BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI ******* Số : 1077-QĐ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ ******* Hà Nội, ngày 15 tháng 09 năm 1962 |
VỀ VIỆC BAN HÀNH CHẾ ĐỘ QUẢN LÝ, SỬA CHỮA ĐƯỜNG Ô TÔ
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
Xét tình hình phát triển giao thông vận tải và sửa chữa đường xá trong nước hiện nay;
Để công việc sửa chữa đường ô tô tiến hành được thuận lợi, có kết quả tốt đồng thời giảm bớt được phí tổn cho công quỹ;
Theo đề nghị của ông Cục trưởng Cục Vận tải đường bộ,
QUYẾT ĐỊNH:
| K.T. BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI |
Giao thông vận tải là mạch máu của nền kinh tế quốc dân, nối liền thành thị với nông thôn, nối liền các khu công, nông nghiệp với nhau, nối liền nước ta với các nước bạn, phục vụ cho sự hoạt động của các ngành kinh tế, văn hoá, chính trị, quốc phòng và sự đi lại của nhân dân.
Ngành vận tải ô-tô là một khâu trọng yếu không thể thiếu được trong sự nghiệp giao thông vận tải nói chung.
Miền Bắc nước ta đang tiến hành xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách qui mô. Các công trường, các nông trường các xí nghiệp, các cơ sở văn hoá, xã hội đang mọc lên ngày càng nhiều ở các đô thị, các vùng nông thôn, các vùng đồng bằng, các vùng rừng núi xa xôi hẻo lánh. Trong trường hợp vận tải đường sắt, đường thuỷ không thuận lợi thì ngành vận tải ô-tô chiếm một vị trí vô cùng quan trọng, việc vận chuyển bằng ô tô càng là một yêu cầu cấp bách cần phải rất coi trọng và cần phải được phát triển.
Muốn công tác vận chuyển bằng ô-tô được tốt, được phát triển, muốn ngành vận tải ô-tô đóng góp được phần nhiệm vụ xứng đáng vào sự nghiệp giao thông vận tải chung của đất nước thì một trong những vấn đề chủ yếu cần phải được đặc biệt chú trọng là công tác sửa chữa đường xá.
Đường xá có tốt thì xe chạy mới được nhanh chóng và an toàn.
Đường xá có được thường xuyên chăm lo sửa chữa thì mới đảm bảo được tiêu chuẩn chất lượng và mới dùng được lâu dài.
Để cho công tác sửa chữa đường xá được tốt chúng ta cần nắm vững những đặc điểm riêng của đường ô-tô như sau:
1. Đường ô tô là một loại tài sản cố định nằm luôn luôn ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp của mọi điều kiện thiên nhiên, thời tiết như: lượng nước mưa, sức nóng của trời nắng,các mức độ ẩm thấp,hơi nước mặn… Nhất là nước ta lại ở vào vùng nhiệt đới thì mức độ chịu ảnh hưởng phá hoại của các điều kiện thiên nhiên, thời tiết lại càng mau. Do đó càng rất dễ bị hư hỏng, hao mòn. Mà sự hao mòn, hư hỏng các bộ phận của đường lại không đều nhau đòi hỏi phải được sửa chữa kịp thời để thường xuyên đảm bảo được chất lượng lúc ban đầu.
2. Sự cấu tạo của đường không thuần nhất, nó bao gồm: nền đường, mặt đường, cầu, cống, phà…. Mỗi bộ phận cấu tạo theo một kỹ thuật riêng với những nguyên vật liệu khác nhau.Mỗi bộ phận lại có một tính chất riêng biệt. Do đó mỗi bộ phận đòi hỏi những điều kiện chăm nom, sửa chữa khác nhau. Tính chất và cấu tạo của đường miền núi, đường đồng bằng, đường vùng nước mặn cũng khác nhau nên việc chăm nom, sửa chữa cũng khác nhau.
3. Khác với các loại tài sản cố định khác ở chỗ là tìm vị trí đường rất khó, kinh phí khảo sát và xây dựng tốn kém rất lớn. Do đó không thể đặt vấn đề thay thế một con đường này bằng con đường khác như thay thế các máy móc hay thiết bị khác được. Bởi vậy việc chăm nom, sửa chữa đường xá lại càng là một vấn đề quan trọng và bức thiết hơn đối với nhiều loại tài sản cố định khác.
Kinh nghiệm cho thấy rằng một con đường được chăm nom và sửa chữa thường xuyên tốt thì dùng được lâu dài.
Đó là những đặc điểm và tầm quan trọng của việc sửa chữa đường ô tô chúng ta cần nắm vững.
Từ ngày hoà bình lập lại tới nay Đảng và Chính phủ đã rất xem trọng công tác chăm nom và sửa chữa đường ô-tô. Riêng đối với công tác sửa chữa vừa và sửa chữa lớn Chính phủ đã đầu tư hàng năm trên hai chục triệu đồng. Điều này nói lên rằng Đảng, Chính phủ đánh giá rất cao công tác chăm nom sửa chữa bảo quản đường ô-tô.
Tóm lại trong sự nghiệp giao thông vận tải đường bộ, công tác chăm nom và sửa chữa đường ô tô chiếm một vị trí hết sức quan trọng và cần thiết. Nó có tác dụng hàn gắn lại các hao mòn, nâng cao được chất lượng đường, kéo dài thêm được thời gian sử dụng đường để bảo đảm phục vụ đắc lực cho các mặt hoạt động kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị, quốc phòng. Nhưng công tác sửa chữa đường ô-tô rất phức tạp, khó khăn.
Để công việc sửa chữa đường ô-tô tiến hành được thuận lợi, có kết quả tốt đồng thời giảm bớt được phí tổn cho công quỹ, Bộ ban hành chế độ quản lý sửa chữa đường ô-tô này để hướng dẫn cho sự thống nhất về nhận thức của vấn đề và quy định cụ thể về công tác quản lý, công tác kỹ thuật của đường ô-tô.
MỤC ĐÍCH YÊU CẦU CỦA CÔNG TÁC SỬA CHỮA
a) Đường:
- Mặt đường phải vững chắc, bằng phẳng, không trơn, đủ tiêu chuẩn bảo đảm cho xe chạy với tốc độ và trọng tải quy định;
- Nền đường phải vững chắc, đẹp, thoát nước dễ dàng;
- Cột cây số, biển báo hiệu, các thiết bị an toàn phải đầy đủ và hoàn hảo để bảo đảm cho xe chạy được an toàn.
b) Cầu:
- Mặt cầu phải bằng phẳng, dễ thoát nước;
- Rầm mố, trụ cầu phải vững chắc;
- Các bộ phận cấu tạo không hư hỏng; bu-lông, ri ve chốt phải siết chặt;
- Gối cầu phải có tác dụng đầy đủ;
- Sơn phòng rỉ, quét thuốc phòng mục, tẩm thuốc phòng hà đúng kỹ thuật và đúng thời hạn.
c) Bến phà, phà và ca-nô:
- Đường lên xuống phà phải vững chắc, bằng phẳng không lầy lội;
- Độ dốc bến phà đảm bảo xe lên xuống dễ dàng.
- Thiết bị an toàn, dụng cụ vật liệu cần thiết cho phà và ca-nô phải đầy đủ;
- Mỗi bến phải có đầy đủ số phà để phục vụ; phà phải luôn vững chắc, khô ráo, không rỉ nước;
- Ca-nô phải có đủ sức kéo phà, lúc nước bình thường cũng như lúc nước lũ;
- Máy móc ca-nô phải luôn luôn ở trạng thái tốt.
d) Nhà cửa và kho:
- Dọc theo đường phải có nhà cho cán bộ, công nhân sửa chữa đường ở;
- Có kho, có thiết bị máy móc dụng cụ cần thiết để bảo quản và sửa chữa dụng cụ, vật liệu, máy móc.
- Giữ gìn tình trạng tốt sẵn có của các công trình từ khi mới xây dựng hoặc khôi phục xong;
- Làm cho tốt nếu các công trình đó chưa được tốt;
- Nâng cao tiêu chuẩn, và chất lượng các công trình; nhằm mục đích bảo đảm đường luôn luôn được tốt và dùng được lâu dài.
ẢNH HƯỞNG CỦA XE CỘ VÀ CÁC YẾU TỐ THIÊN NHIÊN ĐỐI VỚI ĐƯỜNG SÁ
- Lực ngang làm cho mặt đường nứt rạn và bong,
- Lực đứng làm cho mặt đường mau mòn.
Xe thô sơ do chiều ngang nhỏ của vành bánh xe bằng sắt chở nặng, mặt đường chóng bị hỏng; xe bằng xích làm mặt đường chóng bị hư hỏng hơn.
Trong các vùng khí hậu nóng, mặt đường cấp thấp bị khô thì đá dăm, cấp phối và đất sẽ biến dạng thành làn sóng ngang dưới tác động của sức nặng bánh xe. Thường thường làn sóng ngang nằm thành những hàng song song thẳng góc với tim đường cách đều từ 0,60 đến 0,90m. Làn sóng xuất hiện là do tốc độ, lưu lượng và sức nặng của xe kết hợp với độ ẩm của đất nền đường. Làn sóng phát sinh và khoảng cách gần là do tốc độ xe chạy nhanh. Trọng lượng của xe, loại nhíp và kiểu bánh xe cũng ảnh hưởng đến tốc độ phát sinh và hình thái làn sóng.
Mặt đường có độ ẩm cao, hoặc thành phần đất sét nhiều sẽ biến dạng thành vết dài dưới tác động của sức nặng bánh xe.
Nước tác động rất mạnh đến mặt đường. Mưa lớn và kéo dài sẽ làm cho mặt đường mềm nhũn, nhất là mặt đường đất.
Về mùa hè, sức nặng của bánh xe làm mòn mặt đường thành bụi. Bánh xe kéo bay bụi vào không khí làm mỏng và yếu dần mặt đường. Mặt đường đá dăm hoặc cấp phối rải nhựa cũng bị ảnh hưởng của mưa nắng. Khi ẩm ướt quá, lớp nhựa mỏng sẽ bớt dính kết với vật liệu mặt đường và có thể bong lên. Khi nóng quá, lớp nhựa sẽ biến dạng khác nhau, tuỳ theo nóng nhiều hay ít làm lồi lõm mặt đường tạo thành làn sóng trên mặt đường.
Tốc độ của xe cộ và cường độ của giao thông tăng lên bao nhiêu thì làm cho mặt đường hao mòn thêm bấy nhiêu. Sự hao mòn trên các mặt đường cấp phối và đá dăm trông thấy rõ rệt hơn trên các mặt đường có phủ nhựa.
1. Loại công tác có thể dự đoán trước gồm có:
a) Giữ gìn và chăm nom để bảo vệ trạng thái tốt của các công trình và đề phòng hư hỏng.
b) Sửa chữa nhỏ
c) Sữa chữa vừa.
d) Sửa chữa lớn.
2. Loại công tác không thể dự đoán trước:
a) Khôi phục đường hoặc sửa chữa những hư hỏng bất ngờ (hư hỏng do phá hoại, hư hỏng lớn do thiên tai hay hư hỏng do sửa chữa nhỏ, sửa chữa vừa và sửa chữa lớn không tốt gây nên).
b) Cải tiến tiêu chuẩn (nâng cao tiêu chuẩn toàn bộ con đường).
Trong mỗi mùa mưa hoặc mùa khô, công tác sửa chữa thường xuyên có một số việc trọng tâm. Khẩu hiệu là: chăm nom và đề phòng là chính. Công tác sửa chữa thường xuyên nhằm không để xảy ra những hư hỏng lớn, không để gián đoạn giao thông.
Công tác này tiến hành trên từng đoạn đường dài, đồng thời sửa chữa mặt đường thì cũng sửa chữa nền đường và các công trình kỹ thuật. Trong khi tiến hành công tác này, có thể gián đoạn giao thông nhưng không lâu.
Công tác này có thể đòi hỏi đình chỉ giao thông trên đường trong một thời gian hoặc chuyển giao thông qua một đường khác.
Công tác sửa chữa lớn sẽ tiến hành sau khi công trình đã trải qua một hay nhiều lần sửa chữa vừa, trung bình là bốn hay năm năm một lần.
Ba công tác này kết hợp được chặt chẽ và thực hiện được tốt sẽ làm cho đường sá, cầu cống, phà, ca-nô, nhà cửa, các thiết bị an toàn càng ngày càng được nâng cao chất lượng, dần dần trở nên hoàn chỉnh, do đó:
- Bảo đảm được tốc độ và trọng tải xe như đã quy định, góp phần vào việc bảo đảm an toàn giao thông.
- Hạ được giá thành vận tải;
- Giảm bớt được chi phí về sửa chữa vừa và sửa chữa lớn;
- Kéo dài được thời gian phục vụ của con đường tránh được việc phải đầu tư sớm làm lại con đường để tập trung vốn vào việc phát triển mảng lưới giao thông.
CÔNG TÁC SỬA CHỮA THƯỜNG XUYÊN
Điều 13. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về mùa khô gồm có:
a) Trên mặt đường đất: Tưới nhẹ nước lên mặt đường để giữ độ ẩm cho mặt đường và đề phòng sinh bụi, cạo gợn sóng cho mặt đường bằng phẳng. Ở vùng có nước mặn thì lấy nước mặn tưới mặt đường để giữ đất ẩm được lâu.
b) Trên mặt đường cấp phối: Dọn sạch lá cây, rác rưởi, rải đất dính, tưới nước, đầm, nện hoặc té cát sỏi…
c) Trên mặt đường đá dăm: Rải biên hoà hoặc cát to hạt rồi quét đi quét lại cho cát lọt xuống kẽ đá. Tưới nước, thu nhặt đá bị bong; quét và vun cát sạn bị bắn ra lề đường để rồi rải lại trên mặt đường.
d) Trên mặt đường đá dăm kết vữa: Rải đất núi, đất lẫn đá mạt cho những đoạn mà vữa ở kẽ đá đã mòn sâu.
e) Trên mặt đường đá ong: Rải một lớp đá ong dày 3 – 4cm ở hai vệt bánh xe rồi tưới nước.
g) Trên mặt đường nhựa: Những nơi nào trời nóng nhựa chưa gợn lên thành làn sóng thì rải sỏi hay đá mạt. Chỗ nào bị trũng sâu, nhựa đọng lại đấy thì phải cuốc lên, vá nhựa lại cho bằng phẳng. Luôn luôn quét và vun thành đống những sạn do xe chạy gạt ra hai bên lề đường, để dùng lại khi cần.
h) Luôn luôn chú ý vá những ổ gà chớm phát sinh trên các loại mặt đường.
Điều 14. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường về mùa mưa gồm có:
a) Trên mặt đường đất, cấp phối và đá dăm. Dọn sạch bùn lầy, rải sỏi hay cát to hạt cho khỏi trơn, nhất là đối với mặt đường đất và cấp phối.
b) Nói chung trên mặt đường, phải làm cho khỏi ứ đọng nước.
c) Lát ván, lát đá hộc, làm cầu cạn trên các quãng đường lầy.
d) Đối với những hư hỏng chưa sửa chữa kịp, nếu xét có ảnh hưởng đến sự đi lại của xe cộ, thì phải cắm cọc tiêu hay bảng hướng dẫn giao thông; nếu hư hỏng nặng có thể nguy hiểm cho xe cộ thì phải rào lại và đặt tín hiệu an toàn.
Điều 15. – Công tác sửa chữa thường xuyên mặt đường chung cho cả hai mùa gồm có:
a) Vá ổ gà mặt đường đất mà diện tích vá không quá 20% diện tích mặt đường; vá ổ gà mặt đường cấp phối mà diện tích không quá 15% diện tích mặt đường; vá ổ gà mặt đường đá dăm nhựa, đá dăm kết vữa mà diện tích vá không quá 10% diện tích mặt đường.
b) Rải lại mặt đường cấp phối, đá dăm theo lối xáo xới, có lu lên và thêm vật liệu mới không quá 100lít/mét đường.
c) Rải lớp đá ong ở hai vệt bánh xe trên mặt đường đá ong, rải dày 3-4cm không lên;
d) Làm tầng hao mòn trên mặt đường đá dăm và mặt đường cấp phối.
e) Dự trữ vật liệu như đá dăm, sạn cát, biên hoà chất dính, để vá ổ gà, làm lớp bảo vệ;
Điều 16. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ thống thoát nước về mùa khô gồm có:
a) Sửa chữa lề đường, mái ta-luy
b) Sửa chữa hình dáng của nền đường; xén cỏ trên mép đường trên ta-luy và rãnh ở lề đường.
c) Sửa chữa đường ngầm bằng phằng cho dễ đi.
d) Sửa chữa rãnh ngầm.
Điều 17. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường và hệ thống thoát nước về mùa mưa gồm có:
a) Cắt cỏ trên lề đường. Trồng cỏ những chỗ thiếu trên ta-luy, cắt cỏ những chỗ quá tốt;
b) Sửa chữa rãnh ngầm cho thông; khơi rãnh thoát nước; dọn cỏ rác; vét đất bùn.
c) Đắp lề đường bị lún: đắp mái ta-luy bị lở; hốt đất sụt với khối lượng nhỏ để khai thông đường.
d) Giữ gìn đường ngầm khỏi bị xói lở, trơ đá; cắm tiêu dọn cỏ rác, cây củi lấp lên trên đường ngầm.
Điều 18. – Công tác sửa chữa thường xuyên nền đường chung cho cả hai mùa gồm có:
a) Sửa chữa hư hỏng ở những đoạn lẻ tẻ của nền đường, có đào, đắp, đầm san phẳng, hốt đất trụt với khối lượng không quá 100m3/cây số.
b) Đắp đất, khối lượng nhỏ, hình chóp của cầu; trồng lại cỏ với những diện tích nhỏ.
c) Sửa chữa đá khan hình chóp, đá khan áp trúc ta-luy đường với diện tích nhỏ.
d) Đào rãnh mới; lát lại đường ngầm từng diện tích nhỏ với khối lượng đá độ 10-20m3.
e) Phát cây hai bên đường để giữ tầm nhìn luôn luôn được tốt.
Điều 19: Các công trình cầu cống được phân loại như sau:
a) Công trình vĩnh cửu: Mố và trụ xây; mố và trụ bê-tông, bê-tông cốt thép. Mố và trụ sắt thép. Mặt cầu bê-tông, sắt thép. Các công trình cuốn xây bằng gạch đá.
b) Công trình bán vĩnh cửu: Mố trụ vĩnh cửu, mặt cầu bằng gỗ hoặc bằng thép nhưng không bảo đảm khổ cầu; cầu thép lắp bằng chốt; cầu IPN; cầu hoàn toàn bằng gỗ tứ thiết, có phòng mục, phòng hà, thiết kế đúng chuẩn tắc.
c) Công trình tạm thời: Toàn bộ bằng gỗ, không phòng mục, không phòng hà; mố và trụ bằng gỗ, mặt bằng sắt thép; mố và trụ bằng đá xây khan, mặt gỗ.
Điều 20. – Các công trình cầu được phân hạng căn cứ vào chiều dài và tầm của công trình như sau:
a) Cầu hãng lớn:
- Cầu nhiều dịp và chiều dài bằng hoặc hơn 100m;
- Cầu nhiều dịp và chiều dài từ 80m đến 100m; nhưng tối thiểu có một dịp dài bằng hoặc hơn 16m;
- Cầu một dịp dài bằng hoặc hơn 30m.
b) Cầu hạng vừa:
- Cần nhiều dịp và chiều dài từ trên 30m đến dưới 100m;
- Cầu nhiều dịp chiều dài dưới 30m nhưng có một dịp dài trên 10m;
- Cầu một dịp dài từ trên 10m đến 30m
c) Cầu hạng nhỏ:
- Cầu nhiều dịp dài bằng hoặc dưới 30m, các dịp cầu đều dài bằng hoặc dưới 10m.
- Cầu một dịp dài bằng hoặc dưới 10m.
Điều 21. – Phân biệt cầu và cống như sau:
a) Cầu là những công trình có khẩu độ từ 3m trở lên, không có đất đắp lên trên, nếu có thì bề dày đất đắp kể cả mặt đường không quá 0,50m.
Những công trình vòm mà khẩu độ trên 6m, dù lớn đất đắp lên trên dày hơn 0,50m cũng gọi là cầu.
b) Cống là những công trình có khẩu độ từ 3m trở xuống. Những công trình có khẩu độ từ 3m đến 6m mà bề dày đất đắp kể cả mặt đường trên 0,50m cũng gọi là cống.
Điều 22. - Chiều dài của công trình là chiều dài đo theo mặt trên của công trình.
Tâm của công trình là chiều dài đo từ tim gối này qua tim gối kia của công trình.
Khẩu độ của công trình là khoảng trống từ mố này qua mố kia của công trình.
Điều 23. – Công tác sửa chữa thường xuyên các công trình cầu gồm có:
a) Giữ gìn sạch sẽ các bộ phận của công trình; thông cống, đóng đinh ván cầu; xiết bu lông; cho dầu mỡ.
b) Sửa chữa hoặc thay đổi một vài tấm ván mặt cầu, một vài lan can, tay vịn.
c) Sơn một vài bộ phận nhỏ như bu-lông, ri-vê.
d) Sửa chữa mặt cầu cho bằng phẳng, thoát nước.
e) Sửa chữa đường vào đầu cầu cho bằng phẳng với mặt cầu.
g) Sửa chữa hoặc thay thế các bộ phận cá biệt ngẫu nhiên hư hỏng, hoặc để đề phòng hư hỏng.
h) Thay một số đinh ri-vê, bu-lông hay các bộ phận khác không phức tạp.
i) Quét lại thuốc phòng mục các bộ phận bằng gỗ.
k) Sửa chữa mạch vữa ở tường cánh gà, mố và trụ cầu; sửa chữa những hư hỏng nhỏ các bộ phận bằng đá, bằng bê-tông hoặc bê-tông cốt thép.
l) Thay một số ván mặt cầu, một số ván băng lăn, chắn bánh xe, lan can, tay vịn.
m) Thay lẻ tẻ các bộ phận khác của cầu không phức tạp.
n) Làm cống gỗ.
Điều 24. - Giới hạn thuộc phạm vi bến phà gồm có:
a) Đường ô-tô từ biển báo hiệu của bến bên này đến biển báo hiệu của bến bên kia.
b) Bờ sông trong phạm vi 100m về phía thượng lưu bến phà và 100m về phía hạ lưu bến phà.
Điều 25. – Công tác sửa chữa thường xuyên bến phà, phà, và ca-nô gồm có:
a) Về mùa khô:
- Sửa chữa nhỏ đường xuống phà;
- Thay thế một vài tấm ván phà, ca-nô;
- Sắm sửa, thay thế chèo, sào, giây cáp, giây neo, pu-li xích;
- Cạo rêu bám mạn phà, ca-nô (một tháng một lần), tưới nước cho gỗ được ẩm khỏi nứt nẻ và các mạch xảm được kín.
Ở các bến phà chỉ dùng trong mùa mưa, thì mùa khô phải tìm chỗ nước sâu để dìm phà. Ở vùng có nước mặn, nếu vì một lý do gì mà phà không dùng thì phải kích lên chỗ cao ráo, cạo hà, sơn lườn phà và ca-nô; có mái che mưa nắng và phải trông nom thường xuyên.
b) Về mùa mưa:
- Thay đổi vị trí cọc, xích phà thích hợp với tình hình sông nước.
- Luôn luôn chú ý tát nước phà, ca-nô;
- Chuẩn bị chỗ dấu phà và ca-nô khi lụt bão;
- Thường xuyên kiểm tra cột căng dây cáp, cho dầu mỡ dây cáp và pu-li.
c) Đối với máy ca-nô:
- Hàng ngày: thường xuyên kiểm tra các bộ phận của máy, cho dầu, thử lái, tiếp điện;
- Sau 100 giờ máy chạy; thay dầu mỡ toàn bộ, thay dầu máy, bơm mỡ, xem lại nước bình điện và thêm hoặc thay nếu cần. Kiểm tra và sửa chữa nhỏ các bộ phận bên ngoài;
- Sau 300 giờ máy chạy: xem lại bi-en, hạ bi-en nếu cần, xem lại hơi nén của máy;
- Sau 1000 giờ máy chạy: rà lại xu-páp, xiết lại ốc, kiểm tra máy, xem lại séc-măng, cạo ống hút hơi, nắn trục bị cong, chân vịt vẹo.
4. Nhà cửa và thiết bị an toàn:
Điều 26. – Công tác sửa chữa thường xuyên nhà cửa và thiết bị an toàn gồm có:
a) Giữ gìn sạch sẽ nhà cửa của cán bộ công nhân ở, tu bổ vườn, bảo vệ cây trong vườn.
b) Về mùa mưa, lũ, bão, bảo vệ nhà cửa khỏi dột, sụp đổ.
c) Bảo vệ, chăm sóc thường xuyên cây trồng hai bên đường; thay cây chết; chăm sóc vườn hoa.
d) Trồng cây lại cột số, sơn, kẻ chữ lại và trồng lại biển báo hiệu; quét nước vôi các cọc tiêu, hàng rào an ninh, tường chắn…
e) Bảo quản, tu sửa thường xuyên các dụng cụ, phương tiện vận chuyển, máy móc, thiết bị thường dùng trong công tác hàng ngày, các dụng cụ tập thể, bàn ghế, giường tủ…
Điều 27. – Công tác sửa chữa vừa mặt đường và nền đường gồm có:
a) Mặt đường:
- Rải mặt đường cấp phối, đá dăm theo lối xáo xới từng đoạn có thêm vật liệu mới từ 100 đến 250 lit/mét đường.
b) Nền đường:
- Đắp phụ nền đường bị khuyết liệt, khối lượng đất đào đắp không quá 300m3/cây số;
- Sửa lại toàn bộ rãnh dọc và rãnh ngang; đào thêm rãnh thoát nước; sửa chữa rãnh thoát nước;
- Sửa chữa đường ngầm, xếp thêm đá, đóng thêm cọc, củng cố các cũi bằng gỗ bỏ đá hộc, xây lại kè bảo vệ mép đường;
- Sửa chữa các chỗ nền đường bị hư hỏng nặng do mưa lũ hay một nguyên nhân nào khác; hốt đất trụt khối lượng không quá 30m3.
Điều 28. – Công tác sửa chữa vừa các công trình cầu cống gồm có:
a) Sửa chữa, thay thế một số rầm, cọc, nạnh chống, gỗ gối. Thay thế toàn bộ ván mặt cầu, băng lăn, lan can, tay vịn.
b) Sửa chữa những chỗ nứt vỡ ở mặt cầu bê-tông, nối cốt thép mới để thay cốt thép bị han rỉ nhiều.
c) Thay thế một số bộ phận hư hỏng của cầu sắt.
d) Sơn phòng rỉ toàn bộ cầu sắt thép, hoặc toàn bộ các bộ phận sắt thép của các cầu khác.
e) Sửa chữa mố trụ bị nứt rạn.
g) Phòng mục lại toàn bộ cầu gỗ. Phòng hà các bộ phận bằng gỗ mà lúc làm mới chưa được phòng hà.
Điều 29. – Công tác sửa chữa vừa bến phà, phà, ca-nô gồm có:
a) Bến phà:
Sửa chữa, củng cố bến phà cũ, rải lại mặt đường xuống bến phà.
b) Phà, ca-nô:
Sửa chữa các bộ phận của phà, vỏ ca-nô, phòng hà phà và vỏ ca-nô, thui xãm thường kỳ phà và vỏ ca-nô (bến nước ngọt: sáu tháng một lần; bến nước mặn: bốn tháng một lần; bến nước giao: ba tháng một lần). Thay đáy phà, đáy ca-nô, mui ca-nô.
c) Máy ca- nô:
Sau 2500 giờ máy chạy, xét lại toàn bộ máy và nếu cần thì doa xi-lanh, thay toàn bộ séc-măng, thay pit-tông, thay xu-páp, làm lại bi-en và pa-li-e. Thay các bộ phận hư hỏng thay trục, chân vịt, côn số…
4. Nhà cửa và các thiết bị an toàn.
Điều 30. – Công tác sửa chữa nhà cửa và các thiết bị an toàn gồm có:
a) Sửa chữa toàn bộ nóc nhà.
b) Sửa chữa tường ngăn cách các phòng.
c) Thay cửa chính và cửa sổ.
d) Làm lại hàng rào, giếng nước.
e) Làm thêm các thiết bị trong nhà (bàn, ghế, giường, tủ, v.v…)
g) Làm thêm nhà phụ thuộc (nhà bếp,nhà xí,nhà tắm...)
h) Làm mới cột cây số, biển báo hiệu, các thiết bị an toàn khác.
Điều 31. – Công tác sửa chữa lớn mặt đường gồm có:
a) Rải lại mặt đường cấp phối, đá dăm, đá ong có phụ thêm đá móng hoặc không phụ.
b) Cuốc đi rải lại mặt đường nhựa quá hư hỏng bằng đá dăm hoặc cấp phối.
c) Rải lại bằng đá dăm bùn lên mặt đường cấp phối hay đá dăm nước, hoặc rải lại bằng đá dăm nước trên mặt đường, đá dăm bùn, tuỳ theo yêu cầu của mặt đường và nguyên vật liệu.
d) Láng nhựa mặt đường nhựa bạc đầu, rạn chân chim.
Điều 32. – Công tác sửa chữa lớn nền đường gồm có:
a) Đắp phụ nền đường bị khuyết liệt, mở rộng, tôn cao, nắn cong, hạ dốc (có kết hợp cải thiện tiêu chuẩn cấp đường với những đoạn ngắn lẻ tẻ) khối lượng đất đào đắp không quá 500m3/cây số.
b) Xây dựng những công trình và thiết bị phòng đất trụt lở, phòng nước ngầm lầy lội.
c) Xây dựng kè bằng đá.
d) Hốt đất trụt hoặc những đoạn đường sắp trụt khối lượng trên 300m3/cây số.
e) Xây lại hoặc làm mới đường ngầm.
g) Xây dựng các công trình phụ thuộc để bảo vệ các công trình lớn để với kinh phí không quá mười nghìn đồng 10.000đ.
Điều 33. – Công tác sửa chữa lớn cầu, cống gồm có:
a) Sửa chữa và tăng cường cầu, cống hư hỏng trên cơ sở cũ, mở rộng và xây dựng các thiết bị bảo vệ nhằm nâng cao tiêu chuẩn công trình.
Những công tác dưới đây cũng được coi như là công tác sửa chữa lớn cầu, cống:
b) Khôi phục cầu hạng trung trên cơ sở mố trụ cũ sẵn có, kinh phí không quá sáu mươi nghìn đồng (60.000đ).
c) Làm mới cầu gỗ các loại;
d) Làm cầu bàn vĩnh cửu và vĩnh cửu khẩu độ từ 12m trở xuống, kinh phí không quá sáu mươi nghìn đồng (60.000đ).
e) Làm mới các loại cống đúc, cống xây, cống tứ bất dụng, cống bê-tông và bê-tông cốt thép.
Điều 34. – Công tác sửa chữa lớn bến phà, phà, ca-nô gồm có:
a) Bến phà:
- Xây dựng lại bến phà cũ, xây thêm, sửa chữa và mở rộng để cải thiện bến phà với kinh phí từ năm mươi nghìn đồng (50.000đ) trở xuống. Hốt bùn, cát bồi lấp bến phà.
b) Phà và ca- nô:
Đóng lại phà và vỏ ca-nô bằng gỗ (tháo phà và ca-nô cũ đã qua sửa chữa vừa, sử dụng vật liệu cũ còn tốt và thêm vật liệu mới để đóng lại).
c) Máy ca- nô:
Sau 5.000 giờ máy chạy: thay và sửa chữa lớn các bộ phận của máy, kể cả tay lái và chân vịt.
Điều 35. – Công tác sửa chữa lớn nhà cửa gồm có:
a) Sửa chữa toàn bộ nhà ở của các Cung, Hạt, Đoạn, bến phà, có mở rộng và làm thêm nhà phụ thuộc, nhà bếp, nhà tắm, nhà xí.
b) Làm nhà ở cho cán bộ công nhân Đoạn, Hạt, Cung, bến phà, kinh phí không quá mười nghìn đồng (10.000đ)
Công nhân sửa chữa đường cần phải tuần tra và xem xét để khai thông các thiết bị thoát nước kịp thời (rãnh thoát nước dọc theo đường, rãnh xương cá ngang lề đường rãnh đỉnh trên ta -luy, cống ngầm…)
Khi dọn rãnh thoát nước thì nên dọn từ cửa nước chạy ra rồi dần dần lên phía trên, và phải dọn các rãnh cho đúng hình cắt ngang cũ và độ dốc cũ. Nếu cần thì tăng hay giảm độ dốc (tăng độ dốc là để nước thoát mau chóng, giảm độ dốc là để giảm bớt tốc độ nước chạy xói lòng rãnh có thể làm trụt ta-luy rãnh).
1. Mặt đường đất:
Điều 45. – Công tác chăm nom sửa chữa mặt đường đất qua các mùa:
a) Sau mùa mưa, đường đất thường thường có nhiều ổ gà và vệt lăn bánh xe do trong mùa mưa mặt đường ẩm ướt mà bị tổn hại. Đến lúc mặt đường khô ráo những vệt lăn bánh xe và ổ gà làm cho mặt đường rất xấu, xe chạy khó khăn.
Phương pháp sửa chữa là dùng đất tại chỗ mà lấp các ổ gà, rồi dùng xẻng mà cạo mặt đường cho bằng phẳng, làm mất hết các chỗ lồi lõm: Nếu có máy san thì dùng mà san mặt đường cho bằng phẳng.
b) Trong mùa nắng to, đất quá khô, xe chạy cạo đất mặt đường thành bụi làm hư hại mặt đường, do đó cần phải tưới nước rồi dùng trục lăn mà nén, nếu có trục máy càng tốt.
Chuẩn bị vật liệu để chống đường trơn và chống lầy cho mùa mưa sắp tới.
Muốn sửa chữa những đoạn lầy lội nghiêm trọng, cần phải điều tra nghiên cứu kỹ tình hình thiên nhiên và quá trình những biến đổi của lầy lội để định ra biện pháp cụ thể.
Điều 49. – Nguyên nhân lầy lội và tình trạng lầy lội được xác định như sau:
a) Nguyên nhân lầy lội về mặt xây dựng là do thiết kế và thi công không đúng kỹ thuật, cụ thể là:
- Sự cấu tạo của mặt đường và nền đường không thích ứng với nhu cầu lưu lượng và sức nặng của xe cộ;
- Dùng những vật liệu không tốt để làm mặt đường.
- Không xây dựng đầy đủ thiết bị thoát nước;
- Ở những vùng đồng bằng thoát nước khó khăn, mức nước lụt cao nhưng bề cao nền đường không đủ.
b) Nguyên nhân lầy lội về mặt chăm nom sửa chữa là do không chu đáo, không theo đúng quy tắc, cụ thể là:
- Cỏ mọc đầy rãnh làm cho nước ứ tắc; ta-luy đổ trụt, rãnh ngầm không thông mặt đường, lề đường gồ ghề không bằng phẳng, không có độ nghiêng làm cho nước không thoát được, mặt đường ẩm ướt;
- Trâu kéo gỗ dọc theo đường; xe quẹt, xe bò, xe ngựa vành bánh sắt nhỏ bản, máy kéo bánh xích đi trên đường, cây mọc hai bên đường quá rậm rạp che kín mặt đường làm cho mặt đường trời mưa ẩm ướt, trời nắng lâu khô;
- Không chú trọng đến các đoạn đường lầy lội để chuẩn bị vật liệu cần thiết cho việc chống lầy kịp thời.
Điều 50. – Phương pháp để phòng và chống lầy lội:
a) Ở những đoạn đường mà độ dốc tương đối nhỏ (1-2%) hoặc những đoạn đường nhiều dốc thì cứ cách 50m phải có một rãnh thoát nước từ rãnh dọc ra ngoài.
b) Mặt đường khi nào cũng phải bằng phẳng có mui luyện cần thiết từ 3 đến 4% để việc thoát nước được dễ dàng; trên mặt đường không có nước ứ đọng.
c) Mỗi khi xe chạy gây thành những vệt sâu theo lằn bánh xe thì cần phải san phẳng và sửa chữa bằng cách gia cố thêm số lượng vật liệu, hay gia cố với vật liệu tốt hơn.
d) Trên những đoạn đường lầy lội nghiêm trọng chưa có thể sửa chữa hay ổn định ngay được thì có thể dùng mấy phương pháp sau đây:
- Vét hết bùn, cho cát xuống đầm nện kỹ; làm rảnh xương cá thoát nước (dùng cát to hạt không pha đất);
- Vét hết bùn, xây đá hộc cỡ 15 x 20cm, đổ sỏi sạn hay đá dăm, chèn các lỗ, kẽ;
- Làm cầu cạn rồi đổ lên trên một lớp cát hay sỏi.
Điều 51. – Gia cố mặt đường đất:
a) Qua các mùa tuy có phương pháp sửa chữa thường xuyên nhưng cũng khó bảo đảm cho xe chạy thuận lợi, cho nên đối với loại đường đất cần cải thiện hoặc làm vững chắc bằng cách gia cố với vật liệu sẵn có tại chỗ;
- Mặt đường là đất sét, đến mùa mưa, ẩm ướt trơn lầy, thì nên dùng cát to hạt, đá cuội, sạn, sỏi, gạch ngói vụn, xỉ lò cao, đất sét nung.
- Ở những đoạn đường đất cát đến mùa nắng sinh bụi thì dùng đất sét nhão mà gia cố;
b) Bề dày gia cố, tuỳ theo chất đất xấu tốt của đường và lưu lượng xe cộ mà quyết định.
- Nếu lượng xe chạy tương đối nhiều trên những đoạn đường đất đắp thì bề dày có thể là 20cm.
- Nếu lượng xe chạy ít và ở những đoạn đất đào thì bề dày độ 15cm;
- Trong mọi trường hợp, bề dày gia cố tối thiểu phải là 10cm.
2. Mặt đường cấp phối;
Do đó, mặt đường cấp phối phải được giữ gìn với độ ẩm thích hợp. Mùa khô cần phải tưới nước; mùa mưa phải làm cho thoát nước để mặt đường được khô ráo; và trong cả hai mùa cần rải lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm với sỏi nhỏ hạt từ 2 đến 5mm. Cần chú ý luôn luôn quét vào lòng đường lớp sỏi bảo vệ bị xe chạy làm văng ra rìa đường.
a) Nếu bề dầy cấp phối còn thích hợp, thì không cần thêm vật liệu.
Quét sạch tất cả các tạp vật trên đường.
Xới mặt đường, thêm chất dính, trộn đều, san bằng có mui luyện 3 – 4%.
- Tưới nước và dầm nện, nếu có trục nặng 5T mà lên thì tốt;
- Rải lớp bảo vệ dày từ 5 đến 8mm với sỏi hạt nhỏ từ 2 đến 5mm.
b) Nếu bề dày cấp phối không còn thích hợp, thì cần phải thêm vật liệu:
- Chuẩn bị vật liệu để vá ổ gà và để rải lớp dầy thêm;
- Vá các ổ gà;
- Quét sạch các tạp vật trên mặt đường;
- Rải lớp dày thêm độ 3 đến 6cm;
- Rải lớp bảo vệ.
3. Mặt đường đá dăm:
Điều 57. – Mặt đường đá dăm có ổ gà sửa chữa theo những phương pháp sau đây:
- Bới sạch những đất đá nằm lỏng chỏng trong lòng ổ gà, những hòn đá to thì đập thành đá nhỏ độ 2cm;
- Đào vuông cạnh đứng thành; đào sâu hơn bề sâu ổ gà tối thiểu là 2cm và bề sâu tối thiểu của ổ gà sau khi đã đào thêm phải là 8-10cm, lúc đào phải để lại ở đáy ổ gà một lớp đá cũ;
- Đắp đá mới cỡ 3 – 4cm cho đầy ổ gà, tưới nước và đầm nện thật chặt;
- Dùng đá nhỏ cỡ 2cm (đá cũ đã đập sẵn nói trên chèn cho các kẽ hở cho chắc chắn);
- Rải và quét chất dính vào đầy các kẽ hở của đá, tưới nước và đầm nện, làm độ ba bận cho chất dính lấp đầy các kẽ;
- Rải lên trên cùng một lớp cát to hạt, đầy độ 5 – 8mm và đầm lại.
Điều 60. – Vá ổ gà thì nên dùng đá cùng một loại với đá cũ của mặt đường. Đá thường dùng có ba loại:
- Đá hoa cương,
- Đá cối xay,
- Đá vôi.
Loại đá vôi thích hợp và phổ biến hơn cả.
Phương pháp rải xáo xới như sau:
a) Trường hợp mặt đường có nhiều ổ gà sâu:
- Cuốc toàn bộ mặt đường lên, nhưng phải để lại một lớp đá cũ dày 3 – 7cm;
- Vá các ổ gà;
- San đá cũ cho đều, có mui luyện;
- Rải đá mới lên trên, san đều, có mui luyện;
- Tiến hành lu lèn theo quy phạm rải đá dăm.
b) Trường hợp mặt đường bong đá, ổ gà cạn:
- Cuốc toàn bộ mặt đường, nhưng phải để lại một lớp đá cũ dày độ 3 – 7cm;
- San đá cũ cho đều, có mui luyện;
- Rải đá mới lên trên, san đều, có mui luyện.
- Tiến hành lu lèn theo quy phạm rải đá dăm.
Phương pháp tiến hành công tác như sau:
- Vá ổ gà nếu có;
- Sửa chữa mặt đường cũ cho có mui luyện cần thiết, bằng cách đào chân khay hai mét đường đứng thành, bề sâu bằng bề dầy lớp đá sắp rải, gọt mui luyện;
- Cuốc từng rãnh ngang trên mặt đường cũ, cứ cách 0,50m một rãnh, mục đích là để cho lớp đá mới gắn liền với mặt đá cũ;
- Tiến hành rải lớp đá mới theo quy phạm rải mặt đường đá dăm.
4. Mặt đường đá ong:
Điều 63. – Mặt đường đá ong về mùa nắng sinh nhiều bụi, cho nên cần chú ý thường xuyên tưới nước.
Về mùa mưa mặt đường có thể trơn lầy cần bảo đảm mui luyện để thoát nước dễ dàng, giữ mặt đường được khô ráo.
Điều 66. – Vá ổ gà trên mặt đường đá ong tiến hành như sau:
- Quét dọn hết tạp vật và sỏi ong rời rạc trong ổ gà;
- Đào vuông cạnh đứng thành, sâu hơn bề sâu của ổ gà 2cm; và bề sâu tối thiểu của ổ gà sau khi đã được đào thêm phải là 5cm.
Dùng sỏi ong cùng một loại với sỏi ong của mặt đường cho vào ổ gà, tưới nước, đầm nện thật kỹ.
Phương pháp tiến hành rải lớp mới như sau:
- Vá ổ gà nếu có.
- Cuốc chân khay mép đường bề sâu bằng bề dày lớp mới định rải.
- Gọt mui luyện 3 – 4%.
- Tưới nước cho ẩm mặt đường cũ, rải vật liệu mới, san đều, có mui luyện, tưới nước và dùng lu 5T lèn đến độ 3T5 m3/cây số.
5. Mặt đường nhựa.
Để đề phòng hư hỏng mặt đường nhựa lúc trời nắng, cần dự trữ hai bên đường sỏi cỡ 5 – 15mm hoặc đá mạt để lúc nào thấy nhựa chớm chảy thì té ra mặt đường. Luôn luôn quét vun thành đống những sạn sỏi do xe chạy gạt ra hai bên đường để rồi té trả lại trên mặt đường.
Công tác vá ổ gà mặt đường đá dăm rải nhựa tiến hành như sau:
Phương pháp thứ nhất:
a) Tiến hành vá ổ gà như vá ổ gà đá dăm thường.
b) Sau khi vá ổ gà bằng đá dăm xong, tuỳ theo tình hình mặt đường cũ đã được rải nhựa thấm sâu, thấm nửa chừng, hoặc mới thấm trên mặt mà tiến hành rải nhựa mới.
- Nếu mặt đường rải nhựa đã thấm sâu và thấm nửa chừng thì sau khi vá ổ gà bằng đá dăm rồi, không cho chất dính vào kẽ đá, mà đổ nhựa cho đầy các kẽ hở của đá.
Nếu mặt đường rải nhựa mới thấm trên mặt thi cho chất dính vào các kẽ hở của đá như vá ổ gà thường nhưng chữa lại độ 5 – 8mm bề sâu các kẽ đá và rải nhựa lên trên.
- Sau khi rải nhựa xong, rải ngay sỏi cỡ 5 – 15mm lên trên và đầm nện.
Phương pháp thứ hai:
a) Đào lòng ổ gà cũng như chuẩn bị vá ổ gà thường.
b) Trộn nhựa với sỏi và cát tỷ lệ: (sỏi 10 phần, nhựa 3 phần, cát 0,3 phần) đắp vào ổ gà và đầm nện.
Trong cả hai phương pháp, có thể dùng nhựa đặc hay nhựa nước. Nhựa đặc thì phải nấu và trộn nóng. Nhựa nước thì trộn nguội. Trộn nóng hoặc trộn nguội đều phải rải nguội. Nhựa đặc thì chỉ rải được lúc trời nắng ráo; nhựa nước thì rải được cả lúc trời mưa nhỏ.
Điều 73. – Sau mỗi trận mưa, có nước đọng trên mặt cầu thì phải lập tức quét cho khô ráo.
Điều 76. – Đối với cầu gỗ, phải luôn luôn lấy nấm và cạo mối.
Điều 80. – Để phòng hoả trên các cầu gỗ, cần chú ý những điểm sau đây:
Cấm đốt lửa cách cầu dưới 100m; cấm dụi tàn lửa lên cầu.
- Không được rải những chất dễ cháy trên mặt cầu.
- Cấm phơi cỏ, rơm rạ…trên cầu.
- Trên cầu và trong lòng cống, sau khi làm xong công việc sửa chữa thì phải quét dọn sạch sẽ gỗ vụn, mùn cưa, vỏ bào…
Nguyên nhân chủ yếu phát triển nấm là do trong tế bào gỗ có chất đường và chất bột là những chất chủ yếu nuôi nấm. Do đó các công trình mới làm bằng gỗ cần được phòng mục để giữ công trình được bền, chắc.
a) Phương pháp thứ nhất: Ngâm gỗ dưới nước ngọt (ao, hồ) một thời gian để chất đường và bột tan trong nước như vậy nấm không tìm được thức ăn để nuôi sống, do đó gỗ sẽ không bị mục. Ngâm xong phải để gỗ khô rồi mới dùng.
Phương pháp này là một phương pháp cổ truyền, ít tốn kém, nhưng mất nhiều thời gian (từ sáu tháng đến một năm).
b) Phương pháp thứ hai: Quét thuốc cao phòng mục. Có nhiều thứ cao nhưng hiện nay thứ cao phòng mục làm bằng bộ NAF là phổ biến hơn cả.
Công thức cao bột NAF như sau:
- Bột NAF 50%
- Nhựa đường số 4 40%
- Dầu hoả xấu hoặc ma-dút 10%
Tiêu chuẩn quét cao trung bình là từ 700gr đến 900gr/m2.
Vấn đề phòng mọt và chống mọt rất khó khăn và phức tạp, ta chưa có điều kiện làm được; chỉ dùng phương pháp cổ truyền là ngâm gỗ vào nước ngọt độ sáu tháng đến một năm, đem lên phơi thật khô trước khi dùng.
Mối sinh ra và phát triển, trước hết ở đất ẩm ướt, đất xốp, đất có lộn nhiều cây, cỏ, lá mục. Vì vậy, chống mối có mấy việc phải làm:
- Đất tiếp giáp với công trình phải là đất tốt, đầm nền kỹ;
- Các cọc gỗ tiếp giáp với đất, nếu có điều kiện và xét cần thiết thì phải bọc bằng bê- tông cao khỏi mặt đất độ 30 – 40cm;
- Các bộ phận rầm, ván, sau khi đã phòng mục rồi thì phải sơn phòng nước thật kỹ;
- Luôn luôn theo dõi để cạo mối kịp thời.
Riêng đối với cầu sắt ở vùng nước mặn, cần thường xuyên kiểm tra (sáu tháng một lần) để kịp thời có biện pháp chống rỉ.
Cầu sắt thép mới làm thì phải sơn toàn bộ và sau đó trung bình ba năm sơn lại một lần. Kỳ hạn này không cố định và có thể ngắn hơn đối với cầu ở vùng nước mặn. Hơn nữa, kỳ hạn này cũng còn phụ thuộc vào kỹ thuật cạo rỉ trước khi sơn và kỹ thuật sơn.
Tất cả những khe hở, những chỗ nối không được tốt giữa các thanh cầu, có thể làm đọng nước, gió khó lọt vào, thì phải dùng sơn đặc mà bít kín.
Những chỗ lõm vì bị rỉ ăn mòn hoặc vì bị va chạm, thì phải trát sơn cho bằng mặt.
Lớp sơn cũ hoặc rỉ sắt không cạo sạch thì việc phòng rỉ sẽ không có kết quả; mà còn tác hại hơn vì rỉ sẽ ăn loang dần dưới lớp sơn mới gây hư hại cho cầu mà không phát hiện được kịp thời. Do đó cạo rỉ là một việc rất quan trọng cần đặc biệt chú ý trong công tác sơn cầu.
Trong khi kiểm tra công tác chuẩn bị nói trên còn cần chú ý đến các hiện tượng không tốt của cầu, như vết nứt, bu-lông lỏng, ri-vê lỏng… để kịp thời sửa chữa trước khi sơn.
Nếu có vết nứt thì tuỳ tình hình của vết nứt và tầm quan trọng của bộ phận bị nứt mà quyết định phương pháp sửa chữa: hoặc thay thế cả thanh sắt, hoặc hàn lại các vết nứt.
Trình tự sơn là trước hết sơn lớp hồng đơn, xong quết hai lớp sơn xám. Lớp dưới phải thật khô mới được sơn lớp trên và tối thiểu phải để 24 giờ mới sơn lớp trên. Lớp trên hoàn toàn che kín lớp dưới. Nếu không quy định mầu sơn đặc biệt thì nên dùng màu sắc sáng sủa để vừa đẹp mắt, vừa dễ kiểm tra, vừa giảm bớt ảnh hưởng của nhiệt độ ánh sáng mặt trời đối với sắt thép. Màu xám nhạt thích hợp hơn cả.
Trên các bộ phận của cầu đã sơn, không được để sót một chỗ nào không sơn. Lớp sơn phải thật đều, không có vết răn hoặc còn đọng lại từng giọt.
Điều 94. – Các phương pháp phòng hà và chống hà như sau:
a) Phương pháp thứ nhất: “Nấu nóng, ngâm lạnh” với hai loại thuốc phèn xanh và xút.
- Dùng 4 máng bằng gỗ chứa được những thanh gỗ dài nhất và lớn nhất của công trình cộng thêm thuốc pha chế, ngập lút gỗ.
Một máng đựng phèn xanh với nước nóng 600C
Một máng đựng phèn xanh với nước lã tỷ lệ 10 – 20% phèn xanh + 90 – 80% nước.
Một máng đựng xút với nước nóng 600C.
Một máng đựng xút với nước lã tỷ lệ 3 – 4% xút + 97 – 96% nước.
- Cho gỗ vào máng phèn xanh nóng 600C đúng 15 phút lấy ra cho vào máng phèn xanh lạnh đúng 5 phút. Vớt gỗ ra để 48 giờ cho gỗ thật khô. Chuyển gỗ vào máng xút nóng 600C đúng 15 phút lấy ra cho vào máng xút lạnh đúng 5 phút vớt ra để 48 giờ cho khô.
Nếu thấy thuốc thấm vào gỗ độ 1cm5 – 2cm (trừ gỗ tứ thiết có thể ít hơn) là được. Trường hợp thuốc thấm chưa đủ độ dày như trên thì phải làm lại như trước.
Sau khi phòng hà được rồi thì để 48 giờ cho gỗ thật khô, rồi sơn phòng nước bằng hắc ín.
b) Phương pháp thứ hai: Trường hợp cột cầu gỗ đã làm rồi bị hà ăn thì dùng phương pháp sau đây để diệt hà và phòng hà:
- Dùng ống lù bê-tông cốt thép dầy 5cm làm thành hai mảng bao xung quanh cột cầu; giữa ống bê-tông và cột đổ bê-tông (1m3 cát + 200Kg xi-măng + 150Kg đất sét bột + 250 lít nước).
- Có thể bọc cột gỗ bằng ống đồ gốm hoặc đồ sành nung chín như kiểu ống bọc xi- măng, hoặc bọc kẽm lá giữa lớp kẽm lá và cột gỗ, đệm một lớp giấy tẩm nhựa đường.
c) Phương pháp thứ ba: Dùng hoá chất. Có nhiều loại hoá chất dùng để phòng trừ hà có hiệu quả như: cơ-rê-ô-zôt, nap-te-nat, sun-phát đồng. Dùng cơ-rê-ô-zôt hoặc sun-phát đồng với tỷ lệ 10, 15, 20, 25%. Sau đó dùng xút để không bị hoà tan khi gặp nước.
7. Phòng nước mặn phá hoại công trình bê-tông:
Điều 95. - Muốn bảo vệ công trình bê-tông khỏi bị hư hại vì nước mặn phải:
- Tìm một loại xi-măng chống được sự phá hoại của nước biển;
- Cải tiến phẩm chất bê-tông để chống lại sự phá hại của nước biển;
- Tìm biện pháp bảo vệ cốt thép chống rỉ, do nước biển;
- Nghiên cứu thêm về mặt kết cấu công trình ở biển để công trình chịu đựng được với sự phá hoại của nước mặn.
Điều 96. – Đối với công trình mới bằng bê-tông ở nước mặn.
- Dùng loại xi-măng Pu-dơ-lan Sơn-Tây có 30% Pu-dơ-lan (xi-măng Pooc-lăng ngâm trong nước biển bị phá hoại hơn là xi-măng Pu-dơ-lan). Đối với công trình bê-tông không cốt thép, như móng kè, thì dùng loại xi-măng này càng có tác dụng tốt.
Chú ý đặc biệt cải tiến phẩm chất bê-tông, chủ yếu là đúc bê-tông thật đông đặc và đầm thật chặt để không ngấm nước. Do đó, đối với công trình quan trọng cần chọn vật liệu có phẩm chất tốt, nghiên cứu thành phần bê-tông thích hợp, sử dụng lượng nước ít, tỷ lệ nước xi-măng thấp, tận dụng cách trộn và dầm bằng máy nếu có, tận dụng hoá chất dẻo.
- Đảm bảo đúng phương pháp thi công, bảo dưỡng bê-tông thật cẩn thận, và tranh thủ thời gian để bê-tông được bảo dưỡng lâu trong không khí;
- Tăng lớp bê-tông bao bọc cốt thép từ 4 đến 8cm ở những bộ phận tiếp xúc với nước mặn. Cốt thép phải được soát lại và sửa sang bố trí đúng theo quy định, trước khi đúc bê-tông.
Nếu điều kiện cho phép, bao thêm một lớp phòng nước bên ngoài như nhựa đường hoặc loại phòng nước khác có hiệu quả, trước khi bê-tông tiếp xúc với nước mặn.
Điều 97. – Đối với công trình cũ bằng bê-tông ở nước mặn:
- Thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ để phát hiện kịp thời những rạn nứt hư hỏng và có biện pháp sửa chữa thích hợp;
- Lớp phòng nước (như nhựa đường) lâu năm có thể bị hao mất, cần chú ý sơn lại ở những nơi có thể sơn được;
- Đối với công trình đã bị phá hoại nghiêm trọng như vỡ bê-tông, rỉ ăn đứt cốt thép, tuỳ tình hình cụ thể mà quyết định phương pháp sửa chữa. Có thể đục bỏ bê-tông bị hư hỏng, cạo sạch rỉ hoặc cắt bỏ những đoạn cốt thép bị rỉ nhiều, và thay cốt thép mới vào, dùng máy phun xi-măng vào các khe hở, các góc nhỏ và ốp thêm bê-tông ép chặt lại ở các lỗ to.
8. Khe hở co dãn nhiệt độ, co đệm cọ xát và con đệm xoay:
Phải luôn luôn xem xét và bồi đắp tu sửa các vật liệu đệm, vì nếu để hư hỏng, nước mưa lọt vào để gây tác hại lớn và việc sửa chữa sẽ phức tạp và tốn kém.
Mặt cọ xát và trục xoay nên luôn luôn cho dầu nhờn để các bộ phận ấy có tác dụng đầy đủ. Trước khi bôi trơn dầu nhờn, cần chú ý lau chùi thật sạch sẽ bụi đất và rác rưởi.
BẾN PHÀ, PHÀ – CA-NÔ PHÒNG HÀ VÀ CHỐNG HÀ ĐỐI VỚI PHÀ VÀ VỎ CA-NÔ
a) Đối với phà hoặc vỏ ca-nô mới đóng xong chưa dùng, thì dùng thuốc mà quét trên gỗ ba lần. Quét nóng đến quét lạnh như phương pháp ngâm.
b) Đối với phà hoặc vỏ ca-nô đã dùng và mới bị hà chớm ăn thì tiến hành như sau:
- Kéo phà hoặc vỏ ca-nô thui như thường lệ; thui xong, cạo cho hết than trên gỗ.
- Lật úp phà hoặc vỏ ca-nô lại và dùng thuốc quét cho được ba lần, quét đáy và quét mạn phà hoặc vỏ ca-nô.
Quét thuốc phòng hà xong, nếu có điều kiện và vật liệu thì dùng kẽm bọc đáy phà và mạn phà cũng như đáy ca-nô và mạn ca-nô ngang mớn nước.
Điều 105. - Tổ chức sản xuất trực thuộc các đoạn bảo dưỡng gồm có:
- Các hạt đường,
- Các hạt cầu,
- Các bến phà.
Dưới các hạt, tổ chức thành cung.
Đối với các công trình cầu, nơi nào có dưới 300m cầu sắt thì không có tổ chức hạt cầu, mà bố trí một tổ công nhân chuyên trách trực thuộc đoạn.
Công nhân sửa chữa đường,
Công nhân sửa chữa cầu,
Công nhân thuỷ thủ phà.
- Tiêu chuẩn định viên công nhân sửa chữa đường sẽ căn cứ vào điều kiện kỹ thuật của từng loại đường, hoàn cảnh địa lý và tình hình lưu lượng xe chạy hàng ngay trên từng đoạn đường, tuyến đường để xác định;
- Tiêu chuẩn định viên công nhân sửa chữa cầu sẽ căn cứ vào số lượng và chiều dài các cầu thuộc các đoạn, điều kiện kỹ thuật của từng loại cầu và tình hình lưu lượng xe chạy hàng ngày trên các đoạn đường để xác định;
- Tiêu chuẩn định viên công nhân thuỷ thủ phà sẽ căn cứ vào lưu lượng xe qua phà, số lượng phà, ca-nô, chiều rộng sông nước và tốc độ nước chảy của từng bến để xác định;
Điều 107. - Đoạn bảo dưỡng đường có những nhiệm vụ như sau:
a) Tổ chức việc sửa chữa thường xuyên đường sá, nhằm giữ gìn tốt đường, cầu, phà, nhà cửa và các thiết bị an toàn trên đường để bảo đảm giao thông vận tải được thông suốt, an toàn và không ngừng nâng cao năng lực phục vụ của đường sá, đúng theo các quy định của bản chế độ này.
b) Tiến hành việc đăng ký, tuần tra thường xuyên để nắm vững tình trạng đường, cầu, phà, kịp thời phát hiện những chỗ hư hỏng và có kế hoạch sửa chữa kịp thời.
c) Quản lý tốt các bến phà trên các tuyến đường thuộc địa phận mình, bảo đảm sự qua lại của phương tiện vận tải, người và súc vật được an toàn, nhanh chóng, thuận tiện.
d) Tổ chức việc trồng cây, khai thác, tận dụng đất ven đường, làm cho đường sá được tốt đẹp, bền, đồng thời thu hoa lợi ven đường, thực hiện dần phương châm lấy đường nuôi đường.
e) Thu tiền cước qua phà các khoản phí tổn sửa đường trong địa phương mình.
g) Nghiệm thu các công trình sau khi đã được sửa chữa vừa hoặc sửa chữa lớn trên các đường thuộc phạm vi quản lý của mình và các công trình xây dựng mới giao cho đoạn mình quản lý.
h) Tuyên truyền giáo dục nhân dân tuân theo các luật lệ giao thông, chính sách bảo dưỡng đường; theo dõi kiểm tra việc thi hành các luật lệ chính sách đó.
i) Trong điều kiện có thể, tổ chức việc hướng dẫn giúp đỡ nhân dân thuộc khu vực ven đường xây dựng, phát triển và củng cố đường sá nông thôn.
k) Tổ chức và vận động nhân dân tham gia công tác bảo vệ đường, cầu phà, chống âm mưu phá hoại của địch, chống mưa lũ để bảo đảm giao thông.
Điều 108. – Đối với công tác phà, bến phà còn có nhiệm vụ:
- Bảo đảm vận chuyển xe ô-tô qua sống bất cứ lúc nào, phấn đấu để thực hiện khẩu hiệu “phà chờ xe, xe không chờ phà” trừ những bến khó khăn, những bến không thường xuyên do Bộ Giao thông vận tải quy định riêng và những trường hợp xét nguy hiểm như lụt bão;
- Theo dõi tốc độ sang ngang, mức nước bến phà, mức tiêu thụ xăng, dầu, mỡ của ca-nô, lưu lượng xe qua phà;
- Xây dựng nội quy và đôn đốc việc thi hành nghiêm chỉnh nội quy bến phà.
Quy mô tổ chức sẽ do Bộ Giao thông vận tải quyết định tuỳ theo kế hoạch dài hạn của Nhà nước phê chuẩn.
a) Kiểm tra thường xuyên;
- Dự tính những hư hỏng sẽ phát sinh để dễ phòng trước và phát hiện những hư hỏng để có biện pháp sửa chữa.
Đôn đốc, hướng dẫn thực hiện những công tác sửa chữa thường xuyên đã đề ra hàng tháng, hàng quý, chú trọng công tác trọng tâm và trọng điểm từng mùa.
Mỗi lần kiểm tra, cán bộ phụ trách kiểm tra phải lập biên bản kiểm tra cụ thể gửi về cho Sở, Ty Giao thông địa phương.
Việc kiểm tra thường xuyên phải chú trọng tất cả các bộ phận của công trình kỹ thuật.
b) Kiểm tra định kỳ:
- Một kỳ trước khi lập kế hoạch sửa chữa vừa và sửa chữa lớn hàng năm;
- Một kỳ trước mùa mưa lũ để lập kế hoạch bảo vệ công trình và bảo đảm giao thông trong mùa mưa lũ sắp đến;
- Một kỳ sau mùa mưa lũ để xác định tình hình cầu đường và lập kế hoạch sửa chữa.
Biên bản kiểm tra phải gửi về cho Cục vận tải đường bộ.
c) Kiểm tra bất thường:
Điều 115. – Công tác kiểm tra bất thường được tiến hành trong những trường hợp sau đây:
- Nghiệm thu cầu mới.
- Nghiệm thu cầu sau khi đã được sửa chữa lớn hoặc khôi phục.
- Khi cầu có hiện tượng đáng nghi về sức chịu đựng của cầu không rõ ràng, cần xác định lại.
- Khi cầu xẩy ra trường hợp nguy hiểm bất ngờ.
Điều 116. - Việc phân công kiểm tra bất thường quy định như sau:
- Đối với cầu làm mới, khôi phục hay sửa chữa lớn;
- Cục vận tải đường bộ nghiệm thu các cầu hạng lớn.
- Sở Giao thông nghiệm thu cầu hạng vừa.
Trường hợp không có Sở Giao thông thì các Cục phụ trách.
- Ty Giao thông nghiệm thu cầu hạng nhỏ.
Đối với những cầu có hiện tượng yếu hoặc hư hỏng bất ngờ:
- Ty Giao thông phụ trách kiểm tra các trường hợp này.
Nếu xét thấy cần cấp trên kiểm tra thì Cục và Sở Giao thông phối hợp kiểm tra lại.
- Cục và Sở Giao thông phụ trách xác định trọng tải đối với cầu bê-tông cũ.
3. Một số chế độ cần lưu ý trong công tác sửa chữa.
a) Bảo vệ an toàn lao động:
Đối với mỗi loại công tác, cần phải có một nội quy thích ứng để bảo vệ an toàn lao động cho cán bộ và công nhân trực tiếp sản xuất, cũng như để tránh tai nạn xảy ra đối với nhân dân nói chung.
b) Bảo vệ an toàn giao thông:
Ban hành kèm theo Quyết định số 1077-QĐ ngày 15-9-1962
- 1Thông tư liên tịch 236-TTLT năm 1983 hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát vốn quản lý và sửa chữa cầu đường bộ do Bộ Giao thông vận tải; Bộ Tài chính ban hành
- 2Công văn 7594/VPCP-KTN năm 2014 dự thảo quyết định về thực hiện thí điểm cơ chế đặc thù trong công tác sửa chữa định kỳ công trình đường bộ do Văn phòng Chính phủ ban hành
- 1Thông tư liên tịch 236-TTLT năm 1983 hướng dẫn chế độ quản lý, cấp phát vốn quản lý và sửa chữa cầu đường bộ do Bộ Giao thông vận tải; Bộ Tài chính ban hành
- 2Công văn 7594/VPCP-KTN năm 2014 dự thảo quyết định về thực hiện thí điểm cơ chế đặc thù trong công tác sửa chữa định kỳ công trình đường bộ do Văn phòng Chính phủ ban hành
Quyết định 1077-QĐ năm 1962 ban hành chế độ quản lý, sửa chữa đường ô tô do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành
- Số hiệu: 1077-QĐ
- Loại văn bản: Quyết định
- Ngày ban hành: 15/09/1962
- Nơi ban hành: Bộ Giao thông vận tải
- Người ký: Dương Bạch Liên
- Ngày công báo: 26/12/1962
- Số công báo: Số 47
- Ngày hiệu lực: 15/09/1962
- Tình trạng hiệu lực: Còn hiệu lực