HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ | VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA |
Số: 203-CP | Hà Nội, ngày 19 tháng 11 năm 1962 |
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Theo đề nghị của Bộ Giao thông vận tải;
Căn cứ vào nghị quyết Hội nghị thường vụ của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp ngày 25 tháng 05 năm 1962,
NGHỊ ĐỊNH:
- Xếp loại các phương tiện đi biển, đăng ký và cấp những giấy tờ cần thiết cho các loại phương tiện này;
- Khám xét phương tiện thi biển;
- Kiểm tra việc chấp hành các thể lệ về quản lý phương tiện đi biển, việc bảo đảm phương tiện luôn luôn được tốt và đủ các điều kiện về an toàn và vệ sinh;
- Phối hợp với cơ quan Cảnh sát nhân dân kiểm tra an toàn giao thông đường biển.
Cơ quan, xí nghiệp hay tổ chức nào muốn đóng mới, khôi phục, đổi mới một phương tiện hoặc sửa chữa lớn, làm thay đổi hẳn tính chất chuyên chở của phương tiện đi biển, phải trình cơ quan Giao thông vận tải có thẩm quyền xét duyệt đồ án thiết kế mới trước khi khởi công.
Ngoài trường hợp khám xét để lấy giấy phép đi lại, các phương tiện đi biển còn phải được thường kỳ khám xét lại theo quy định của Bộ Giao thông vận tải. Nếu cơ quan quản lý, cơ quan trực tiếp sử dụng phương tiện hoặc thuyền trưởng yêu cầu thì phương tiện đi biển còn được khám xét bất thường.
Qua việc khám xét, nếu phương tiện đi biển không đủ điều kiện an toàn và vệ sinh, thì cơ quan Giao thông vận tải có quyền tạm thời rút giấy phép đi lại của phương tiện này đến lúc phương tiện đã được sửa chữa.
THUYỀN TRƯỞNG, VÀ CÔNG NHÂN VIÊN LÀM VIỆC TRÊN TÀU
Cơ quan Giao thông vận tải cấp cho mỗi địa phương tiện đi biển một sổ ghi tên công nhân viên trên tàu. Công nhân viên công tác trên mỗi phương tiện đi biển đều phải ghi tên vào sổ ghi tên ấy. Mọi sự thay thế, thêm, bớt công nhân viên trên tầu đều phải được cơ quan Giao thông vận tải có thẩm quyền xét duyệt và chứng nhận vào sổ ghi tên công nhân viên trên tầu.
Riêng đối với các tầu và thuyền đánh cá biển, Bộ Giao thông vận tải và Tổng cục Thủy sản sẽ có quy định riêng về việc khai báo danh sách và về sổ ghi tên công nhân viên trên tầu.
Để quản lý công nhân viên trên tầu được tốt, các cơ quan chủ phương tiện đi biển và cơ quan Giao thông vận tải phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan Công an trong việc sử dụng, cấp “sổ công nhân viên trên tầu” cấp hộ chiếu cho công nhân trên tầu đi ra nước ngoài v .v…
Bộ Giao thông vận tải quy định những điều kiện về việc cấp bằng cho thuyền trưởng, thợ máy, thợ điện, về năng lực của công nhân trên tầu, đồng thời tổ chức việc đào tạo, sát hạch và cấp bằng cho Thuyền trưởng, thợ máy và thợ điện của các phương tiện đi biển. Đối với thuyền trưởng và thợ máy của tầu đánh cá, các việc đào tạo, sát hạch và cấp bằng sẽ do Bộ Giao thông vận tải cùng Tổng cục Thủy sản quy định.
BẢO VỆ LUỒNG LẠCH VÀ CÁC CỬA KHẨU
Điều 9. – Nghiêm cấm tất cả những hành động cản trở giao thông đường biển.
Trừ trường hợp tối cần thiết, phương tiện đi biển không được neo, đậu trong luồng đi lại.
Ở những luồng lớn và những nơi có những phương tiện đi biển qua lại, các đăng, đáy cá và chà rào đánh cả chỉ được cắm theo sự hướng dẫn của cơ quan Giao thông vận tải. Ở những luồng nhỏ, nước nông không có phương tiện đi biển lớn qua lại, thì cơ quan Thủy sản hướng dẫn ngư dân cắm đăng, đáy và chà rào theo đúng quy định của ngành Giao thông để không gây trở ngại cho sự đi lại.
Khi cần làm những công tác như nạo xét luồng lạch, đặt hoặc với phao tiêu v .v… cơ quan có trách nhiệm thi công phải bố trí sắp xếp công việc để giao thông không bị gián đọan hoặc rút ngắn thời gian gián đoạn giao thông đến mức tối thiểu cần thiết, đồng thời phải xin phép Bộ Giao thông vận tải và yết báo ở trên các bến tầu, các cảng.
Nếu thấy trên luồng đi lại có chướng ngại vật không có tín hiệu, người đi biển có nhiệm vụ báo ngay cho cơ quan Giao thông vận tải địa phương hoặc cảng gần nhất biết.
Trong phạm vi của các cảng, không một cơ quan, tổ chức nào được xây dựng bất cứ một công trình nào hoặc đặt bất cứ một thiết bị nào nếu không được Ban Giám đốc Cảng thỏa thuận.
Khi phương tiện đi biển bị đắm hay mắc cạn, người chủ phương tiện có nhiệm vụ trục, vớt phương tiện ấy theo đúng các thủ tục, luật lệ và thời hạn do cơ quan Giao thông vận tải ấn định. Nếu quá thời hạn quy định hoặc chủ phương tiện thiếu dụng cụ trục vớt thì cơ quan Giao thông vận tải có thể tự mình làm việc trục, vớt chủ phương tiện phải chịu mọi phí tổn. Nếu chủ phương tiện đi biển bị đắm hay mắc cạn không muốn trục, vớt hoặc không chịu mọi phí tổn về việc trục vớt thì chủ phương tiện mất quyền sở hữu đối với phương tiện ấy.
Điều 14. – Những cảng sau đây được mở để giao dịch với nước ngoài:
- Cảng Hải-phòng;
- Cảng Hòn-gay;
- Cảng Cẩm-phả;
- Cảng Bến-thủy;
Tàu buôn nước ngoài chỉ được ra vào bốn cảng trên để giao hàng, nhận hàng và chuyên chở hành khách.
Các tầu và thuyền đánh cá của những nước đã được nước Việt-nam dân chủ cộng hòa cho phép đánh cá ở hải phận Việt-nam được đậu ở một số bến khác nữa do Bộ Giao thông vận tảiquy định sau khi đã thỏa thuận với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và Tổng cục Thủy sản.
Nếu vì tránh tai nạn hoặc vì bị hư hỏng mà phương tiện đi biển của nước ngoài bắt buộc phải vào một địa điểm khác thuộc bờ biển của nước Việt-nam dân chủ cộng hòa ngoài những cảng và bến đậu đã quy định, thì Thuyền trưởng phải tìm cách báo ngay cho nhà chức trách địa phương biết và phải chấp hành chỉ thị của nhà chức trách địa phươngvề mặt an ninh, trật tự.
Trong những ngày quốc lễ của nước Việt-nam dân chủ cộng hòa, các phương tiện đi biển nước ngoài đậu ở trong cảng và hải phận của nước Việt-nam dân chủ cộng hòa phải treo quốc kỳ của nước Việt-nam dân chủ cộng hòa.
ĐỀ PHÒNG TAI NẠN VÀ NHIỆM VỤ CỨU TRỢ KHI XẢY RA TAI NẠN
Trong trường hợp hai phương tiện đi biển đâm vào nhau nếu một cái bị hư hại nặng, tính mạng hành khách và công nhân viên trên tàu bị đe dọa, thì cái không bị hư hại hoặc bị hư hại nhẹ phải hết sức cứu vớt hành khách, công nhân viên và tầu bị nạn. Trong tất cả các trường hợp có phương tiện đi biển bị tai nạn, các phương tiện đi biển khác đi qua hoặc nhận được tín hiệu cấp cứu đều có nhiệm vụ cứu cái bị nạn. Phương tiện tham gia vào việc cứu trợ chỉ được rời nơi xẩy ra tai nạn sau khi đã làm xong nhiệm vụ và xét thấy sự có mặt của mình không cần thiết nữa.
Điều 20. – Khi xẩy ra tai nạn, Thuyền trưởng của phương tiện đi biển bị nạn phải tìm mọi cách báo tin ngay cho nhà chức trách địa phương biết và sau đó phải làm báo cáo cụ thể về tình hình tai nạn. Nếu phương tiện đi biển bị nạn có thiết bị thông tin vô tuyến điện, thì phải báo tin ngay cho Cảng Hải-phòng.
Trong trường hợp hai phương tiện đi biển đâm vào nhau, thì cả hai Thuyền trưởng đều phải báo tin và làm báo cáo cho các nhà chức trách như quy định ở trên đây.
CHẤP HÀNH THỂ LỆ XỬ LÝ CÁC VỤ VI PHẠM THỂ LỆ VÀ TRANH CHẤP
a) Nghiêm chỉnh chấp hành những luật lệ về giao thông vận tải đã được ban hành. Những phương tiện đi biển của Quân đội nhân dân và Công an nhân dân vũ trang cũng phải chấp hành đầy đủ những thể lệ về an toàn giao thông đường biển.
b) Chịu sự kiểm soát của các nhà chức trách.
Điều 24. – Những cán bộ sau đây có quyền lập biên bản về các vụ vi phạm thể lệ giao thông:
- Các Thanh tra hàng hải;
- Trưởng ty và Phó ty Cảng vụ và các cán bộ được Trưởng ty Cảng vụ ủy nhiệm;
- Giám đốc, Phó giám đốc Sở Vận tải, Trưởng ty và Phó ty Giao thông và những cán bộ được Giám đốc Sở Vận tải và Trưởng ty Giao thông ủy nhiệm;
- Trưởng ty, Phó ty Công an và các cán bộ được Trưởng ty Công an ủy nhiệm.
Điều 26. – Ông Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải sẽ quy định chi tiết thi hành nghị định này.
TM. HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ |
- 1Quyết định 2116-VP/QĐ năm 1968 về việc ủy quyền kiểm soát, lập biên bản và xử lý các vụ vi phạm điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải thời chiến do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành
- 2Quyết định 207-HĐBT năm 1991 huỷ bỏ các văn bản pháp luật do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- 3Luật Giao thông đường thủy nội địa 2004
- 4Quyết Định 359-QĐ năm 1976 Ban hành bản Điều lệ vận chuyển hành khách bằng tầu biểu chạy trong nước của Bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải
- 1Quyết định 207-HĐBT năm 1991 huỷ bỏ các văn bản pháp luật do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
- 2Quyết định 94-CP năm 1980 sửa đổi Nghị định 203-CP năm 1962 về giao thông vận tải đường biển do Hội đồng Chính phủ ban hành
- 3Quyết định 476-TTg năm 1978 sửa đổi Nghị định 203-CP năm 1962 về giao thông vận tải đường biển[2][1] do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- 1Quyết định 2116-VP/QĐ năm 1968 về việc ủy quyền kiểm soát, lập biên bản và xử lý các vụ vi phạm điều lệ về kỷ luật an toàn giao thông vận tải thời chiến do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ban hành
- 2Luật Giao thông đường thủy nội địa 2004
- 3Quyết Định 359-QĐ năm 1976 Ban hành bản Điều lệ vận chuyển hành khách bằng tầu biểu chạy trong nước của Bộ trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải
Nghị định 203-CP năm 1962 về giao thông vận tải đường biển do Hội đồng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 203-CP
- Loại văn bản: Nghị định
- Ngày ban hành: 19/11/1962
- Nơi ban hành: Hội đồng Chính phủ
- Người ký: Phạm Văn Đồng
- Ngày công báo: 12/12/1962
- Số công báo: Số 45
- Ngày hiệu lực: 04/12/1962
- Ngày hết hiệu lực: 04/07/1991
- Tình trạng hiệu lực: Hết hiệu lực