũ cán bộ kỹ thuật và kinh tế đông đảo tương đối đủ để bố trí giảng dạy cho các lớp;
d) Có các thiết bị, phương tiện nghiên cứu, thí nghiệm hiện đang dùng trong sản xuất như phòng thí nghiệm, thư viện… có thể tận dụng tương đối tốt cho việc giảng dạy, học tập.
đ) Bộ máy quản lý các lớp tại chức hiện có đã ổn định và tương đối có kinh nghiệm về nghiệp vụ giáo dục.
Trường sẽ gọi là trường trung học tại chức, nếu chỉ gồm các lớp trung học.
Trường sẽ gọi là trường đại học và trung học tại chức, nếu gồm có cả các lớp đại học và trung học.
II. NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG CHÂM HOẠT ĐỘNG CỦA TRƯỜNG TẠI CHỨC
Điều 3. - Trường tại chức có nhiệm vụ:
- Đào tạo bằng hình thức tại chức những cán bộ có trình độ đại học và trung học theo đúng đường lối, phương châm, mục tiêu quy định của Nhà nước để bổ sung cán bộ cho mình và cho yêu cầu chung theo chỉ tiêu do Bộ giao;
- Bổ túc cho những cán bộ lãnh đạo và chỉ đạo sản xuất đang giữ những trách nhiệm đòi hỏi phải có trình độ đại học và trung học nhưng chưa có trình độ đó; bổ túc, nâng cao khả năng công tác cho những cán bộ kỹ thuật, cán bộ kinh tế, giúp họ phát huy tác dụng cao hơn ở ngành nghề đang phục vụ.
Điều 4. - Trường tại chức có thể mở các lớp học theo các hình thức học tại chức linh hoạt phù hợp với điều kiện cụ thể từng nơi, từng lúc như học buổi tối, học tập trung từng đợt ngắn trong giờ sản xuất (mỗi tháng tập trung 4 ngày, nửa tháng tập trung 2 ngày,…) theo đúng các chế độ về học tập tại chức của Nhà nước và của Bộ đã ban hành,
Điều 5. - Xuất phát từ đặc điểm của việc học tại chức là vừa làm vừa học, học ngay tại cơ sở sản xuất, làm nghề nào học theo nghề đó nên phương châm hoạt động của trường là:
- Phải tận dụng lực lượng cán bộ, cơ sở vật chất sẵn có của xí nghiệp để thực hiện nhiệm vụ của mình;
- Phải kết hợp chặt chẽ học tập với sản xuất trong tất cả mọi việc, mọi lúc (trong nội dung học tập, trong các bài tập, các đề tài thiết kế tốt nghiệp, trong việc chia tổ học tập, trong việc lập kế hoạch giảng dạy, trong việc sắp xếp giờ giấc lên lớp v.v…).
Điều 6. - Trường tại chức được tổ chức theo quyết định của Bộ (nếu là trường trung học), của Phủ Thủ tướng (nếu là trường đại học) theo đúng các nguyên tắc, thủ tục quy định tại Nghị định số 171-CP ngày 20-11-1963 của Hội đồng Chính phủ.
Trường là một đơn vị sự nghiệp của xí nghiệp, chịu sự chỉ đạo trực tiếp của giám đốc xí nghiệp.
Giám đốc xí nghiệp chịu trách nhiệm trước Bộ về mọi mặt hoạt động của trường: thực hiện chỉ tiêu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, thực hiện chế độ, chính sách của Nhà nước và của Bộ về học tập tại chức, xây dựng và củng cố trường về mọi mặt.
Điều 7. – Ban giám hiệu nhà trường gồm có một hiệu trưởng do giám đốc hoặc phó giám đốc xí nghiệp kiêm nhiệm, và một hiệu phó do giám đốc xí nghiệp lựa chọn, đề nghị Bộ quyết định bổ nhiệm.
Ban giám hiệu có nhiệm vụ:
- Chỉ đạo việc tổ chức các lớp học để thực hiện chỉ tiêu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ theo đúng quy chế của Nhà nước của Bộ.
- Chỉ đạo chặt chẽ công tác giáo vụ, để bảo đảm thực hiện đúng kế hoạch giáo dục của các lớp đã được Bộ duyệt, bảo đảm chất lượng đào tạo tốt;
- Xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên;
- Nghiên cứu việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với giáo viên và học viên để bảo đảm phát triển công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ cả về số lượng và chất lượng, đồng thời bảo đảm có tác dụng tốt đến sản xuất.
Điều 8. – Giúp việc ban giám hiệu là một bộ phận công tác giáo vụ. Bộ phận này gồm một số cán bộ chuyên trách. Số cán bộ chuyên trách được tính theo số lượng học viên có mặt ở trường, cứ 150 học viên có một cán bộ chuyên trách.
Bộ phận giáo vụ có những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
1. Xây dựng kế hoạch giảng dạy và lập tiến độ giảng dạy của các lớp; bố trí thời khóa biểu giảng dạy chung của trường để bảo đảm thực hiện tốt kế hoạch giảng dạy của các lớp;
2. Tổ chức việc biên soạn chương trình học tập của các ngành học trong trường theo đúng nguyên tắc chung và phù hợp với tình hình thực tế của xí nghiệp;
3. Tổ chức tuyển sinh theo đúng tiêu chuẩn quy định;
4. Bố trí giảng dạy cho các giáo viên, cung cấp tài liệu cho giáo viên, xét duyệt kế hoạch giảng dạy của giáo viên, kiểm tra công tác chuẩn bị giảng dạy và theo dõi việc giảng dạy. Chỉ đạo sinh hoạt tổ, bộ môn giáo viên, tổ chức việc bồi dưỡng nghiệp vụ giảng dạy cho giáo viên, theo dõi việc thanh toán thù lao cho giáo viên;
5. Tổ chức việc cung cấp tài liệu học tập cho học viên (mua hoặc tổ chức việc biên soạn và in giáo trình);
6. Theo dõi, thống kê tình hình và kết quả học tập của học viên (tình hình đến lớp, tự học, kết quả kiểm tra và thi). Chỉ đạo việc sinh hoạt của các tổ học tập, các lớp;
7. Cung cấp tình hình và số liệu về việc thực hiện kế hoạch giảng dạy của các lớp, kết quả học tập của học viên cho ban giám hiệu để xét và quyết định việc tổ chức thi và kiểm tra. Tổ chức các kỳ thi đúng thể lệ và bảo đảm đạt được kết quả tốt;
8. Đề xuất và giúp đỡ cho ban giám hiệu chỉ đạo việc cải tiến nội dung chương trình học tập, cải tiến phương pháp giảng dạy và học tập, cải tiến hình thức tổ chức học tập;
9. Chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện cho các lớp và quản lý các thiết bị thí nghiệm, đồ dùng giảng dạy, thư viện, lớp học của trường.
10. Cung cấp tình hình số liệu và giúp hiệu trưởng làm báo cáo thường kỳ cho giám đốc xí nghiệp, cho cục và Bộ.
Điều 9. - Để thực hiện nhiệm vụ theo đúng phương châm hoạt động của trường, trường tại chức có quan hệ mật thiết với các bộ phận khác ở xí nghiệp và các bộ phận này có trách nhiệm phối hợp cộng tác dưới sự chỉ đạo chung của giám đốc xí nghiệp về các mặt sau đây:
1. Với phòng tổ chức giáo dục, trường tại chức và phòng tổ chức giáo dục cùng nhau giải quyết tốt các vấn đề về chỉ tiêu đào tạo và bồi dưỡng, về khả năng và điều kiện thực hiện chỉ tiêu, về đối tượng và tiêu chuẩn tuyển sinh; về mục tiêu đào tạo và kết quả học tập, về việc chọn cử giáo viên;
2. Với phòng kỹ thuật, phòng kỹ thuật có trách nhiệm giúp đỡ về việc cử giáo viên kiêm chức đóng góp ý kiến về nội dung yêu cầu đào tạo, bố trí việc nghiên cứu thí nghiệm cho học viên;
3. Phòng kế toán tài vụ giải quyết kịp thời và đầy đủ kinh phí theo tiêu chuẩn quy định và đề nghị của trường;
4. Phòng quản trị hành chính có trách nhiệm giải quyết tốt về điều kiện vật chất cho trường;
5. Các phòng nghiệp vụ khác có trách nhiệm cử giáo viên giảng dạy các lớp nghiệp vụ và đóng góp vào việc xây dựng nội dung chương trình học tập;
6. Các phân xưởng có trách nhiệm chọn cử học viên theo học đúng tiêu chuẩn, theo dõi động viên và tạo điều kiện cho học viên ở phân xưởng mình học tập tốt, giúp đỡ, bố trí thí nghiệm, thực tập ở phân xưởng.
Trên đây là quy định một số vấn đề lớn mà các bộ phận của xí nghiệp và trường tại chức có quan hệ tốt với nhau để bảo đảm tốt công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong điều kiện thực tế cụ thể, trường tại chức và các bộ phận này phải bàn bạc cụ thể để giải quyết tốt mọi vấn đề chi tiết trong quan hệ phối hợp.
Điều 10. – Cơ sở vật chất của trường chủ yếu là dựa vào cơ sở sẵn có của xí nghiệp.
Điều 11. - Trường tại chức dùng kinh phí được cấp theo quy định để xây dựng, mua sắm thêm. Hướng mua sắm chủ yếu là đồ dùng giảng dạy học tập, sách tham khảo, thiết bị thí nghiệm, ngoài những thứ xí nghiệp đã có.
V. NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH KẾ HOẠCH GIẢNG DẠY
Điều 12. – Ngành học của trường chủ yếu là theo ngành sản xuất của xí nghiệp. Các trường ở các xí nghiệp lớn, các công ty có thể mở thêm các lớp về các ngành khác có tính chất phục vụ chung và tuyển sinh ở cả các xí nghiệp lân cận theo chỉ tiêu do Bộ giao.
Điều 13. – Xây dựng nội dung chương trình kế hoạch học tập của trường phải quán triệt mục đích, đặc điểm phương châm học tập tại chức, tình hình cụ thể của xí nghiệp và các nguyên tắc quy định. Kế hoạch học tập phải được Bộ duyệt trước khi thực hiện.
Điều 14. - Trường tại chức phải thường xuyên nghiên cứu rút kinh nghiệm để bổ sung, cải tiến nội dung chương trình học tập. Trong vấn đề này các trường tại chức có trách nhiệm đi đầu đối với các lớp tại chức khác.
Điều 15. - Trường tại chức sử dụng hai loại giáo viên: kiêm chức và chuyên trách. Việc chọn giáo viên phải theo đúng các thông tư quy định hiện hành.
Điều 16. - Số lượng giáo viên chuyên trách của trường tại chức phải đủ để bảo đảm ít nhất 1/3 số giờ lên lớp của các lớp hàng năm. Giáo viên chuyên trách chỉ giảng dạy các môn khoa học cơ bản và một số môn kỹ thuật cơ sở.
Điều 17. - Tất cả các giáo viên phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, phải có trách nhiệm về chất lượng môn học được phân công giảng dạy và được hưởng mọi quyền lợi đối với giáo viên theo quy định hiện hành.
Điều 18. – Tiêu chuẩn lựa chọn học viên vào trường theo đúng nguyên tắc do Nhà nước quy định chung đối với các lớp tại chức trung học và đại học. Hiệu trưởng có thể căn cứ tình hình cụ thể của cơ sở mà đề nghị thêm những tiêu chuẩn cụ thể cho phù hợp, nhưng chỉ được thực hiện sau khi Bộ đồng ý.
Điều 19. - Mỗi học viên của trường tại chức có những nhiệm vụ chính sau đây:
1. Phải nộp đầy đủ hồ sơ theo thủ tục tuyển sinh;
2. Vừa bảo đảm học tập đạt kết quả tốt, vừa bảo đảm sản xuất, công tác tốt;
3. Phải chấp hành đầy đủ nội quy nhà trường;
4. Phải có trách nhiệm xây dựng trường về mọi mặt;
Điều 20. - Mỗi học viên được hưởng các quyền lợi sau:
1. Được đóng góp ý kiến của mình trong việc cải tiến nội dung chương trình học tập, cải tiến phương thức họp tập, phương pháp giảng dạy và học tập;
2. Được cấp học bạ, giấy chứng nhận học lực;
3. Trong khi học tập được hưởng các chế độ về học tập tại chức do Nhà nước và Bộ đã ban hành;
4. Sau khi tốt nghiệp được cấp bằng tốt nghiệp và được sử dụng, đãi ngộ theo chế độ quy định hiện hành.
VIII. NỘI QUY, KỶ LUẬT VÀ CHẾ ĐỘ BÁO CÁO
Điều 21. - Trường phải có một bản nội quy về học tập được xây dựng trên cơ sở của quy chế tổ chức trường và các điều kiện thực tế về đối tượng học viên, điều kiện sản xuất, sinh hoạt của cơ sở sản xuất.
Điều 22. - Bản nội quy phải nêu rõ những nội dung sau:
1. Tổ chức quản lý sinh hoạt, học tập của các lớp học; quản trị lớp, các tổ học tập; chế độ và nội dung sinh hoạt của lớp, tổ;
2. Nhiệm vụ và quyền hạn của các lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng.
3. Nhiệm vụ và quyền lợi của học viên;
4. Quy định về việc khen thưởng, kỷ luật và thực hiện nội quy.
Điều 23. - Nội quy phải được phổ biến kỹ đến mọi học viên.
Điều 24. - Về chế độ thỉnh thị báo cáo đối với Bộ và Cục, những trường hợp sau đây cần phải thỉnh thị:
- Bổ sung thêm học viên.
- Thay đổi về chương trình, kế hoạch giáo dục đã được duyệt.
- Đề nghị cho tổ chức thi tốt nghiệp.
Sau mỗi học kỳ, năm học và cuối khóa học, trường phải báo cáo cho Bộ, cục và giám đốc xí nghiệp.
Điều 24. – Kinh phí của trường do quỹ sự nghiệp của Bộ cấp theo tiêu chuẩn quy định hiện hành.
Điều 26. - Những trường đã được quyết định thành lập của Bộ được thi hành theo quy chế từ ngày có quyết định.
Vụ tổ chức giáo dục chịu trách nhiệm hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện quy chế;
Điều 27. – Quy chế chỉ được sửa đổi do quyết định của Bộ. Trong quá trình thực hiện nếu có mắc mứu khó khăn gì phải báo cáo để Bộ xét.
- 1Nghị định 171-CP năm 1963 về quy chế mở trường và lớp đại học và trung học chuyên nghiệp do của Hội đồng Chính phủ ban hành
- 2Nghị định 101-TTg năm 1962 quy chế chung về tổ chức các trường lớp trung cấp và đại học tại chức do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 3Thông tư liên bộ 02-TT/LB năm 1980 chế độ, chính sách đối với giáo viên, cán bộ khoa học kỹ thuật, kinh tế tham gia giảng dạy tại các trường, lớp đại học và trung học chuyên nghiệp tại chức do Bộ Đại học và trung học chuyên nghiệp - Bộ tài chính - Bộ Lao động ban hành
Quyết định 1148-BCNNg/GD năm 1966 về quy chế tạm thời về tổ chức trường đại học và trung học chuyên nghiệp tại chức do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nặng ban hành
- Số hiệu: 1148-BCNNg/GD
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 26/11/1966
- Nơi ban hành: Bộ Công nghiệp nặng
- Người ký: Bùi Đình Đồng
- Ngày công báo: 15/12/1966
- Số công báo: Số 16
- Ngày hiệu lực: 11/12/1966
- Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định