Hệ thống pháp luật

CHÍNH PHỦ
********

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********

Số: 08/2005/NQ-CP

Hà Nội, ngày 07 tháng 7 năm 2005

NGHỊ QUYẾT

CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 08/2005/NQ-CP NGÀY 07 THÁNG 7 NĂM 2005 VỀ PHIÊN HỌP THƯỜNG KỲ THÁNG 6 NĂM 2005

Trong hai ngày 30 tháng 6 và 01 tháng 7 năm 2005, Chính phủ họp phiên thường kỳ tháng 6, đã thảo luận và quyết nghị những vấn đề sau:

1. Chính phủ nghe Bộ trưởng, Chủ nhiệm Uỷ ban thể dục thể thao báo cáo về Chương trình nâng cao thể lực và tầm vóc con người Việt Nam (bằng giải pháp dinh dưỡng và thể dục thể thao).

Trong nhiều năm qua, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã rất quan tâm, chú trọng đến vấn đề phát triển chất lượng dân số. Tuy nhiên, hiện nay so với chuẩn quốc tế, chiều cao, thể lực và sức bền của thanh niên Việt Nam còn rất hạn chế. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực về thể lực và tầm vóc con người Việt Nam đã có một chương trình tổng thể triển khai đồng bộ các giải pháp, trong đó có giải pháp về dinh dưỡng và thể dục thể thao.

Giao Uỷ ban Thể dục thể thao chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em cùng các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến của các thành viên Chính phủ hoàn chỉnh nội dung Chương trình, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Chương trình phải bảo đảm tính toàn diện; gắn với chiến lược phát triển tổng thể con người Việt Nam, với môi trường lao động, sản xuất, với xã hội và gia đình; động viên được toàn xã hội đầu tư, tham gia chăm sóc, nâng cao thể lực và tầm vóc con người Việt Nam.

2. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Bưu chính Viễn thông trình dự án Luật Công nghệ thông tin; nghe Báo cáo của Văn phòng Chính phủ tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự án Luật.

Công nghệ thông tin có vai trò quan trọng trong việc phát huy hiệu quả năng lực, trí tuệ của con người; làm thay đổi căn bản phương pháp quản lý, phương pháp học tập và làm việc. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều văn bản định hướng chỉ đạo và tập trung nguồn lực cho phát triển công nghệ thông tin. Do vậy, trong những năm qua, việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin ở nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Mạng viễn thông đã phủ rộng trên cả nước với chất lượng cao, số người sử dụng điện thoại di động và Internet tăng nhanh; trên 50% các Bộ, ngành và 80% các tỉnh,. thành phố trực thuộc Trung ương đã có trang tin điện tử, 100% các trường đại học và hơn 90% các trường trung học phổ thông đã kết nối Internet. Tuy nhiên, đến nay các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động công nghệ thông tin còn tản mạn, thiếu đồng bộ, hiệu quả và hiệu lực thấp. Luật Công nghệ thông tin được ban hành sẽ tạo hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo điều kiện cho công nghệ thông tin phát triển, phục vụ tốt hơn sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đồng thời, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực này.

Giao Bộ Bưu chính, Viễn thông chủ trì phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh dự án Luật. Bộ trưởng Bộ Bưu chính, Viễn thông thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội dự án luật này.

3. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội trình dự án Luật Bảo hiểm xã hội; nghe Báo cáo của Văn phòng Chính phủ tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về dự án Luật.

Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, ngày càng được phát triền vững chắc, ổn định qua các thời kỳ; đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội ngày càng mở rộng. Tuy vậy, đến nay hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo hiểm xã hội còn tản mạn, chồng chéo và đa số là văn bản dưới Luật. Để pháp điển hoá các quy định hiện hành và bổ sung, sửa đổi những chính sách mới phù hợp với sự phát triển của đất nước, bảo đảm quyền lợi của người lao động, việc ban hành Luật Bảo hiểm xã hội là thực sự cần thiết.

Giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ hoàn chỉnh dự án Luật. Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thừa uỷ quyền Thủ tướng Chính phủ trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự án Luật này.

4. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình dự án Luật Đầu tư và dự án Luật Doanh nghiệp (thống nhất); nghe Báo cáo của Văn phòng Chính phủ tổng hợp ý kiến các thành viên Chính phủ về hai dự án luật.

Thực hiện công cuộc đổi mới, xây dựng thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trong những năm qua Nhà nước đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến đầu tư và doanh nghiệp; đã thể chế hoá kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới kinh tế, hoàn thiện môi trường kinh doanh, hình thành khung pháp lý quan trọng điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực đầu tư và doanh nhiệp, góp phần tạo nên thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù vậy, việc tách bạch hoạt động đầu tư và doanh nghiệp theo thành phần kinh tế với những chế định khác nhau đã làm nẩy sinh những bất bình đẳng trong đối xử, làm cản trở tốc độ tăng trưởng kinh tế, không thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh. Trước đòi hỏi phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, việc ban hành Luật Đầu tư và Luậl Doanh nghiệp (thống nhất) là rất cấp thiết.

Giao Bộ Kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối hợp với Văn phòng chính phủ, Bộ Tư pháp và các cơ quan liên quan, tiếp thu ý kiến các thành viên Chính phủ, hoàn chỉnh hai dự án luật trên, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Việc hoàn chỉnh hai dự án Luật phải bảo đảm tính kế thừa những quy định còn phù hợp của các Luật trước; việc sửa đổi, bổ sung thêm nội dung mới cần thận trọng, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và lợi ích của nước ta; phải giảm các thủ tục hành chính phiền hà và không làm tăng tổ chức, bộ máy.

5. Chính phủ nghe Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư báo cáo kết quả giao ban sản xuất, xuất nhập khẩu, đầu tư tháng 6 và tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2005, các giải pháp trong những tháng cuối năm; xem xét Báo cáo tình hình Thương mại tháng 6 và 6 tháng đầu năm 2005, do Bộ Thương mại trình; Báo cáo Kiểm điểm sự chỉ đạo điều hành của Chính phủ 6 tháng đầu năm 2005, do Văn phòng Chính phủ trình và Báo cáo Công tác cải cách hành chính nhà nước 6 tháng đầu năm và nhiệm vụ trọng tâm 6 tháng cuối năm 2005, do Ban Chỉ đạo Cải cách hành chính của Chính phủ trình.

Trong 6 tháng đầu năm, hạn hán nặng xảy ra ở nhiều địa phương, đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên và Nam Trung bộ, đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, nguy cơ cháy rừng cao; dịch cúm gia cầm tái phát trên phạm vi khá rộng; giá cả luôn có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp... Trước tình hình trên, Chính phủ đã có nhiều đổi mới trong chỉ đạo, điều hành, bám sát thực tế, đề ra các chủ trương, giải pháp phù hợp và tập trung chỉ đạo thực hiện kiên quyết, sát sao. Vì vậy, tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm tiếp tục phát triển và đạt kết quả khá trên nhiều mặt. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,6%. Các cân đối vĩ mô được duy trì ổn định. Công tác hội nhập kinh tế quốc tế được triển khai tích cực; xuất khẩu và dịch vụ phát triển; huy động vốn đầu tư và thu ngân sách tăng. Nhiều tình huống bất thường được giải quyết tốt như: kiềm chế tăng giá cả hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng; khống chế và dập tắt dịch cúm gia cầm; trợ giúp kịp thời, khắc phục hậu quả của hạn hán, khôi phục sản xuất và đời sống nhân dân vùng bị hạn...

Các hoạt động xã hội có bước khởi sắc, đời sống văn hoá được nâng lên và phong phú hơn; công tác xoá đói giảm nghèo tiếp tục được duy trì và phát triển; chất lượng hoạt động giáo dục, y tế có chuyển biến tốt; tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông có xu hướng giảm.

Tuy nhiên, kết quả đạt được trong 6 tháng đầu năm cũng đặt ra nhiệm vụ hết sức nặng nề cho những tháng còn lại của năm 2005 cả về chất lượng, mức tăng trưởng cũng như năng lực cạnh tranh của nền sản xuất. Trước yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và chuẩn bị cho kế hoạch 5 năm 2006 - 2010, Chính phủ yêu cầu, trong 6 tháng cuối năm, các Bộ, ngành và địa phương cần phấn đấu quyết liệt, tháo gỡ khó khăn, tổ chức thực hiện tốt các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội mà Chính phủ đã đề ra trong Nghị quyết số 01/2005/NQ-CP ; tập trung huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy nhanh tiến độ giải ngân, nhất là giải ngân cho các công trình có hiệu quả và sớm phát huy tác dụng, các công trình có nguồn vốn từ trái phiếu Chính phủ; nâng cao hiệu quả sản xuất công nghiệp; thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt và thận trọng; điều hành giá cả phù hợp với cơ chế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường kiểm soát, chống đầu cơ, buôn lậu; đẩy mạnh xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu; tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính theo hướng đẩy mạnh cải cách thể chế, tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh doanh phát triển, đơn giản hoá các thủ tục hành chính có liên quan đến dân và doanh nghiệp; tăng cường công tác thanh tra, kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm; chăm lo cải thiện đời sống người lao động và hưu trí; triển khai mạnh các giải pháp kiềm chế, xử lý các vấn đề xã hội bức xúc như tai nạn Giao thông, tội phạm, ma tuý, mại dâm; giữ vững an ninh, trật tự, an toàn xã hội; trước mắt cần tập trung tổ chức tốt kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng trên cả nước; dự báo và chuẩn bị tốt công tác phòng, chống lụt bão.

Các Bộ, ngành khẩn trương rà soát lại các đề án trong Chương trình công tác của Chính phủ 6 tháng cuối năm, tập trung cho những đề án có tính thiết thực, khả thi; nâng cao trách nhiệm của cơ quan chủ trì soạn thảo, bảo đảm hoàn thành các đề án đúng tiến độ với chất lượng cao.

Nguyễn Tấn Dũng

(Đã ký)

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Nghị quyết số 08/2005/NQ-CP về phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6 năm 2005 do Chính phủ ban hành

  • Số hiệu: 08/2005/NQ-CP
  • Loại văn bản: Nghị quyết
  • Ngày ban hành: 07/07/2005
  • Nơi ban hành: Chính phủ
  • Người ký: Nguyễn Tấn Dũng
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Từ số 20 đến số 21
  • Ngày hiệu lực: 02/08/2005
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản