HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ |
Số: 38-CP | Hà Nội, ngày 08 tháng 03 năm 1962 |
BAN HÀNH ĐIỀU LỆ VỀ XẾP DỠ, GIAO NHÂN, VẬN CHUYỂN VÀ BẢO QUẢN HÀNG HÓA Ở CẢNG HẢI PHÒNG
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Để đáp ứng yêu cầu giao lưu hàng hóa ở các cảng ngày càng phát triển;
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải;
Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp Thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày 29 tháng 11 năm 1961;
NGHỊ ĐỊNH:
T.M HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
VỀ VIỆC XẾP, DỠ, VẬN CHUYỂN, GIAO NHẬN VÀ BẢO QUẢN HÀNG HÓA Ở CẢNG HẢI PHÒNG
Các cơ quan, xí nghiệp có tàu, và các cơ quan, xí nghiệp có quan hệ đến việc xuất nhập khẩu hàng hóa hoặc có hàng qua Cảng, đều có nhiệm vụ cùng nhau cộng tác chặt chẽ để thực hiện mọi điều khoản quy định trong bản điều lệ này, nhằm mục đích phục vụ cho công tác xuất nhập khẩu hàng hóa qua Cảng được tốt.
Việc xếp, dỡ hàng hoá trong phạm vi Cảng, việc vận chuyển hàng hóa từ kho, bãi Cảng ra tàu, và ngược lại, đều do cảng đảm nhiệm, chủ hàng không được đưa công nhân và phương tiện, dụng cụ của mình vào Cảng làm công việc này.
Cảng Hải phòng đảm nhiệm cả việc vận chuyển hàng hóa từ Cảng về đến những kho của chủ hàng ở trong phạm vi thành phố Hải phòng và từ những kho ấy tới Cảng.
Các cơ quan nói trên có nhiệm vụ tham gia các buổi họp do Cảng triệu tập để bàn kế hoạch chung và nghiêm chỉnh thực hiện nghị quyết của các cuộc họp đó.
Các cuộc hội nghị này phải được chuẩn bị chu đáo để đến lúc họp, mọi vấn đề đều được giải quyết nhanh chóng và thiết thực.
- Ký kết với Cảng hợp đồng dỡ hàng nhập khẩu trong những trường hợp mà theo hợp đồng vận tải tàu phải đảm nhiệm việc dỡ hàng.
- Báo cho Cảng giờ tàu vào Cảng;
- Cung cấp cho Cảng tình hình tàu và tình hình hàng nhập khẩu.
- Giúp đỡ mọi sự giao dịch giữa tàu với Cảng và với các chủ hàng trong thời gian tầu đỗ ở Cảng;
- Đại diện cho hãng tàu giao dịch với các chủ hàng, các cơ quan Nhà nước và với Cảng để giải quyết mọi công việc cần thiết của hãng tàu.
Điều 6: - Các cơ quan có hàng xuất nhập khẩu có nhiệm vụ:
- Ký kết các hợp đồng xếp dỡ hàng hóa với Cảng;
- Chuẩn bị kịp thời và tốt các hàng hóa xuất khẩu;
- Phối hợp với Cảng và Công ty đại lý tàu biển, theo dõi, kiểm tra việc xếp, dỡ hàng hoá;
- Cung cấp cho Cảng những tài liệu cần thiết về hàng hóa của mỗi chuyến tàu.
CÔNG TÁC CHUẨN BỊ CHO VIỆC XẾP, DỠ, GIAO, NHẬN HÀNG HOÁ
Sau khi đã ký kết hợp đồng dài hạn hoặc ngắn hạn, mỗi khi có một chuyến hàng giao hay nhận chủ hàng hoặc Công ty đại lý tàu biển chỉ cần báo cho Cảng và cung cấp những tài liệu về chuyến hàng đó như quy định ở điều 14 dưới đây.
Trường hợp có những chuyến hàng bất thường, không nằm trong hợp đồng dài hạn hay ngắn hạn đã ký kết, chủ hàng hoặc Công ty đại lý tàu biển cũng phải ký hợp đồng với Cảng và cung cấp những tài liệu như quy định ở điều 14.
Trong trường hợp đặc biệt, chủ hàng hoặc Công ty đại lý tàu biển có thể yêu cầu điều chỉnh kế hoạch nhưng phải chính thức báo cho Cảng biết chậm nhất là 8 tiếng đồng hồ trước giờ phải thực hiện kế hoạch điều chỉnh. Mọi phí tổn về thay đổi kế hoạch hàng hóa này thuộc về chủ hàng hoặc Công ty đại lý tàu biển chịu.
Về phía Cảng, nếu xét thấy cần phải giải phóng cầu tàu hay kho hàng, Cảng có quyền thay đổi kế hoạch xếp, dỡ hàng và địa điểm xếp, dỡ.
Khi tàu đã cập bến, Cảng căn cứ vào kế hoạch xếp, dỡ và giao nhận hàng hóa mà giao dịch với Công ty đại lý tàu biển và thuyền trưởng các tàu để tiến hành việc xếp, dỡ. Nếu trong thời gian nay, chủ hàng muốn thay đổi kế hoạch thì phải thỏa thuận với Cảng và Công ty đại lý tàu biển mà không giao dịch thẳng với thuyền trưởng.
Đối với hàng đóng bao, những thứ hàng cùng một loại, cùng một nhãn hiệu, cùng một vận đơn phải đóng bao với khuôn khổ và trọng lượng giống nhau để dễ bốc dỡ, vận chuyển và kiểm soát.
Hàng đóng bao chỉ được đóng đến mức tối đa mỗi bao 70kg.
Các bao, kiện hàng phải có ký hiệu, mã hiệu rõ ràng để thuận tiện cho việc giao nhận và xếp, dỡ. Nếu vì ký hiệu, mã hiệu ghi sai hay không rõ mà Cảng giao nhận nhầm hay chậm trễ, thì Cảng không chịu trách nhiệm. Ngoài ra nếu vì ký hiệu, mã hiệu ghi sai mà Cảng xếp lẫn lộn với những loại hàng kỵ nhau, do đó mà hàng bị hư hỏng, thì chủ hàng phải chịu trách nhiệm và có thể phải bồi thường mọi sự thiệt hại cho Cảng.
Đối với những loại hàng nguy hiểm, (chất nổ, chất dễ bốc cháy, chất độc), hàng dễ vỡ, kỵ ẩm ướt hàng không được để lộn đầu, v.v… các bao kiện phải có những dấu hiệu riêng để công nhân xếp, dỡ biết và có biện pháp bảo vệ thích hợp. Những dấu hiệu này phải là dấu hiệu thống nhất do Bộ Giao thông vận tải quy định. Nếu vì bao kiện không có dấu hiệu, hoặc dấu hiệu sai, do đó khi xếp, dỡ, vận chuyển, hàng bị hư hỏng thì Cảng không chịu trách nhiệm.
a) Tàu ở nước ngoài đến: Công ty đại lý tàu biển báo 2 lần, lần thứ nhất chậm nhất là 48 tiếng đồng hồ, lần thứ hai (xác báo) chậm nhất là 24 tiếng đồng hồ trước giờ tàu đến địa điểm lấy hoa tiêu.
b) Tàu biển chuyên chở trong nước: thuyền trưởng báo 2 lần, lần thứ nhất chậm nhất là 12 tiếng đồng hồ, lần thứ hai (xác báo) chậm nhất là 6 tiếng đồng hồ trước giờ tàu tới Cảng. Những tàu không có phương tiện thông tin vô tuyến điện chỉ phải báo một lần, khi tàu khởi hành ở cảng gần nhất để đi đến cảng Hải phòng.
c) Xe lửa vào Cảng: cơ quan Đường sắt hữu quan phải báo 1 lần, chậm nhất là 3 tiếng đồng hồ trước giờ xe lửa đến Cảng.
Sau khi đã báo giờ tàu biển và xe lửa đến Cảng, nếu vì một lý do nào mà không tới hay tới chậm, thì cơ quan có trách nhiệm phải báo cáo cho Cảng biết, chậm nhất là:
- 8 tiếng đồng hồ trước giờ đã báo, đối với tàu ở nước ngoài tới.
- 2 tiếng đồng hồ trước giờ đã báo, đối với tàu chạy trong nước, trừ tàu không có phương tiện thông tin vô tuyến điện.
- 1 tiếng đồng hồ trước giờ đã báo, đối với xe lửa.
Nếu người báo tin không làm đúng những điều quy định trên đây khiến cho công tác chuẩn bị của Cảng không làm được chu đáo và kịp thời, do đó mà gây ra thiệt hại, thì người báo tin phải chịu trách nhiệm về những thiệt hại đó.
Điều 14: - Việc cung cấp cho Cảng những tài liệu về hàng hóa quy định như sau:
a) Hàng chuyên chở trong nước: ngay sau khi phương tiện đến, thuyền trưởng phải báo cho Cảng biết khối lượng hàng hóa chuyên chở, và nếu là tàu và sà lan, thì thuyền trưởng phải cung cấp 2 bản sơ đồ xếp hàng.
b) Hàng nhập khẩu: chậm nhất là 24 tiếng đồng hồ trước giờ tàu đến địa điểm hoa tiêu, Công ty đại lý tàu biển phải giao cho Cảng 2 bản lược khai hàng, 2 bản sơ đồ xếp hàng (1 bản sơ lược, 1 bản chi tiết) và 1 bản trích dịch những điều khoản của hợp đồng thuê tàu cho liên quan đến việc giao nhận, xếp dỡ hàng hoá. Chủ hàng phải cho Cảng biết khối lượng hàng hóa định để ở kho, bãi của Cảng và khối lượng dịch chuyển thẳng về kho của mình. Nếu có những kiện hàng to quá khổ, và nặng trên 3 tấn, hoặc đòi hỏi những biện pháp xếp, dỡ và bảo quản đặc biệt, thì chủ hàng cũng phải báo cho Cảng biết trước.
c) Hàng xuất khẩu: chậm nhất là 24 tiếng đồng hồ trước giờ tàu đến địa điểm hoa tiêu, chủ hàng phải giao cho Cảng 2 bản kê khai hàng hóa xuất khẩu và cho biết nơi tập trung hàng. Trước khi xếp hàng xuống tàu, Công ty đại lý tàu biển phải giao cho Cảng 2 bản sơ đồ xếp hàng.
Đối với những bao, kiện hàng bị hư hỏng hay có dấu vết bị mất mát phát hiện trong khi dỡ hàng, thì chỉ cho bốc ra khỏi tàu sau khi có sự chứng nhận của thuyền trưởng và được cơ quan Hải quan đồng ý. Các bao kiện này bốc ra khỏi tàu không được chuyển thẳng vào kho, bãi của Cảng, phải đem tập trung ở cầu tàu để lập biên bản sau mỗi ca bốc dỡ. Biên bản này phải do thuyền trưởng và người phụ trách kho hàng cùng ký.
Điều 19: - Dỡ xong mỗi chuyến hàng nhập khẩu, Cảng và tàu kết toán với nhau.
Việc xem xét tình hình hàng hóa, hầm tàu, việc kiểm hàng trong khi xếp hoặc dỡ những hàng hoá vận chuyển trong nước chở qua Cảng đều phải theo như những nguyên tắc đã quy định ở điều 16 và 17.
B. Cảng giao hàng cho chủ hàng.
Điều 22: - a) Khi tới Cảng nhận hàng, chủ hàng phải xuất trình:
- Phiếu giao hàng
- Giấy khai hàng gửi kho.
- Giấy phép của Hải quan.
b) Chủ hàng lấy hàng ra phải lấy luôn một lúc tất cả số hàng mà cơ quan Ngoại thương đã phân phối cho mình trong một vận đơn. Cảng không giao làm nhiều lần cho nhiều chủ hàng khác nhau đối với những loại hàng gửi chung trong một kiện hàng hoặc trong một bó hàng.
c) Khi chủ hàng đến lấy hàng ra, Cảng phải giao liên tục tất cả số hàng mà cơ quan Ngoại thương đã phân phối cho chủ hàng trong vận đơn. Nếu vì thiếu sót của Cảng mà việc giao hàng bị gián đoạn, chủ hàng phải chờ đợi, tốn kém, thì không những Cảng không được tính tiền để kho, bãi trong thời gian không giao được hàng, mà còn phải trả cho chủ hàng tiền phí tổn về chờ đợi.
Đới với những kiện hàng mà tàu giao thiếu, Cảng có nhiệm vụ cung cấp cho chủ hàng phiếu chứng nhận thiếu hàng.
Thuyền trưởng phải lo có đủ ánh sáng ở trong hầm tàu và ở những nơi cần thiết trên tàu để công nhân làm việc. Nếu thiếu ánh sáng, thì tàu có thể thuê đèn của Cảng.
GỬI HÀNG Ở KHO, BÃI CỦA CẢNG VÀ BẢO QUẢN HÀNG HOÁ
Điều 31: - a) Cảng nhận để ở kho, bãi tất cả những hàng hóa qua Cảng, trừ những loại hàng sau đây:
a1. Hàng quý giá như vàng, bạc, ngọc thạch, v.v…
a2. Hàng thuộc loại nguy hiểm (như chất nổ, chất độc, chất dễ bốc cháy, chất phóng xạ) các vật, phẩm hôi thối v.v…
a3. Động vật sống như trâu, bò, ngựa, lợn, gà, vịt v.v…
a4. Hàng mau hư, để ươn thối như hoa quả tươi, tôm cá tươi, trứng gà, trứng vịt, v.v…
Hàng hóa thuộc loại a2 trên đây nếu là hàng xuất thì phải chuyển thẳng xuống tàu ngay khi hàng đưa đến Cảng; nếu là hàng nhập thì đưa thẳng về kho của chủ hàng ngay khi dỡ ở tàu ra.
Đối với hàng hóa thuộc loại a3 và a4, chủ hàng được phép để ở kho, bãi của Cảng trong một thời gian ngắn, không quá 24 tiếng đồng hồ, để tập trung đưa xuống tàu hay chuyển ra khỏi Cảng. Trong trường hợp này, Cảng không thu tiền gửi kho, gửi bãi, nhưng chủ hàng phải trả cho Cảng những phí tổn về việc thu dọn và làm vệ sinh nơi tập trung hàng hóa.
b) Hành lý xuất nhập khẩu không mang theo người mà giao cho tàu chuyên chở như hàng hóa thì được gửi kho như các loại hàng hóa khác.
c) Hàng hóa nặng, cồng kềnh thuộc loại có thể để ở ngoài trời mà không bị hư hỏng như than, gỗ, hắc ín, sắt, thép …thì không được gửi trong kho mà phải để ở bãi hay sân kho.
- Hàng xuất khẩu: 20 ngày.
- Hàng nhập khẩu loại thông thường 15 ngày
- Hàng nhập khẩu quá khổ hay quá nặng, vận chuyển khó khăn: 30 ngày.
Nếu quá thời hạn trên mà chủ hàng không lấy hàng ra khỏi bãi của Cảng thì phải chịu trả tiền phạt luỹ tiến như đã quy định trong điều lệ Cảng phí.
Đối với một số kho, bãi của Cảng dùng cho thuê dài hạn, thì chủ hàng và Cảng sẽ ký hợp đồng thuê kho, bãi.
Trong khi hàng để ở kho, bãi, nếu phát hiện ra hàng hóa hư hỏng hay có triệu chứng sắp bị hư hỏng, Cảng phải báo ngay cho chủ hàng đến giải quyết. 7 ngày sau ngày báo, nếu chủ hàng không đến giải quyết, thì Cảng cho thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn ngừa và hạn chế thiệt hại.
Cảng cùng với cơ quan Hải quan có quyền mở các bao, kiện hàng bị hư hỏng để tu sửa, và khi đã tu sửa xong, Cảng đóng lại các bao, kiện, đóng dấu và niêm phong. Chủ có hàng phải chịu mọi phí tổn về việc tu sửa hàng và bảo quản những hàng hóa cần phải đề phòng hư hỏng trong thời gian hàng để ở kho, bãi của Cảng. Các phí tổn này do Cảng kê khai và có cơ quan Hải quan chứng nhận.
b) Cảng không phải bồi thường trong những trường hợp dưới đây:
- Hàng bị thiệt hại, hư hỏng trong những trường hợp mà Cảng đã nổ lực thi hành mọi biện pháp tích cực nhưng không sao tránh được.
- Hàng hư hỏng, biến chất vì tính chất của hàng, vì thời tiết.
- Hàng trong bao, kiện bị mất mà bao kiện không có dấu vết bị mở, đai và dấu xi niêm phòng còn nguyên vẹn.
- Xếp, dỡ, vận chuyển quá thời hạn quy định vì mưa, bão làm gián đoạn công việc, hoặc vì những lý do không phải Cảng gây ra.
Về mức độ hư hỏng cũng như về trị giá các bộ phận bị mất mát nói ở điều 37, nếu hai bên không thỏa thuận được với nhau, thì phải yêu cầu cơ quan giám định xác định.
Điều 42: - Thủ tục về việc bồi thường quy định như sau:
a) Chủ hàng đòi bồi thường về hàng hóa hư hỏng mất mát phải gửi giấy yêu cầu bồi thường cho Cảng chậm nhất là 5 ngày sau ngày nhận hàng hoá kèm theo những giấy tờ cần thiết như: chứng nhận giám định, biên bản hàng đỗ vỡ, giấy khai hàng, phiếu nhận hàng, hoá đơn mua hàng, biên lai nộp thuế, v.v… Chậm nhất là 20 ngày sau ngày nhận được giấy yêu cầu bồi thường, Cảng phải bồi thường, hoặc trả lời cho chủ hàng nếu không bồi thường.
b) Chủ hàng đòi Cảng bồi thường về xếp, dỡ chậm trễ phải gửi giấy yêu cầu bồi thường chậm nhất là 3 ngày sau ngày hoàn thành việc xếp dỡ. Cảng phải bồi thường chậm nhất là 20 ngày sau ngày nhận được giấy yêu cầu bồi thường. Nếu Cảng không nhận bồi thường, thì trong thời hạn 5 ngày, Cảng phải trả lời cho chủ hàng biết.
c) Cảng đòi bồi thường về những tổn thất do chủ hàng hay tàu gây ra phải gửi giấy yêu cầu bồi thường chậm nhất là 5 ngày sau ngày phát hiện ra thiệt hại. Chủ hàng hoặc tàu phải giải quyết bồi thường cho Cảng trong hạn 20 ngày. Nếu chủ hàng hay tàu không nhận bồi thường, thì phải trả lời cho Cảng trong thời hạn 5 ngày sau khi nhận được giấy của Cảng.
b) Mọi tranh chấp giữa Cảng và tàu nước ngoài về việc xếp, dỡ, giao nhận hàng hoá đều do cơ quan Trọng tài hàng hải xử lý.
Ban hành kèm theo Nghị định số 38-CP ngày 08-3-1962
- 1Thể lệ tạm thời số 154-NĐ về việc giao nhận, bốc dỡ hàng hóa ở các Cảng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Bộ Giao Thông và Bưu Điện ban hành
- 2Quyết định 207-HĐBT năm 1991 huỷ bỏ các văn bản pháp luật do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- 3Bộ luật Dân sự 1995
- 4Nghị định 330-CP nmă 1981 Quy định về xếp dỡ, giao nhận, bảo quản hàng nhập khẩu ở các cảng biển nước CHXHCN Việt Nam và vận chuyển hàng nhập khẩu từ các cảng tới chủ nhận hàng do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 1Thể lệ tạm thời số 154-NĐ về việc giao nhận, bốc dỡ hàng hóa ở các Cảng của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa do Bộ Giao Thông và Bưu Điện ban hành
- 2Bộ luật Dân sự 1995
- 3Nghị định 330-CP nmă 1981 Quy định về xếp dỡ, giao nhận, bảo quản hàng nhập khẩu ở các cảng biển nước CHXHCN Việt Nam và vận chuyển hàng nhập khẩu từ các cảng tới chủ nhận hàng do Hội đồng Chính phủ ban hành
Nghị định 38-CP năm 1962 ban hành điều lệ về xếp dỡ, giao nhân, vận chuyển và bảo quản hàng hóa ở Cảng Hải phòng do Hội đồng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 38-CP
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày ban hành: 08/03/1962
- Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
- Người ký: Phạm Văn Đồng
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 10
- Ngày hiệu lực: 08/03/1962
- Ngày hết hiệu lực: 04/07/1991
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực