Hệ thống pháp luật

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƯ
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 4480/BKHĐT-TH

Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2013

 

KHUNG HƯỚNG DẪN XÂY DỰNG

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014

Thực hiện Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 25 tháng 6 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2014, Bộ Kế hoạch và Đầu tư gửi đến quý cơ quan Khung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014(bao gồm các phụ lục mẫu biểu báo cáo kèm theo)[1] như sau:

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013 VÀ KHẢ NĂNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013

Tại Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khoá XIII đã thông qua Nghị quyết số 31/2012/QH13 ngày 08 tháng 11 năm 2012 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, với mục tiêu tổng quát là: Tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô; lạm phát thấp hơn, tăng trưởng cao hơn năm 2012. Đẩy mạnh thực hiện 3 đột phá chiến lược gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường quốc phòng, an ninh và bảo đảm ổn định chính trị - xã hội. Tạo nền tảng phát triển vững chắc hơn cho những năm tiếp theo.

Căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương năm 2013,Thủ tướng Chính phủ đã ra các quyết định giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước và kế hoạch vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước (bao gồm các chương trình mục tiêu quốc gia), vốn trái phiếu Chính phủ năm 2013[2].

Đồng thời với việc giao kế hoạch và dự toán ngân sách nhà nước, ngày 07/01/2013 Chính phủ đã ban hành các Nghị quyết: số 01/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2013; và số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu.

Dưới đây là đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm, dự báo khả năng thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013 và một số giải pháp chủ yếu cần tập trung thực hiện trong 6 tháng cuối năm:

I. VỀ TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2013

Trong 6 tháng đầu năm 2013, dưới sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành trong việc triển khai thực hiện các giải pháp đã đề ra trong các Nghị quyết số 01/NQ-CP, số 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 và Nghị quyết các phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tình hình kinh tế xã hội đã có những chuyển biến bước đầu, tích cực và đúng hướng. Tăng trưởng của hầu hết các ngành, lĩnh vực trong nền kinh tế đều có cải thiện, góp phần làm tăng mức tăng trưởng GDP Quý II lên 5%, cao hơn mức tăng của Quý I và đưa tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm lên 4,9%.Sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến, chế tạo đã có những chuyển biến đáng kể tuy còn nhiều khó khăn. Lĩnh vực dịch vụ tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng cao hơn cùng kỳ và đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng GDP. Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp có cải thiện. Lạm phát tiếp tục được kiềm chế, giá cả, thị trường khá ổn định. Lãi suất giảm mạnh, cùng nhiều biện pháp miễn giảm thuế, giãn thuế,... đã góp phần tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh; thị trường ngoại hối và tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định. Xuất khẩu tiếp tục duy trì đà tăng trưởng cao hơn kế hoạch đề ra;hoạt động nhập khẩu, nhất là nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ đầu tư và sản xuất kinh doanh cải thiện đáng kể; tỷ lệ nhập siêu thấp. An sinh xã hội tiếp tục được bảo đảm; đời sống của người dân, đặc biệt là những người nghèo, người dân tộc thiểu số, người mất việc làm, hộ gia đình bị thu hồi đất sản xuất được quan tâm, các chính sách hỗ trợ cho vay mua nhà ở xã hội, nhà thương mại đối với người có thu nhập thấp đã được triển khai. An ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững;…

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức: kinh tế vĩ mô vẫn chưa thật ổn định; lạm phát tuy được kiềm chế nhưng vẫn còn tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao trở lại; lãi suất tuy giảm nhưng việc tiếp cận vốn vay còn nhiều trở ngại do khó khăn trong việc xử lý nợ xấu; dư nợ tín dụng tăng chậm. Tổng cầu, sức mua vẫn còn yếu. Tổng vốn đầu tư phát triển đạt thấp. Tiến độ thu NSNN không đạt kế hoạch và thấp hơn cùng kỳ các năm trước. Tình hình tai nạn giao thông tiếp tục diễn biến phức tạp, tăng cả về số vụ lẫn số người thương vong so với cùng kỳ năm trước. Đời sống nhân dân, nhất là người nghèo, người mất việc làm, đồng bào dân tộc, vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn.

Dưới đây là tình hình cụ thể về phát triển kinh tế - xã hội 6 tháng đầu năm 2013:

1. Về ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát:

a) Về giá cả, lạm phát:

- Lạm phát tiếp tục được kiềm chế nhờ thực hiện quyết liệt, kiên trì các biện pháp, chính sách kinh tế vĩ mô về tài chính, tiền tệ, tăng cường quản lý giá cả thị trường, cung cầu hàng hoá,... Trong 6 tháng đầu năm 2013, tốc độ tăng giá tiêu dùng có xu hướng giảm. So với tháng trước, chỉ số giá tiêu dùng tháng 1 tăng 1,25%, tháng 2 tăng 1,32%, tháng 3 giảm (-) 0,19%, tháng 4 tăng 0,02%, tháng 5 giảm (-) 0,06%, tháng 6 tăng 0,05%. Chỉ số giá tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2013 tăng 2,4% so với tháng 12/2012. Bên cạnh tác động của các chính sách chủ động kiềm chế lạm phát, có được kết quả nêu trên còn do các yếu tố khác, như:mặt bằng giá thế giới giảm; nguồn cung lương thực dồi dào; tổng cầu thấp, sức mua vẫn còn yếu.

Diễn biến chỉ số giá trong 6 tháng đầu năm cho thấy lạm phát cả năm 2013 có thể kiềm chế thấp hơn năm 2012 và đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra. Tuy nhiên, so với cùng kỳ năm trước, CPI còn ở mức khá cao: CPI tháng 6/2013 tăng 6,69%; bình quân 6 tháng tăng 6,73%.Trong 6 tháng cuối năm vẫn còn có những yếu tố tác động đến mặt bằng giá trong nước, đòi hỏi phải theo dõi, kiểm soát chặt chẽ các cân đối lớn, giá các yếu tố đầu vào quan trọng, như: điện, xăng dầu, phân bón, và giá các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu khác, tăng cường quản lý thị trường.

- Chỉ số giá vàng tháng 6/2013 giảm 7,83%, chỉ số giá đô la Mỹ tăng 0,68% so với cùng kỳ năm trước.

b) Về tiền tệ, tín dụng và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng:

Tổng phương tiện thanh toán (M2) tính đến ngày 20/6/2013ước tăng khoảng 7,1% so với tháng 12/2012 (cùng kỳ tăng 7,51%). Tổng số dư tiền gửi của khách hàng tại các tổ chức tín dụng ước tăng khoảng 8,18% so với cuối năm 2012, trong đó: huy động vốn VND tăng 8,25%, huy động vốn bằng ngoại tệ tăng 7,77%.

Dư nợ tín dụng đối với nền kinh tế tính đến ngày 20/6/2013ước tăng khoảng 3,31% so với cuối năm 2012, cao gấp hơn 2 lần tốc độ tăng của cùng kỳ năm trước (tăng 1,54%). Dư nợ tín dụng bằng VND có sự cải thiện, tăng 6,02%, trong khi đó dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ giảm 9,02%.

Lãi suất trong 6 tháng đầu năm đã được điều hành theo diễn biến kinh tế vĩ mô và biến động của lạm phát. Lãi suất huy động và cho vay có xu hướng giảm[3].

Thị trường ngoại tệ và tỷ giá tương đối ổn định. Dự trữ ngoại hối của Nhà nước tăng cao,bảo đảm đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế và ổn định thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, từ tháng 4 đến nay, tỷ giá có xu hướng tăng do áp lực về cầu ngoại tệ do nhập siêu quay trở lại. Thị trường vàng từng bước được quản lý và bước đầu hoạt động ổn định song chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá vàng quốc tế (quy đổi) vẫn còn ở mức cao.

Về tái cơ cấu hệ thống ngân hàng: Đã cơ bản kiểm soát được tình hình của các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém cần xử lý; khả năng chi trả của các ngân hàng yếu kém được cải thiện đáng kể và quyền lợi của người gửi tiền được bảo đảm, nguy cơ mất an toàn từng bước được giảm bớt. Hoàn thành căn bản việc cổ phần hoá các ngân hàng thương mại nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) và đang triển khai cơ cấu lại một số ngân hàng liên doanh. Các tổ chức tín dụng đã quan tâm hơn đến đổi mới, nâng cao hiệu quả hệ thống quản trị, điều hành, hệ thống kiểm soát, kiểm toán nội bộ; tiếp tục hoàn thiện, hiện đại hoá hạ tầng công nghệ thông tin. Hệ thống quỹ tín dụng nhân dân được củng cố, phát triển.

c) Về xuất nhập khẩu:

- Tổng kim ngạch xuất khẩu 6 tháng đầu năm ước đạt 62,05 tỷ USD, tăng 16,1%so với cùng kỳ năm 2012 (cùng kỳ tăng 22,2%). Xuất khẩu tiếp tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao là nhờ đóng góp chủ yếu của khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài. Xuất khẩu của khu vực này không kể dầu thô ước đạt 37,4 tỷ USD, tăng 28,3% (cùng kỳ tăng 41,5%) và chiếm 60,2% tổng kim ngạch xuất khẩu. Trong khi đó, xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước ước đạt 20,9 tỷ USD, chỉ tăng 2,2%, thấp hơn tốc độ tăng cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ năm ngoái tăng 4%).

Trong 6 tháng đầu năm, các mặt hàng dầu thô và than đá đều có lượng xuất khẩu tăng nhưng kim ngạch xuất khẩu lại giảm[4]. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến tăng trưởng khá cao[5]. Điện thoại các loại và linh kiện (9,9 tỷ USD) đã vượt qua dệt may (8 tỷ USD) trở thành mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất. Các mặt hàng có kim ngạch lớn và có tốc độ tăng trưởng cao đều do sự đóng góp chủ yếu của các doanh nghiệp FDI gồm điện thoại các loại và linh kiện đóng góp 99%; máy vi tính linh kiện và điện tử 98,2%; giầy dép 77,4%; hàng dệt may 60%; máy ảnh 99,6%.

Các mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất là cà phê, gạo và cao su đều giảm cả về lượng và kim ngạch so với cùng kỳ năm 2012[6]. Mặt hàng thủy sản xuất khẩu đạt 2,9 tỷ USD, chỉ tăng 0,3% so với cùng kỳ năm 2012; nguyên nhân là do (i) Nguồn cung nguyên liệu không ổn định, (ii) Nhu cầu nhập khẩu tại các thị trường chính sụt giảm do ảnh hưởng suy thoái kinh tế, và (iii) Các rào cản kỹ thuật và thuế quan tại các thị trường nhập khẩu.

Trong 6 tháng đầu năm 2013, mặc dù kinh tế EU còn gặp nhiều khó khăn nhưng ước xuất khẩu vào thị trường này tăng 25,4% và chiếm tỷ trọng 18,7% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; thị trường Mỹ tăng 18,5% và chiếm tỷ trọng 17,7%; thị trường ASEAN tăng 17,7% và chiếm tỷ trọng 14,9%. Trong khi đó, thị trường Nhật Bản và Trung Quốc giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2012, chiếm tỷ trọng tương ứng là 10,4% và 9,7%.

- Tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước 6 tháng đầu năm ước đạt 63,5 tỷ USD, tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2012(cùng kỳ năm ngoái tăng 6,9%).Nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 35,7 tỷ USD, tăng 27,8% và chiếm 56,3% tổng kim ngạch nhập khẩu.Nhập khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước có cải thiện, ước đạt 27,7 tỷ USD, tăng 6,3%(cùng kỳ năm ngoái giảm 8,2%).

Kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2013 của một số mặt hàng có tốc độ tăng khá là: máy móc thiết bị đạt 8,5 tỷ USD, tăng 8,5%; máy tính và linh kiện 8,6 tỷ USD, tăng 52,3%; vải đạt 4,1 tỷ USD, tăng 19,5%; nguyên phụ liệu dệt may 1,9 tỷ USD, tăng 22,4%; sắt thép tăng 14,4%; phân bón tăng 12%;…Trong khi đó, xăng dầu giảm 22,1% về lượng và 25,5% về kim ngạch nhập khẩu so với cùng kỳ năm trước.

Trong 6 tháng đầu năm 2013, nhập khẩu từ Châu Á chiếm hơn 80% tổng kim ngạch nhập khẩu của cả nước. Các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Trung Quốc (kim ngạch nhập khẩu từ thị trường này tăng 33,2%, tỷ trọng ước đạt 27,3%), ASEAN (tăng 5,3%, chiếm tỷ trọng 17,1%), Hàn Quốc (tăng 39,8%, chiếm tỷ trọng 15,9%), Nhật Bản (tăng 4,1%, chiếm tỷ trọng 8,8%) và EU (tăng 21,6%, chiếm tỷ trọng 7,5%).

- Trong 6 tháng đầu năm 2013, cả nước nhập siêu 1,4 tỷ USD, bằng 2,3% tổng kim ngạch xuất khẩu, là mức tăng thấp và có thể kiểm soát được. Riêng Khu vực FDI (không kể dầu thô) xuất siêu khoảng 1,65 tỷ USD; nếu kể cả dầu thô, xuất siêu khoảng 5,4 tỷ USD.

d) Về thu chi ngân sách nhà nước:

Tốc độ thu ngân sách đạt thấp so với cùng kỳ các năm trước do nền kinh tế gặp nhiều khó khăn, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm sút cùng với việc thực hiện miễn giảm, giãn thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế VAT...

Tổng thu ngân sách nhà nước 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 356,52 nghìn tỷ đồng, đạt 43,7% dự toán năm, cao hơn 4,5% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó: thu nội địa ước đạt 236,17 nghìn tỷ đồng, bằng 43,3%; thu từ dầu thô ước đạt 55,43 nghìn tỷ đồng, đạt 56%; thu cân đối ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu ước đạt 61,92 nghìn tỷ đồng, bằng 37,2%.

Tổng chi ngân sách nhà nước luỹ kế đến ngày 15/6/2013 ước đạt 448,91 nghìn tỷ đồng, bằng 45,9% dự toán, tập trung bảo đảm các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, quản lý nhà nước và thanh toán các khoản chi trả nợ đến hạn, đảm bảo chi trả kịp thời các khoản lương và các khoản có tính chất lương đến các đối tượng thụ hưởng ngân sách nhà nước góp phần thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.

đ) Về đầu tư phát triển:

Trong 6 tháng đầu năm 2013, tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước thực hiện đạt khoảng 448,6 nghìn tỷ đồng, đạt 43,9% kế hoạch năm. Trong đó:

- Vốn đầu tư phát triển từ ngân sách nhà nước ước đạt 88,5 nghìn tỷ đồng, bằng 50,6% kế hoạch năm. Vốn trái phiếu Chính phủ ước đạt 19,8 nghìn tỷ đồng, bằng 33% kế hoạch năm. Vốn tín dụng đầu tư Nhà nước ước đạt 13,9 nghìn tỷ đồng, bằng 23,2% kế hoạch năm. Vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước ước đạt 21,1 nghìn tỷ đồng, bằng 46,9% kế hoạch năm. Vốn đầu tư của dân cư và khu vực tư nhân ước đạt 168,2 nghìn tỷ đồng, bằng 42,1% kế hoạch năm.

- Vốn FDI thực hiện trong 6 tháng đầu năm ước đạt 114,3 nghìn tỷ đồng, bằng 53,4% kế hoạch; vốn đăng ký ước đạt khoảng 10,47 tỷ USD, tăng 15,86% so với cùng kỳ.

Dòng vốn FDI đăng ký kể cả cấp mới và tăng thêm đều đã bắt đầu tăng sau thời kỳ suy giảm liên tục từ năm 2008-2012, trong khi vốn thực hiện duy trì tốc độ tăng so với cùng kỳ năm 2012[7] cho thấy nền kinh tế vĩ mô đã ổn định hơn, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam đã cải thiện và hấp dẫn hơn, niềm tin của các nhà đầu tư đã dần tăng trở lại. Bên cạnh đó, cơ cấu đầu tưđã chuyển dịch tích cực theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư vào các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

- Vốn ODA giải ngân liên tục tăng cao nhờ sự chỉ đạo tập trung, quyết liệt của Chính phủ, của Thủ tướng Chính phủ, sự nỗ lực của các cấp, các ngành, tháo gỡ các vướng mắc trong việc triển khai thực hiện các dự án đầu tư bằng nguồn vốn này. Ước 6 tháng đầu năm giải ngân đạt 2,2 tỷ USD, đạt 51,1% kế hoạch năm 2013, tăng 10% so với cùng kỳ (cùng kỳ năm 2012 đạt gần 2 tỷ USD).

2. Về thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế:

Nhờ việc triển khai các giải pháp, chính sách hỗ trợ và thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nhất là các giải pháp trong Nghị quyết số 01/NQ-CP và số 02/NQ- CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ,các Nghị quyết các phiên họp của Chính phủ, nền kinh tế đã có những chuyển biến tích cực, bước đầu.Hầu hết các ngành, các lĩnh vực đều có những cải thiện, tuy vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể:

a) Về tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP):

Tăng trưởng kinh tế đã có dấu hiệu phục hồi, hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như các ngành, lĩnh vực khác đều đã có những chuyển biến tích cực, đúng hướng. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2013 tăng 4,76%, sang quý II/2013 tăng cao hơn, đạt 5%. Xu hướng phục hồi này được thể hiện ở hầu khắp các địa phương, nhất là ở các trung tâm kinh tế lớn.

Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, GDP ước tăng 4,9%, xấp xỉ tốc độ tăng cùng kỳ năm trước (đạt 4,93%); trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,07%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,18%; dịch vụ tăng 5,92%.Tuy tốc độ tăng trưởng GDP quý II và 6 tháng đầu năm 2013 không cao như mong đợi nhưng đây là kết quả đáng ghi nhận trong bối cảnh kinh tế thế giới còn gặp nhiều khó khăn, ở trong nước đang phải ưu tiên tập trung mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

b) Về sản xuất công nghiệp:

Tính chung 6 tháng đầu năm 2013, chỉ số phát triển công nghiệp IIP ước tăng 5,2%, trong đó: khai khoáng tăng 1,9%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,7%; sản xuất, phân phối điện tăng 8,7%; cung cấp nước, xử lý nước thải tăng 9,6%. Sản xuất công nghiệp đang từng bước được cải thiện, so với cùng kỳ năm trước, IIP Quý I tăng 4,5%, sang Quý II tăng 6%. Thể hiện rõ nhất là IIP của ngành chế biến, chế tạo: Quý I tăng 4,6%, sang Quý II tăng tới 6,9%.

Sản xuất công nghiệp tại một số địa phương đã có dấu hiệu phục hồi, như Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng Đồng Nai, Bình Dương, Cần Thơ, Kiên Giang,...

Chỉ số tồn kho của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo có xu hướng giảm dần từ đầu năm: tại thời điểm 01/6/2013 tăng 9,7% so với cùng thời điểm năm trước, giảm mạnh so với mức tăng 21,5% tại thời điểm 01/01/2013[8].

c) Về sản xuất nông nghiệp:

Trong 6 tháng đầu năm 2013,sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản tiếp tục phát triển nhưng tốc độ chậm lại. Giá trị sản xuất toàn ngành (theo giá cố định 2010) ước tăng 2,4%, trong đó nông nghiệp tăng 2,2%, lâm nghiệp tăng 5,68%, thủy sản tăng 2,53%.

Trồng trọt gặp nhiều khó khăn do thời tiết diễn biến phức tạp, khô hạn và xâm nhập mặn diễn ra gay gắt ảnh hưởng đến năng suất cây trồng[9]. Tuy nhiên, do ngành nông nghiệp và các địa phương đã chủ động triển khai các biện pháp phòng chống thiên tai, dịch bệnh hiệu quả, đồng thời, áp dụng nhiều biện pháp đẩy mạnh phát triển sản xuất nên đã hạn chế được các yếu tố bất lợi. Tổng sản lượng lương thực có hạt vụ Đông Xuân trên cả nước đạt 22,78 triệu tấn, trong đó sản lượng lúa đạt 20,26 triệu tấn, xấp xỉ vụ Đông Xuân 2012. Khó khăn lớn nhất của ngành nông nghiệp hiện nay là nhu cầu của thị trường giảm, giá lúa xuống thấp ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu gạo[10] và lợi nhuận của người nông dân.

Chăn nuôi 6 tháng đầu năm 2013 có một số thuận lợi như công tác kiểm soát dịch bệnh, kiểm soát nhập lậu gia cầm được thực hiện quyết liệt, có hiệu quả. Tuy nhiên,do kinh tế suy giảm, cung vượt cầu bởi sức mua giảm sút, giá bán xuống thấp, trong khi giá thức ăn chăn nuôi vẫn giữ ở mức cao. Tính đến ngày 15/6/2013, đàn trâu giảm 2,54% so với cùng kỳ 2012; đàn bò giảm 3,16% (tuy nhiên số bò sữa tăng 10,3%); đàn lợn giảm 0,52%; gia cầm giảm 2,01%. Tổng sản lượng thịt hơi các loại 6 tháng đầu năm ước đạt 2,56 triệu tấn, xấp xỉ sản lượng cùng kỳ 2012 (giảm 0,2%).

Sản xuất lâm nghiệp vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng khá cao với giá trị sản xuất tăng 5,68%; do có chính sách phát triển rừng sản xuất phù hợp được ban hành trong những năm gần đây đã khuyến khích người dân trồng rừng sản xuất và khai thác chế biến gỗ; thời tiết có mưa sớm hơn (chủ yếu các tỉnh phía Bắc) nên các địa phương đã triển khai trồng rừng đảm bảo thời vụ. Tình hình khai thác gỗ và lâm sản nhìn chung đều tăng trưởng khá so cùng kỳ năm trước, sản lượng gỗ rừng trồng khai thác tăng cao (7,2%) do chính sách phát triển chế biến gỗ rừng trồng và do rừng trồng thời gian trước đến kỳ thu hoạch.

Sản xuất thủy sản tiếp tục gặp nhiều khó khăn, giá trị sản xuất chỉ tăng 2,5%. Tổng sản lượng thuỷ sản đạt 2.737 nghìn tấn, tăng 1,5%, trong đó cá 2.109 nghìn tấn, tăng 0,8%; tôm 262 nghìn tấn, tăng 2,8%. Sản xuất thủy sản, đặc biệt là lĩnh vực nuôi trồng như cá ba sa, cá tra đang gặp rất nhiều khó khăn do tiêu thụ chậm, thiếu vốn sản xuất, giá đầu vào cao, giá bán thấp, các rào cản kỹ thuật,… Bên cạnh đó, tình hình phức tạp trên Biển Đông cũng ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động khai thác thủy sản.

Tái cơ cấu ngành nông nghiệp đang được đẩy mạnh. Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi diễn ra rộng khắp trên cả nước. Việc tái cơ cấu này được tổ chức thực hiện bài bản trên cơ sở phương án quy hoạch nông thôn mới và các đề án phát triển sản xuất, kinh doanh được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Phong trào xây dựng nông thôn mới triển khai rộng khắp trên địa bàn nông thôn, thu hút sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và nhân dân. Đến nay, cả nước đã có 35 xã đạt chuẩn đủ 19 tiêu chí; khoảng 84% số xã đã hoàn thành quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới; 60,4% số xã đã phê duyệt xong đề án, trong đó có 865 xã đã hoàn thành thẩm định và đang chờ thủ tục phê duyệt. Nhiều địa phương đã triển khai hết sức quyết liệt, đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, hướng tới sản xuất nông nghiệp hàng hóa, nâng cao giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của sản phẩm[11]. Các vướng mắc về cơ chế đã được các cấp quản lý quan tâm, tháo gỡ. Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định sửa đổi một số tiêu chí của bộ tiêu chí quốc gia về Nông thôn mới[12] cho phù hợp với tình hình và điều kiện của các địa phương. Để tăng hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, tiết kiệm kinh phí và huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho xây dựng nông thôn mới, Thủ tướng Chính phủ đã bổ sung cơ chế đặc thù trong quản lý đầu tư xây dựng công trình[13].

d) Về khu vực dịch vụ:

Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển với tốc độ tăng trưởng quý II (6,16%) cao hơn quý I (5,65%) và 6 tháng đầu năm ước đạt 5,92%, cao hơn mức tăng 5,29% của cùng kỳ năm 2012; trong đó: dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 8,78%; thông tin và truyền thông tăng 7,96%; y tế và hoạt động trợ giúp xã hội tăng 8,02%; giáo dục và đào tạo tăng 8,02%;...

Tổng mức lưu bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý II ước tăng 12,2% so với cùng kỳ năm 2012, cao hơn mức tăng 11,7% của quý I; tính chung 6 tháng đầu năm ước tăng 11,9% thấp hơn mức tăng cùng kỳ là 19,7%. Như vậy, mặc dù tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trong những tháng gần đây đã có cải thiện nhưng chậm (04 tháng; 5 tháng và 6 tháng chỉ dao động ở mức 11,7-11,9%) và nếu loại trừ yếu tố giá thì vẫn ở mức thấp (6 tháng tăng gần 4,9%) và thấp hơn mức tăng cùng kỳ (6,7%) cho thấy sức cầu nền kinh tế, tuy có cải thiện, nhưng vẫn còn yếu.

Về vận tải hàng hoá và hành khách: vận chuyển hàng hóa quý II tăng 3,2%, cao hơn mức tăng 2,4% trong quý I; tính chung 6 tháng tăng 2,8% so với cùng kỳ. Trong khi đó, luân chuyển hàng hóa quý II giảm 6,1%, giảm mạnh hơn quý I (giảm 0,8%), ước 6 tháng giảm 3,5% là do mức giảm đến từ khu vực ngoài nước (khối lượng vận chuyển giảm 6,7%; khối lượng luân chuyển giảm 8,1%).

Vận chuyển và luân chuyển hành khách quý II tăng lần lượt là 2,6% và 2,2%, đều thấp hơn mức tăng của quý I (lần lượt là 5,4% và 5,1%). Ước 6 tháng vận chuyển hành khách tăng 3,9%,luân chuyển hành khách tăng 3,6%.

Khách quốc tế đến Việt Nam 6 tháng đầu năm ước đạt khoảng 3,54 triệu lượt, tăng 2,6%, thấp hơn nhiều so với mức tăng 16,9% của cùng kỳ năm 2012 chủ yếu do mức giảm mạnh trong quý I (giảm 6,2% với sự sụt giảm ở hầu hết các mục đích đến). Tuy nhiên, tình hình đã cải thiện đáng kể và tăng trở lại trong quý II, đạt mức 13,5% so với cùng kỳ năm trước, đặc biệt là khách đến với mục đích du lịch, nghỉ ngơi.

đ) Về tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước và phát triển doanh nghiệp, kinh tế tập thể:

- Về tình hình tái cơ cấu các tập đoàn, tổng công ty nhà nước: Tính đến tháng 6/2013, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 17/21 đề án tái cơ cấu của các tập đoàn, tổng công ty. Các Bộ quản lý ngành đã phê duyệt được 26 đề án tái cơ cấu của các tổng công ty trực thuộc. Tuy nhiên, nhận định chung cho thấy tình hình triển khai tái cơ cấu còn chậm, chưa đạt kế hoạch đề ra, đặc biệt là lộ trình thoái vốn đã đầu tư vào các ngành không thuộc ngành, nghề kinh doanh chính.

Tình hình triển khai thực hiện sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước cũng còn chậm, chưa đạt yêu cầu đặt ra. Trong 6 tháng đầu năm cả nước sắp xếp được 16 doanh nghiệp, trong đó cổ phần hóa 10 doanh nghiệp, sáp nhập hợp nhất 05 doanh nghiệp và thành lập mới 01 doanh nghiệp.

- Về phát triển doanh nghiệp: Phát triển doanh nghiệp bước đầu có những dấu hiệu tích cực với sự cải thiện của số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới trong những tháng gần đây[14]. Ước 6 tháng đầu năm 2013, cả nước có 38,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới,tăng 7,6% so với cùng kỳ (cùng kỳ giảm 12,4%). Bên cạnh đó, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động đã quay trở lại hoạt động cũng tăng dần qua từng tháng: 4 tháng khoảng 8,3 nghìn; 5 tháng khoảng 8,8 nghìn; 6 tháng khoảng 9,3 nghìn doanh nghiệp.

Hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng đang có chuyển biến. Số doanh nghiệp giải thể giảm so với cùng kỳ. Số doanh nghiệp ngừng hoạt động tuy vẫn còn tăng, nhưng tốc độ tăng chậm lại từ tháng 4 đến nay.

Như vậy, có thể thấy các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh đã dần phát huy tác dụng, củng cố thêm niềm tin của nhà đầu tư vào sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, số vốn đăng ký của doanh nghiệp thành lập mới vẫn có xu hướng giảm do những khó khăn của nền kinh tế và khả năng huy động vốn của nhà đầu tư.

Về cơ cấu theo địa bàn, một số vùng kinh tế có số doanh nghiệp đăng ký thành lập tăng cao là: Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung tăng 24,3%; Trung du và miền núi phía Bắc tăng 32,7%; Đồng bằng Sông Cửu Long tăng 53,9% so với cùng kỳ năm 2012. Trong khi đó, tại 2 vùng kinh tế trọng điểm, số doanh nghiệp thành lập mới giảm hoặc tăng không đáng kể: Đồng bằng sông Hồng giảm 4,5%; Đông Nam Bộ chỉ tăng 0,9%.

Tại một số địa phương, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới tăng khá cao so với cùng kỳ: Hà Tĩnh tăng 67,3%; Bình Định tăng 83,3%; Sóc Trăng tăng 100%; Trà Vinh tăng 171,8%;... Tuy nhiên, một số địa phương, nhất là các địa phương thuộc Đồng bằng sông Hồng vẫn gặp khó khăn với số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới giảm so với cùng kỳ và chiếm phần lớn số doanh nghiệp giải thể, như: Hà Nội giảm 2,9% số doanh nghiệp đăng ký, chiếm 26,1% số doanh nghiệp giải thể; Hải Phòng giảm 20,3% và chiếm 4,1%;...

Về cơ cấu ngành nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh: một số lĩnh vực có số lượng doanh nghiệp thành lập mới tăng đáng kể, như: Giáo dục và đào tạo tăng 5,1%; Hoạt động dịch vụ khác tăng 8,9%; Y tế và trợ giúp xã hội tăng 64,3%;... Một số lĩnh vực có số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm: Xây dựng giảm 6%; Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm giảm 6,5%; Kinh doanh bất động sản giảm 10,6%; Nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm 26,5%;...

- Về phát triển kinh tế tập thể: Kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã có sự thích ứng với sự biến động thị trường; phát huy ưu thế hợp tác giữa các thành viên trong hỗ trợ kinh tế thành viên vượt qua khó khăn. Số lượng hợp tác xã 2 năm gần đây tăng đột biến. Các hợp tác xã, tổ hợp tác đang dần tự đổi mới, phát triển theo đúng bản chất đích thực để thực sự là chỗ dựa vững chắc cho các thành viên. Tuy nhiên, các hợp tác xã, tổ hợp tác rất khó tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng và các chính sách hỗ trợ của nhà nước, chủ yếu dựa vào nguồn lực nội tại của mình.

3. Về thực hiện mục tiêu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và các lĩnh vực xã hội khác:

a) Về lao động, việc làm:

Các hoạt động thông tin, dự báo thị trường lao động được triển khai đồng bộ trong cả nước. Cổng thông tin điện tử việc làm đã cập nhật thường xuyên tình hình thị trường lao động; theo dõi, cập nhật tình hình lao động việc làm, biến động lao động trong các doanh nghiệp, khu công nghiệp, các thành phố lớn... Các hoạt động giao dịch việc làm, đặc biệt là sàn giao dịch việc làm được tổ chức định kỳ, thường xuyên tại các Trung tâm giới thiệu việc làm[15] góp phần phổ biến, cung cấp thông tin việc làm, nhu cầu tuyển dụng, thông tin về người lao động đến người lao động và người sử dụng lao động, nâng cao hiệu quả kết nối cung - cầu lao động. Các dự án của Chương trình mục tiêu quốc gia về Việc làm và Dạy nghề năm 2013 tiếp tục được triển khai. Trong 6 tháng đầu năm 2013 ước giải quyết việc làm cho khoảng 722,5 nghìn lao động, đạt 45,2% kế hoạch năm, giảm1,7% so với cùng kỳ năm 2012; trong đó:giải quyết việc làm trong nước cho khoảng 682,5 nghìn người, đạt 45,1% kế hoạch, giảm1,5%; xuất khẩu lao động khoảng40nghìn người, đạt 47% kế hoạch, giảm 4%.

Việc thực hiện các chính sách về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, an toàn vệ sinh lao động, cải thiện quan hệ lao động được triển khai đồng bộ và có nhiều tiến bộ so với cùng kỳ năm trước. Mức lương tối thiểu vùng của người lao động được điều chỉnh tăng từ ngày 01/01/2013[16] đã góp phần giảm khó khăn, cải thiện đời sống của người lao động. Tranh chấp lao động, đình công giảm mạnh so với cùng kỳ năm 2012 (5 tháng đầu năm xảy ra 161 cuộc đình công, giảm 43 cuộc so với cùng kỳ năm 2012).

Tính đến hết tháng 6/2013, ước tổng số lao động tham gia bảo hiểm xã hội là 11.013 nghìn người, trong đó: Bảo hiểm xã hội tự nguyện là 163 nghìn người, bảo hiểm xã hội bắt buộc là 10.850 nghìn người.

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động được thực hiện tốt, góp phần giảm bớt khó khăn, ổn định cuộc sống và giúp người lao động tìm được việc làm mới. Tính đến ngày 20/5/2013, cả nước có 182.263 người lao động đăng ký thất nghiệp, thấp hơn cùng kỳ năm ngoái (cùng kỳ năm ngoái là 212.966 người). Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi khu vực thành thị 6 tháng đầu năm ước là 3,62%.

b) Về bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói giảm nghèo:

Thực hiện trợ cấp xã hội thường xuyên cho khoảng 2,5 triệu đối tượng tại cộng đồng với tổng kinh phí khoảng 9.000 tỷ đồng; nuôi dưỡng, chăm sóc trên 40 nghìn người trong cơ sở bảo trợ xã hội với mức trợ cấp thấp nhất 360 ngàn đồng/người/tháng; các tỉnh, thành phố có điều kiện đã thực hiện mức trợ cấp cao hơn mức quy định của Chính phủ, các tỉnh nghèo được bổ sung ngân sách đảm bảo xã hội để đảm bảo chi trả đầy đủ cho đối tượng theo quy định. Các địa phương đã theo dõi sát tình hình thiếu đói giáp hạt, thiệt hại do thiên tai, kịp thời tổ chức cứu trợ và đề xuất giải pháp khắc phục hậu quả, nhanh chóng phục hồi sản xuất, ổn định đời sống nhân dân[17].

Các chính sách giảm nghèo được quan tâm triển khai, như: chính sách tín dụng lãi suất thấp cho hộ cận nghèo; nâng mức hỗ trợ mệnh giá bảo hiểm y tế cho hộ cận nghèo lên 100%; phê duyệt Chương trình 135 giai đoạn 3; bổ sung 23 huyện nghèo được hỗ trợ theo cơ chế, chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng quy định tại Nghị quyết 30a; phê duyệt danh sách 311 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo để hỗ trợ đầu tư hạ tầng, phát triển sản xuất (tăng 154 xã so với trước); hoàn thành việc thí điểm hỗ trợ xây dựng nhà ở tránh lũ cho các hộ nghèo tại 7 tỉnh Bắc Trung bộ, duyên hải miền Trung và đang chỉ đạo mở rộng ra cả vùng. Tổng kết và tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện chính sách hỗ trợ chi phí học tập và sinh hoạt cho trẻ em nghèo, trẻ em dân tộc thiểu số và vùng khó khăn.

c) Về thực hiện chính sách ưu đãi người có công:

Hệ thống chính sách pháp luật ưu đãi người có công tiếp tục được quan tâm hoàn thiện[18]. Thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời các khoản trợ, phụ cấp đối với người có công với cách mạng theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng. Các hoạt động đền ơn đáp nghĩa tiếp tục được phát triển sâu rộng như các hoạt động xây mới, sửa chữa nhà tình nghĩa cho các đối tượng chính sách; huy động quỹ đền ơn đáp nghĩa; tổ chức thăm hỏi, tặng quà cho các đối tượng chính sách.

d) Về chăm sóc người cao tuổi, thực hiện bình đẳng giới và bảo vệ, chăm sóc trẻ em:

Công tác chăm sóc người cao tuổi được quan tâm, hầu hết người cao tuổi thuộc diện hưởng lương hưu, người cao tuổi thuộc hộ nghèo, người cao tuổi là đồng bào dân tộc thiểu số...đều được cấp thẻ bảo hiểm y tế. Công tác chúc thọ, mừng thọ tiếp tục được duy trì, phát huy.Đến nay, tất cả các địa phương đã triển khai chính sách trợ cấp xã hội đối với người cao tuổi từ đủ 80 tuổi không có lương hưu hoặc trợ cấp bảo hiểm xã hội theo quy định của Luật người cao tuổi.

Công tác bình đẳng giới, vì sự tiến bộ của phụ nữ tiếp tục được triển khai đồng bộ. Bình đẳng giới trong lao động việc làm, giáo dục đào tạo, chăm sóc y tế ngày càng có những cải thiện đáng kể ; bình đẳng giới thực chất về quyền, đối xử, cơ hội giữa nam và nữ được thúc đẩy. Các hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về bình đẳng giới được đẩy mạnh với nhiều hình thức phong phú, đa dạng. Ban vì sự tiến bộ phụ nữ các cấp tiếp tục được kiện toàn. Hiện nay, đã có 14 tỉnh, thành phố có phòng Bình đẳng giới trực thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội.

Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em tiếp tục được quan tâm với nhiều hoạt động triển khai từ Trung ương đến cơ sở xuyên suốt chủ đề “Tạo cơ hội phát triển bình đẳng cho trẻ em nghèo và trẻ em dân tộc thiểu số”, đồng thời triển khai nhiều hoạt động thiết thực để giúp đỡ trẻ em có hoàn cảnh khó khăn trên toàn quốc.

đ) Về phòng chống tệ nạn xã hội:

Công tác phòng chống tệ nạn xã hội đã đạt được một số kết quả nhất định như phong trào xây dựng xã phường lành mạnh, không có tệ nạn xã hội, khu dân cư văn hóa, gia đình văn hóa được đẩy mạnh; lực lượng chuyên trách đấu tranh phòng, chống ma túy tiếp tục được kiện toàn, củng cố ở các ngành, các cấp.Các chính sách về vay vốn, hỗ trợ tạo việc làm cho người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người bán dâm, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện được xây dựng.Công tác cai nghiện phục hồi đã được quan tâm hơn với các hình thức cai nghiện đa dạng; đã tiến hành điều trị thí điểm cho người nghiện thuốc phiện bằng Methadone tại một số tỉnh, thành phố.

e) Về chăm sóc sức khỏe nhân dân:

Chất lượng khám chữa bệnh ở các cơ sở y tế các tuyến, đặc biệt là tuyến Trung ương và ở các thành phố ngày càng được nâng cao. Một số kỹ thuật mới, tiên tiến đã được thực hiện thành công và trở thành thường quy trong các bệnh viện[19]. Nhiều kỹ thuật cao đã được thực hiện ngay tại tuyến tỉnh như: MRI, CT scanner lớp cắt, chụp mạch xoá nền, sinh hoá, huyết học, truyền máu, vi sinh vật; y học hạt nhân, laser...

Công tác y tế dự phòng và an toàn vệ sinh thực phẩm được đẩy mạnh. Các hoạt động giám sát nguy cơ ô nhiễm thực phẩm trên toàn quốc, trọng tâm là kiểm soát thực phẩm nhập khẩu tại các cửa khẩu; thanh tra, kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và triển khai thực hiện một cách nghiêm túc, đồng bộ từ trung ương đến địa phương[20].

Công tác phòng chống HIV/AIDS tiếp tục được quan tâm. Tính đến ngày 17/5/2013, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 212.714 người, số bệnh nhân AIDS hiện tại là 62.437 người, số người nhiễm HIV đã tử vong là 63.716 người.

Nhiều giải pháp về quản lý giá thuốc được triển khai quyết liệt, thị trường thuốc cơ bản được duy trì bình ổn, đáp ứng đủ thuốc điều trị, không để xảy ra tăng giá đồng loạt, đột biến. Trong 6 tháng đầu năm 2013, đã có thêm 14 địa phương thực hiện điều chỉnh giá viện phí, đưa số địa phương đã thực hiện lên 61/63 tỉnh/thành phố. Dự kiến 2 thành phố lớn là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sẽ thực hiện điều chỉnh trong 6 tháng cuối năm 2013.

4. Về giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ:

Trong 6 tháng đầu năm, đã tập trung thực hiện Đề án Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi; tiếp tục thí điểm áp dụng một số mô hình giáo dục/dạy học mới, như mô hình nhà trường lấy học sinh làm trung tâm,...; đổi mới phương pháp dạy, học và kiểm tra, đánh giá theo hướng phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc theo nhóm, phát triển các kỹ năng mềm;... Mạng lưới các trung tâm giáo dục thường xuyên theo mô hình thực hiện đa nhiệm vụ được củng cố và phát triển.

Hệ thống dạy nghề tiếp tục được đổi mới, phát triển gắn với nhu cầu thị trường lao động, doanh nghiệp và hội nhập quốc tế[21].Các hoạt động dạy nghề tiếp tục phát triển theo hướng tăng cường đào tạo nghề trình độ cao đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế mũi nhọn, những vùng kinh tế trọng điểm, đồng thời đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Tiếp tục hoàn thiện, nhân rộng các mô hình dạy nghề thí điểm có hiệu quả, nghiên cứu xây dựng các mô hình mới dạy nghề gắn với các làng nghề, vùng chuyên canh, tập trung triển khai ở các xã điểm xây dựng nông thôn mới và các doanh nghiệp phục vụ sản xuất những sản phẩm nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao, tận dụng được nhân lực nông nhàn, nguyên liệu sẵn có như: nấm rơm, cây thanh long, lúa năng suất cao, hàng mây tre đan,... Xây dựng chương trình bồi dưỡng kiến thức văn hóa cho người đi lao động xuất khẩu lao động tại 62 huyện nghèo; phân cấp cho chính quyền địa phương các tỉnh/thành phố quản lý đào tạo trung học chuyên nghiệp.

Đã tập trung hoàn thiện và trình Quốc hội thông qua Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) sửa đổi; tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện các văn bản pháp lý, như: dự thảo Nghị định quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật KH&CN; xây dựng Luật Năng lượng nguyên tử và Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi, bổ sung...Đẩy mạnh việc triển khai thực hiện Chương trình hỗ trợ phát triển doanh nghiệp KH&CN và tổ chức KH&CN công lập thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; phát triển thị trường công nghệ; đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ cao, xây dựng các khu công nghệ cao; nâng cao hiệu quả của công tác quản lý đo lường chất lượng sản phẩm hàng hóa, tập trung vào các chương trình trọng điểm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế; tăng cường công tác sở hữu trí tuệ, như: hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý, tăng cường hợp tác quốc tế, hỗ trợ, tư vấn, hướng dẫn cho tổ chức, cá nhân về các thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp, hỗ trợ đăng ký sáng chế cho các đề tài...

5. Về văn hóa, thể dục thể thao:

Hoạt động văn hoá, nghệ thuật, thể thao mừng Tết Nguyên đán và các ngày lễ lớn được tổ chức sôi nổi, rộng khắp, đáp ứng yêu cầu chất lượng nghệ thuật, nội dung tư tưởng. Các hoạt động văn hóa, văn nghệ phát triển rộng khắp ở cơ sở với nhiều hình thức đa dạng, phong phú, thu hút được đông đảo quần chúng tham gia; chất lượng các hội thi, hội diễn, liên hoan dần được nâng lên, góp phần đáp ứng nhu cầu hưởng thụ đời sống văn hóa tinh thần của các tầng lớp nhân dân.

Hoạt động bảo tồn, tôn tạo và phát huy di sản văn hoá được quan tâm chỉ đạo thực hiện. Các di sản văn hóa phi vật thể tiếp tục được sưu tầm, bảo vệ và phát huy nhằm từng bước góp phần làm đa dạng hóa và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Đến tháng 5/2013, cả nước đã có 7 di sản văn hoá phi vật thể được UNESCO công nhận. Công tác quản lý lễ hội được tăng cường. Bản sắc văn hoá và các giá trị truyền thống của lễ hội được bảo tồn và phát huy, tạo sức hấp dẫn đối với du khách trong nước và quốc tế. Ý thức thực hiện nếp sống văn minh khi tham gia lễ hội của người dân có chuyển biến.

Các hoạt động thể thao quần chúng tiếp tục được triển khai rộng rãi trên toàn quốc nhằm hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Trong 5 tháng đầu năm đã tổ chức thành công 27 hội thi và giải thể thao quần chúng. Công tác thể thao thành tích cao đạt được kết quả nhất định. Trong 5 tháng đầu năm đã có 62 giải thể thao quốc gia và quốc tế được tổ chức thành công. Nhiều đoàn vận động viên tham gia các giải thi đấu thể thao cấp khu vực, châu lục và thế giới,... giành được nhiều thành tích. Các hoạt động chuẩn bị lực lượng vận động viên tham dự các giải thể thao khu vực, châu lục và thế giới được tập trung triển khai.

6. Về tài nguyên môi trường:

Trong 6 tháng đầu năm đã tập trung xây dựng, rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định, cơ chế, chính sách về quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường để tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý để bảo vệ, khai thác hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên thiên nhiên[22]. Đẩy mạnh kiểm tra, theo dõi công tác giao đất, cho thuê đất, rà soát các dự án chậm đưa đất vào sử dụng; kiểm tra tình hình thực hiện thẩm quyền cấp Giấy phép hoạt động khoáng sản của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương,…

Các chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2012-2015 được tích cực triển khai. Tiếp tục đẩy nhanh xây dựng quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn, thực hiện việc thu gom chất thải rắn, bảo vệ môi trường[23].Thực hiện đánh giá tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đối với tài nguyên nước trên lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long, đề xuất các giải pháp nhằm thích ứng với những hậu quả do tác động của biến đổi khí hậu gây ra đối với tài nguyên nước. Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh được tích cực tổ chức thực hiện thông qua việc nghiên cứu xây dựng Kế hoạch hành động về tăng trưởng xanh. Tăng cường huy động và thực hiện có hiệu quả các nguồn lực để thực hiện các chương trình.

7. Về thông tin truyền thông:

Công tác thông tin tuyên truyền các sự kiện chính trị xã hội trên toàn quốc được quan tâm thực hiện, như: đưa tin, phản ánh về không khí đón tết, vui Xuân; các hoạt động kỷ niệm 83 năm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam; các hoạt động ngoại giao, thăm hỏi chúc tết đồng bào của lãnh đạo Đảng và Nhà nước; phản ánh tình hình triển khai các Nghị quyết của Trung ương, Quốc hội, Chính phủ, nhất là nỗ lực của các cấp, các ngành trong thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tăng trưởng hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội; tuyên truyền về công tác sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Luật Đất đai sửa đổi, phản bác những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch trong và ngoài nước; đẩy mạnh thông tin, tuyên truyền về công tác bảo vệ chủ quyền biển, đảo Việt Nam;…

Hoạt động khai thác mạng lưới, vận chuyển trong lĩnh vực bưu chính, chuyển phát được bảo đảm đúng lịch trình. Công tác quản lý tài nguyên internet được bảo đảm, không phát sinh trường hợp bất thường. Hoàn tất việc xử lý các tên miền liên quan đến chủ quyền biển, đảo. Đẩy mạnh xuất bản các xuất bản phẩm về bảo vệ chủ quyền quốc gia, biên giới hải đảo, khẳng định vị trí pháp lý của lãnh thổ đất nước đối với các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các xuất bản phẩm có nội dung đề cao tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc. Chấn chỉnh quy trình xuất bản, trong đó chú trọng công tác biên tập, đọc duyệt nội dung và quy trình liên kết xuất bản.

8. Về công tác ngoại giao, quốc phòng an ninh và bảo đảm ổn định chính trị xã hội:

Tiềm lực quốc phòng tiếp tục được củng cố. Tăng cường quản lý biên giới, các hoạt động tuần tra bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên biển, bảo vệ và cứu nạn ngư dân[24]; chỉ đạo xử lý kịp thời, linh hoạt các vi phạm chủ quyền nước ta trên biển Đông.

An ninh chính trị được giữ vững; chủ động ngăn chặn mọi âm mưu hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tiếp tục được chỉ đạo quyết liệt. Ban chỉ đạo phòng chống tội phạm của Chính phủ (138/CP) đã chỉ đạo cấp ủy, chính quyền các địa phương tổ chức thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 48-CT/TW của Bộ Chính trị về phòng, chống tội phạm với nhiều mô hình tốt[25]. Đã mở nhiều đợt cao điểm tấn công, trấn áp tội phạm, nhất là ở các thành phố lớn và trong các dịp Lễ, Tết, triệt phá nhiều băng nhóm tội phạm nguy hiểm, xã hội đen, bảo kê, cướp giật, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng[26].

Công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông theo Nghị quyết số 21/2012/QH13 của Quốc hội và Chỉ thị số 18-CT/TW của Ban Bí thư được thực hiện quyết liệt với nhiều giải pháp đồng bộ, có nhiều đổi mới, gắn với trách nhiệm cá nhân người đứng đầu, coi công tác bảo đảm an toàn giao thông là nhiệm vụ của cả cấp ủy và chính quyền các cấp, các ngành và của cả hệ thống chính trị.

Công tác đối ngoại được đẩy mạnh toàn diện. Đã tích cực tham gia và đạt được mục tiêu cơ bản trong các hoạt động đối ngoại đa phương, đặc biệt là tại Hội nghị cấp cao ASEAN 22, Hội nghị cấp cao kinh tế ASEAN - EU, Đối thoại Shangri-La, các Hội nghị cấp cao về phát triển khu vực Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma,... Quan hệ song phương, nhất là với các đối tác lớn tiếp tục được tăng cường và đi vào chiều sâu; thiết lập mới quan hệ đối tác chiến lược mới với Italia. Triển khai đẩy mạnh đàm phán các hiệp định tự do thương mại với các đối tác, khối kinh tế lớn; chỉ đạo thực hiện đàm phán Hiệp định Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Đã tổng kết 5 năm gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), 25 năm thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) và đề ra định hướng cho giai đoạn tới. Công tác người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân tiếp tục được quan tâm[27].

II. DỰ BÁO KHẢ NĂNG THỰC HIỆN KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘINĂM 2013

1. Tình hình kinh tếthế giới:

Kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm 2013 đã cho thấy một số tín hiệu phục hồi khả quan đến từ sự phục hồi tăng trưởng của một số nền kinh tế lớn như Mỹ, Nhật Bản. Mặc dù vậy, đà suy giảm tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc cũng như một số nền kinh tế đang nổi và trạng thái trì trệ của kinh tế khu vực châu Âu sẽ vẫn là những nhân tố quan trọng cản trở đà phục hồi vững chắc của kinh tế thế giới. Bên cạnh đó, những rủi ro trên thị trường tài chính tiền tệ, tình trạng thất nghiệp không có nhiều cải thiện tiếp tục là những thách thức không nhỏ đối với tăng trưởng kinh tế thế giới.

IMF đã hạ mức dự báo tăng trưởng kinh tế toàn cầu trong năm 2013 xuống còn 3,3%, thấp hơn 0,2% so với dự báo đưa ra trong tháng 1/2013. Trong đó, dự báo tăng trưởng trong năm 2013 của các nước phát triển là 1,2%, của các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển là 5,3%, thấp hơn lần lượt là 0,1% và 0,2% so với dự báo trước đó.

Tốc độ tăng trưởng thương mại thế giới trong năm 2013 được dự báo sẽ tăng ở mức 3,3% trong năm 2013[28]. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tại các nước phát triển được dự báo ở mức 1,4% trong năm 2013 và các nước đang phát triển ở mức 5,5%. Tốc độ tăng trưởng khối lượng nhập khẩu tại các nước phát triển được dự báo ở mức 1,4% và các nước đang phát triển là 5,9%.

Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu được dự báo chỉ phục hồi nhẹ lên 1,4 nghìn tỷ USD năm 2013. Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) có thể sẽ phục hồi nhẹ trong năm 2013 vì một số nước vẫn có khả năng tăng viện trợ[29]. Khảo sát cũng cho thấy ODA có thể chuyển hướng sang các nước thu nhập trung bình tại vùng Viễn Đông và Nam và Trung Á, trong đó có Việt Nam.

Thị trường tài chính tiền tệ thế giới sẽ vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn. Hầu hết các nền kinh tế vẫn đang và sẽ tiếp tục xu hướng duy trì chính sách ổn định tài khóa và thực hiện các cải cách trong lĩnh vực tiền tệ trong cả năm 2013 nhằm tránh rủi ro trong lĩnh vực này.

2. Dự báo về tình hình kinh tế trong nước

Căn cứ vào tình hình và kết quả đã đạt được trong 6 tháng đầu năm, sự chỉ đạo tập trung của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các cấp, các ngành trong việc thực hiện các giải pháp chính sách đã đề ra, dự báo tình hình kinh tế 6 tháng cuối năm và cả năm 2013 như sau: Về sản xuất công nghiệp: với xu hướng tăng trưởng của 6 tháng đầu năm và tình hình sản xuất kinh doanh ổn định của các ngành hàng thiết yếu như dầu khí, điện, xi măng, sắt thép, phân bón, may mặc,... dự báo chỉ số phát triển công nghiệp (IIP) năm 2013 sẽ tăng khoảng 5,5%-5,7% so với năm 2012.

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản có thể sẽ tiếp tục gặp khó khăn do sắp bước vào mùa mưa lũ, giá cả các sản phẩm nông sản vẫn ở mức thấp, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm và thủy sản vẫn có nguy cơ bùng phát, giá nguyên liệu đầu vào chưa có dấu hiệu hạ nhiệt,…Tuy nhiên, với việc quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, cùng với tác động của các chính sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường của Chính phủ,…sản xuất nông nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi để hoàn thành kế hoạch đề ra.Dự báo giá trị sản xuất toàn ngành năm 2013 ước tăng 2,8%, trong đó nông nghiệp tăng 2,7%, lâm nghiệp tăng 5,8%, thủy sản tăng 2,7%.

Khu vực dịch vụ dự kiến sẽ tiếp tục phát triển khá, tốc độ tăng trưởng khu vực dịch vụ năm 2013 ước đạt khoảng 6,3%. Tổng mức bán lẻ năm 2013 ước đạt khoảng 2.700 nghìn tỷ đồng, tăng 16% so với năm 2012.

Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 127 tỷ USD, tăng 10,9%so với năm 2012; tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 136 tỷ USD, tăng 19,5%. Như vậy, nhập siêu cả năm dự kiến khoảng 9 tỷ USD, bằng 7,1% tổng kim ngạch xuất khẩu.

Thu ngân sách nhà nước năm 2013 dự báo sẽ đạt dự toán do một số yếu tố tích cực có thể làm tăng nguồn thu trong 6 tháng cuối năm, đó là: (i) thu từ thuế nhập khẩu sẽ cao hơn so với 6 tháng đầu năm khi nhu cầu nhập khẩu hàng hoá tăng; (ii) thu nội địa cũng có thể được cải thiện khi các chính sách điều hành kinh tế vĩ mô như xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng, tăng cường chi đầu tư công, thúc đẩy tín dụng cho hoạt động cho vay mua, thuê mua nhà ở xã hội bắt đầu phát huy tác dụng. Tuy nhiên, còn nhiều yếu tố sẽ ảnh hưởng đến khả năng đạt dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2013, như việc thực hiện các giải pháp miễn giảm thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trong 6 tháng cuối năm, đồng thời thu từ dầu thô có thể có thể thấp hơn năm 2012 do sản lượng dự toán thấp hơn và giá dầu bình quân trên thị trường có xu thế giảm.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội năm 2013 ước thực hiện đạt 1.074 nghìn tỷ đồng, bằng 29% GDP.

Với xu hướng phát triển các ngành, lĩnh vực như trên, dự báo tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2013 sẽ tăng khoảng 5,5%, đạt mục tiêu kế hoạch đề ra.

Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng cuối năm có thể sẽ cao hơn so với đầu năm do tác động của các giải pháp thúc đẩy tăng tổng cầu, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đồng thời một số mặt hàng do nhà nước quản lý giá vẫn đang tiếp tục trong lộ trình điều chỉnh tăng giá như giá vé tàu, than, dịch vụ y tế,giáo dục,… nhưng chỉ số giá tiêu dùng cả năm 2013dự báo sẽ được kiềm chế ở mức khoảng 7%.

3. Dự báo tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013:

Trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế thế giới và trong nước thời gian qua và triển vọng sắp tới, dự kiến thực hiện các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội

Nghị quyết Quốc hội, Chính phủ đề ra cho năm 2013 như sau:

STT

Chỉ tiêu

Đơn vị

Chỉ tiêu Quốc hội

Ước thực hiện năm 2013

1.

Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP)

%

5,5

5,5

2.

Tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu

%

10

10,9

3.

Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu

%

8

7,1

4.

Bội chi ngân sách nhà nước so với GDP

%

4,8

4,8

5.

Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP

%

30

29

6.

Chỉ số giá tiêu dùng

%

~8

~7

7.

Tạo việc làm

Triệu người

1,6

<1,6

8.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế

%

49

49

9.

Tỷ lệ thất nghiệp ởkhu vực thành thị

%

<4

3,48

10.

Giảm tỷ lệ hộ nghèo

Riêng các huyện nghèo giảm

%

%

2

4

2

4

11.

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng

%

<16

<16

12.

Số giường bệnh trên 1 vạn dân (không tính giường trạm y tế xã)

Giường bệnh

22

22

13.

Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg) được xử lý

%

84

85

14.

Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường

%

75

75

15.

Tỷ lệ che phủ rừng

%

40,7

40,5

Như vậy, trong tổng số 15 chỉ tiêu Quốc hội đề ra trong kế hoạch năm 2013,dự kiến có 13 chỉ tiêu có triển vọng đạt và vượt kế hoạch, còn 02 chỉ tiêu có thể không đạt kế hoạch là tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội so với GDP và tỷ lệ che phủ rừng.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU CẦN TẬP TRUNG THỰC HIỆN TRONG 6 THÁNG CUỐI NĂM 2013

Để hoàn thành tốt các mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch năm 2013, các cấp, các ngành phải tiếp tục tập trung triển khai thực hiện các giải pháp chính sách đã được quy định trong Nghị quyết số 01/NQ-CP, Nghị quyết số 02/NQ-CP, các Nghị quyết phiên họp thường kỳ của Chính phủ, tập trung vào các nhiệm vụ, giải pháp chính sau đây:

- Chỉ đạo các ngân hàng thương mại phấn đấu tiết giảm chi phí để có thể giảm thêm lãi suất cho vay một cách hợp lý; tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp tiếp cận vốn, hướng dòng vốn vào sản xuất; có giải pháp cụ thể giúp doanh nghiệp còn triển vọng tiếp tục vay vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh. Điều hành tăng trưởng tín dụng phù hợp với mục tiêu cả năm nhưng không dồn vào một thời điểm, ưu tiên các lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, các doanh nghiệp có triển vọng, có thị trường tiêu thụ. Tích cực triển khai chính sách tín dụng hỗ trợ cho vay mua nhà ở xã hội, nhà ở thương mại đối với người có thu nhập thấp. Khẩn trương triển khai Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015; thúc đẩy hoạt động Công ty quản lý tài sản (VAMC) góp phần xử lý nợ xấu, khai thông dòng vốn tín dụng. Kiểm soát chặt chẽ tỷ giá, thị trường vàng theo mục tiêu.

- Tăng cường chỉ đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ tài chính - ngân sách theo Chỉ thị số 09/CT-TTG ngày 24/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện kịp thời chính sách miễn, giảm, gia hạn thời hạn nộp thuế, vừa khuyến khích sản xuất, kinh doanh, vừa động viên hợp lý nguồn thu, đồng thời tăng cường quản lý thu, chống thất thu và xử lý nợ đọng thuế. Chi ngân sách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả. Điều hành ngân sách chủ động, bảo đảm cân đối, giữ bội chi trong phạm vi Quốc hội quyết định. Tăng cường công khai thông tin về giá và Quỹ bình ổn giá xăng dầu.

- Tập trung đẩy nhanh tiến độ thi công và giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản, nhất là các nguồn vốn ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA, những dự án đang triển khai có thể hoàn thành sớm và đưa vào sử dụng. Huy động vốn để triển khai một số dự án trọng điểm quốc gia, thực hiện công tác giải phóng mặt bằng các dự án mở rộng Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên (Quốc lộ 14), vốn đối ứng ODA. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát đầu tư, xử lý nợ đọng xây dựng cơ bản, hạn chế việc doanh nghiệp ứng vốn để thực hiện dự án trong khi chưa xác định được khả năng cân đối vốn.

- Tích cực triển khai các chương trình phát triển thị trường trong nước, tăng sức mua thị trường, góp phần giảm hàng tồn kho. Tăng cường quản lý thị trường, ngăn chặn có hiệu quả hoạt động buôn lậu qua biên giới. Tập trung tháo gỡ khó khăn cho công nghiệp chế biến. Nâng cao hiệu quả xúc tiến thương mại, củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu, đơn giản hoá các thủ tục xuất khẩu tại các địa phương, các cửa khẩu. Khẩn trương xây dựng quy hoạch đầu mối xuất khẩu gạo; quản lý chặt chẽ hoạt động của các đầu mối, có biện pháp, chế tài khắc phục tình trạng cạnh tranh xuất khẩu không lành mạnh, phá giá.

- Tiếp tục theo dõi sát diễn biến tình hình, triển khai các biện pháp phòng chống dịch bệnh, thiên tai (sửa chữa, nâng cấp các công trình thủy lợi để nâng cao năng lực sản xuất, bảo đảm tính mạng và tài sản của nhân dân trước mùa mưa lũ). Khẩn trương triển khai tạm trữ lúa gạo, hạn chế phân giao chỉ tiêu cho doanh nghiệp không nằm trên vùng sản xuất, ưu tiên cho doanh nghiệp có hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân, giảm bớt khâu trung gian. Nâng cao vai trò của các Hiệp hội trong công tác định hướng giá nông sản xuất khẩu, không để các doanh nghiệp xuất khẩu phá giá, gây thiệt hại chung. Phát triển hợp tác với các nước xuất khẩu gạo lớn để trao đổi thông tin và định hướng thị trường. Đẩy mạnh việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vụ Hè Thu đối với diện tích đất lúa năng suất kém, xen canh vụ 2, vụ 3 đối với đất chuyên lúa. Thực hiện quyết liệt đối với công tác bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm để tạo lòng tin của người tiêu dùng trong và ngoài nước, nâng cao sức mua, tạo đầu ra cho sản phẩm.Thông tin, đàm phán và tiến hành các biện pháp pháp lý cần thiết để giải quyết, tránh các vụ kiện bán phá giá và các rào cản kỹ thuật khác đối sản phẩm xuất khẩu.

- Tiếp tục thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo và việc làm. Triển khai hiệu quả các giải pháp về đào tạo nghề, tạo việc làm, nhất là đối với lao động nông thôn, lao động bị thu hồi đất sản xuất. Chủ động có kế hoạch xuất khẩu lao động tại các thị trường tiềm năng trong tương lai.

- Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh ở bệnh viện các tuyến. Tích cực triển khai Đề án giảm tải bệnh viện, đẩy nhanh tiến độ xây dựng các bệnh viện. Nghiên cứu đề xuất phương án sử dụng một phần kinh phí cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước để đầu tư xây dựng bệnh viện.

- Rà soát, kiểm tra, chấn chỉnh tình trạng một số trường đại học được thành lập nhưng chậm đầu tư và hoàn thiện các điều kiện phục vụ đào tạo. Tăng cường công tác quản lý, khắc phục hạn chế, bảo đảm chất lượng đào tạo đại học, cao đẳng.

- Đẩy mạnh thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020, bảo đảm chất lượng của kế hoạch cải cách hành chính hằng năm theo Chỉ thị số 07/CT-TTg ngày 22/5/2013 của Thủ tướng Chính phủ.

- Tiếp tục thực hiện tốt công tác thông tin, tuyên truyền bảo đảm tính khách quan về tình hình kinh tế - xã hội, mục tiêu của chính sách, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Nghiên cứu ban hành Nghị định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực báo chí và xuất bản. Các bộ, cơ quan chủ động cung cấp thông tin về ngành, lĩnh vực bảo đảm chính xác, kịp thời để tạo sự minh bạch và định hướng dư luận. Xử lý việc lợi dụng tự do dân chủ thông tin tuyên truyền sai sự thật, xuyên tạc tình hình đất nước, gây phương hại đến uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân và lợi ích của nhân dân.

Phần thứ hai

KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014

I. DỰ BÁO BỐI CẢNH THẾ GIỚI VÀ TRONG NƯỚC

Năm 2014, kinh tế thế giới dự báo sẽ có sự phục hồi tích cực hơn, tuy nhiên còn nhiều yếu tố rủi ro và chưa vững chắc. Tốc độ của cả tăng trưởng kinh tế cũng như tăng trưởng thương mại thế giới được dự báo đều đạt mức tăng đáng kể so với năm 2013[30].

Vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam nhiều khả năng khả quan hơn do sự phục hồi nhẹ của dòng vốn[31] và việc chuyển hướng dòng vốn ODA thế giới từ các nước thu nhập thấp sang các nước thu nhập trung bình, đặc biệt ở khu vực Viễn Đông, Nam và Trung Á.

Trong nước, dự báo sự hồi phục của nền kinh tế sẽ rõ rệt hơn do tác động tích cực từ nền kinh tế thế giới trên cả lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư; dư địa của các chính sách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh cuối năm 2013 cũng như sự quyết tâm của cả hệ thống chính trị. Niềm tin kinh doanh được củng cố, dòng vốn được khai thông sẽ đẩy nhanh hơn tốc độ hồi phục sản xuất. Hội nhập quốc tế sâu rộng hơn và các FTA mới (EPA, TPP, EU) sẽ có tác động tạo ra sự cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh, tạo cơ hội mở rộng đầu tư và thương mại cho doanh nghiệp.

Tăng trưởng kinh tế Việt Nam 2014 có nhiều khả năng sẽ hồi phục nhưng sẽ thiếu bền vững nếu những bất ổn mang tính cơ cấu của nền kinh tế chưa được giải quyết triệt để. Năm 2014 cũng sẽ tiềm ẩn nguy cơ lạm phát cao do tác động độ trễ của những chính sách tháo gỡ khó khăn sản xuất kinh doanh năm 2013, dòng vốn được lưu thông trở lại. Thiên tai, bão lũ, dịch bệnh có thể xảy ra cũng là yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển và đời sống nhân dân.

II. MỤC TIÊU NHIỆM VỤ VÀ CÁC CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014

1. Mục tiêu tổng quát:

Đẩy nhanh phát triển nền kinh tế đi đôi với việc giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Triển khai thực hiện mạnh mẽ tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng. Bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.

Mở rộng và nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế. Củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.

2. Dự kiến các chỉ tiêu chủ yếu của năm 2014:

a) Các chỉ tiêu kinh tế:

Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng khoảng 6% so với năm 2013

Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng khoảng 9-10% so với năm 2013

Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu ở mức dưới 10%

Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước so với GDP là 4,7%

Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội chiếm khoảng 30,0% GDP

Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng khoảng 7%

b) Các chỉ tiêu xã hội:

Tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5-2%, riêng các huyện nghèo giảm 4%

Tạo việc làm cho khoảng 1,6 triệu lao động.

Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%

Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 52%.

Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm xuống dưới 15,5%

Số giường bệnh trên một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 22,5giường

Diện tích sàn nhà ở đô thị bình quân đầu người đạt 24,2 m2/người

c) Các chỉ tiêu môi trường:

Tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng (theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg) được xử lý đạt 85%

Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường đạt 78%

Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41%

Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh: 84%

Tỷ lệ dân số đô thị được sử dụng nước sạch: 81%

Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom: 84,5%

III. DỰ KIẾN MỘT SỐ CÂN ĐỐI LỚN CỦA NỀN KINH TẾ NĂM 2014

1. Lao động và việc làm:

Năm 2014, lực lượng lao động cả nước có khoảng 54,3 triệu người, trong đó số lao động làm việc trong nền kinh tế quốc dân khoảng 54,01 triệu người.

Dự kiến năm 2014 giải quyết việc làm cho 1,6 triệu người, trong đó đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài 85nghìn người. Tỷ lệ lao động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là 45%, công nghiệp và xây dựng là 22%, dịch vụ là 33%.

2. Cân đối thu, chi ngân sách nhà nước:

Tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm 2014 khoảng 897,6 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 21,2% GDP; trong đó thu nội địa (không kể thu từ dầu thô) khoảng 604,6 nghìn tỷ đồng; thu từ dầu thô 114 nghìn tỷ đồng; thu từ xuất nhập khẩu khoảng 174 nghìn tỷ đồng; thu viện trợ không hoàn lại và quỹ dự trữ tài chính 5 nghìn tỷ đồng.

Tổng chi ngân sách nhà nước năm 2014 khoảng 1.096,6 nghìn tỷ đồng; trong đó chi đầu tư phát triển khoảng 234 nghìn tỷ đồng, chiếm 21,3% tổng chi ngân sách nhà nước.

Bội chi ngân sách nhà nước dự kiến bằng khoảng 4,7% GDP.

3. Cân đối vốn đầu tư phát triển:

Trên cơ sở cân đối tích luỹ tiêu dùng, đồng thời với việc triển khai đồng bộ các giải pháp để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển, dự báo khả năng huy động nguồn vốn đầu tư phát triển năm 2014 vào khoảng 1.260nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 30,0% GDP. Dự kiến huy động các nguồn vốn như sau:

- Nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 234 nghìn tỷ đồng, chiếm 18,5% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

- Nguồn vốn trái phiếu Chính phủ 60 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,7% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

- Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước khoảng 66 nghìn tỷ đồng, chiếm 5,2% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

- Nguồn vốn từ khu vực doanh nghiệp nhà nước khoảng 50 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,9% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

- Nguồn đầu tư của dân cư và doanh nghiệp tư nhân khoảng 520nghìn tỷ đồng, chiếm 41,2% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

- Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài dự kiến khoảng 240 nghìn tỷ đồng, chiếm 19% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

- Nguồn vốn khác dự kiến khoảng 30nghìn tỷ đồng, chiếm 2,4% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội.

4. Cân đối xuất nhập khẩu:

Tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2014 dự kiến đạt khoảng 138-140 tỷ USD, tăng 9-10% so với năm 2013. Tổng kim ngạch nhập khẩu dự kiến đạt khoảng 141-143 tỷ USD, tăng 4-5% so với năm 2013. Nhập siêu năm 2014 tiếp tục được duy trì ở mức dưới 10% so với tổng kim ngạch xuất khẩu.

Dự kiến năm 2014 xuất khẩu dịch vụ trên 10 tỷ USD, tăng hơn 10% so với năm 2013; nhập khẩu dịch vụ khoảng 14 tỷ USD, tăng hơn 8% so với năm 2013.

5. Cán cân thanh toán quốc tế:

Cán cân thương mại năm 2014 dự kiến thâm hụt 1,2 tỷ USD, cán cân vãng lai thặng dư 0,5 tỷ USD, cán cân vốn thặng dư 5,6 tỷ USD, cán cân tổng thể thặng dư 2,4 tỷ USD.

6. Cân đối về điện:

Nhu cầu điện năm 2014 dự kiến tăng khoảng 12%, nhu cầu điện thương phẩm khoảng 131 tỷ kWh, trong khi đó điện sản xuất và mua năm 2014 khoảng 146 tỷ kWh.Như vậy, nếu các dự án nguồn điện thực hiện đúng tiến độ và các biện pháp tiết kiệm điện có hiệu quả thì có thể đáp ứng đủ nhu cầu điện năm 2014. Tuy nhiên, cần tiếp tục tập trung phát triển các nguồn điện khu vực miền Nam, đầu tư phát triển hệ thống truyền tải cung cấp điện cho khu vực này, sớm đưa vào vận hành Đường dây 500kV Pleiku - Mỹ Phước - Cầu Bông và một số công trình lưới điện cấp bách, đề phòng tình trạng thiếu điện cục bộ ở khu vực này.

7. Cân đối về lương thực:

Dự kiến kế hoạch gieo trồng lúa năm 2014 cả nước là 7,5 triệu ha, sản lượng lúa dự kiến đạt 42,9 triệu tấn, bảo đảm đủ lương thực cho tiêu dùng trong nước khoảng 27,8 triệu tấn và lượng lúa hàng hoá xuất khẩu khoảng 15 triệu tấn (tương đương 7,5 triệu tấn gạo).

IV. NHIỆM VỤ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH VÀ LĨNH VỰC

Với các mục tiêu nêu trên, nhiệm vụ định hướng phát triển ngành, lĩnh vực chủ yếu trong năm 2014 đề ra như sau:

1. Về phát triển kinh tế:

a) Đẩy nhanh tiến độ thực hiện Đề án tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế giai đoạn 2013-2020. Tăng cường kiểm tra và giám sát việc tái cơ cấu và hoạt động của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước.

b) Tập trung rà soát, điều chỉnh các quy hoạch phát triển nhằm khai thác các tiềm năng, lợi thế để thúc đẩy phát triển kinh tế.Hỗ trợ triển khai các dự án đầu tưđã được cấp giấy chứng nhận đầu tư; rà soát, xử lý và thu hồi đối với các dự án đầu tư không triển khai hoặc chậm tiến độ.

c) Về phát triển công nghiệp:

Phấn đấu từng bước lấy lại đà tăng trưởng cao của ngành công nghiệp. Nghiên cứu xây dựng và điều chỉnh bổ sung cơ chế, chính sách phù hợp với điều kiện từng vùng, thị trường, phát triển các cụm công nghiệp, khu công nghiệp theo hướng tập trung, liên kết để khuyến khích các thành phần kinh tế tập trung đầu tư phát triển những sản phẩm có lợi thế cạnh tranh cao, phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp sử dụng đầu vào là các sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản. Đẩy mạnh các hoạt động ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất kinh doanh.

Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra đối với các dự án đầu tư trọng điểm của ngành công nghiệp như: các dự án nguồn và lưới điện, dầu khí, luyện kim, chế biến khoáng sản, hoá chất và phân bón, xi măng,… để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ, tránh gây thất thoát, lãng phí và ảnh hưởng tới cân bằng nguồn cung cầu trên thị trường.

d) Về phát triển nông nghiệp:

Tập trung chỉ đạo thực hiện các giải pháp thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, nhất là hỗ trợ về giống, kỹ thuật canh tác và thị trường tiêu thụ. Thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Chủ động kiểm soát và ngăn chặn lây lan dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi. Phát triển nhanh chăn nuôi theo hướng hiệu quả, an toàn dịch bệnh, tạo sản phẩm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Tạo điều kiện phát triển các cơ sở chăn nuôi, giết mổ theo hình thức gia trại, trang trại, công nghiệp, nâng cao hiệu quả chăn nuôi ở nông hộ.

Đẩy mạnh phát triển có hiệu quả kinh tế rừng. Tiếp tục thực hiện chính sách giao đất, giao rừng, khoán rừng cho các hộ gia đình, cộng đồng và tổ chức quản lý bảo vệ và phát triển rừng. Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình đầu tư trồng rừng sản xuất theo phương thức thâm canh và hiệu quả. Triển khai Đề án đổi mới nông lâm trường quốc doanh. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao tỷ lệ che phủ rừng.

Quy hoạch và quản lý khai thác hải sản theo quy hoạch. Thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ có hiệu quả và an toàn. Nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản đáp ứng yêu cầu xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.

Đẩy mạnh thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới, chương trình về nước sách và vệ sinh môi trường nông thôn. Hỗ trợ các thành phần kinh tế, nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa đầu tư vào sản xuất, phát triển công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản, tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề, dịch vụ ở nông thôn. Huy động các nguồn lực hỗ trợ từng bước xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển văn hoá, y tế, giáo dục và bảo vệ môi trường nông thôn. Xây dựng Đề án liên kết các thành phần kinh tế ở nông thôn (liên kết 4 nhà).

Nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác hệ thống công trình thuỷ lợi hiện có. Tiếp tục đầu tư phát triển các hệ thống thuỷ lợi đa mục tiêu, ưu tiên đầu tư hạ tầng phát triển thuỷ sản và nghề muối, các công trình cấp thoát nước, vệ sinh môi trường nông thôn. Thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống thiên tai, nhất là vào mùa mưa bão.

đ) Về phát triển kinh tế biển:

Phát triển mạnh kinh tế biển theo tinh thần Kết luận số 60/KL-TW của Bộ Chính trị về Chiến lược Biển, tập trung phát triển 6 nhóm ngành kinh tế biển theo Điều 43 Luật Biển Việt Nam năm 2012. Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ ngư dân đánh bắt hải sản xa bờ có hiệu quả và an toàn.

e) Về phát triển dịch vụ:

Đẩy mạnh phát triển thị trường trong nước , nhất là hỗ trợ doanh nghiệp , nông dân tiêu thụ sản phẩm. Tăng cường quản lý thị trường, ngăn chặn có hiệu quả các hành vi gian lận thương mại như: hàng giả, hàng kém chất lượng, trốn thuế, lậu thuế, thao túng thị trường trong, buôn lậu qua biên giới; đồng thời đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Nghiên cứu khắc phục những hạn chế của chuỗi cung ứng trong quy trình từ sản xuất đến tiêu dùng nhằm giảm thiểu chênh lệch giữa giá thu mua tại nơi sản xuất và giá bán cho người tiêu dùng.

Tập trung khai thác có hiệu quả, bền vững các tiềm năng, thế mạnh để phát triển du lịch, đẩy mạnh thu hút khách du lịch quốc tế. Phát triển mạnh các loại hình dịch vụ viễn thông và internet gắn liền với cung ứng dịch vụ viễn thông công ích. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp công nghệ thông tin, ứng dụng các dịch vụ công nghệ thông tin trong hoạt động của các cơ quan nhà nước và trong đời sống kinh tế - xã hội. Phát triển và duy trì mạng lưới bưu chính, chuyển phát, ổn định mạng lưới bưu chính công cộng quốc gia đảm bảo cung ứng các dịch vụ bưu chính công ích cho người dân. Phát triển, nâng cao chất lượng các dịch vụ vận tải, tài chính ngân hàng và các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh khác.

g) Về huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển:

Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Tập trung nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện các cơ chế, chính sách huy động nguồn lực xã hội hoá từ các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn, nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ.

Tiếp tục tăng cường quản lý đầu tư từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ, khắc phục tình trạng bố trí vốn phân tán, dàn trải, nâng cao hiệu quả đầu tư. Tăng cường công tác giám sát, đánh giá đầu tư để đảm bảo thực hiện đầu tư đúng quy hoạch, kế hoạch được duyệt. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước. Tiếp tục cơ cấu lại để nâng cao năng lực cạnh tranh, hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước.

Rà soát để loại bỏ các chính sách và văn bản pháp luật bất hợp lý; sửa đổi, bổ sung và triển khai ngay các cơ chế, chính sách có hiệu quả liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; tăng cường cung cấp thông tin hỗ trợ doanh nghiệp.Triển khai thực hiện Luật Hợp tác xã năm 2012, phát triển hợp tác xã kiểu mới.

h) Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế đối ngoại:

Tiếp tục tăng cường các biện pháp vận động tài trợ vốn ODA, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp thúc đẩy giải ngân vốn ODA. Đẩy mạnh thu hút và nâng cao chất lượng các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài.

i) Nhất quán thực hiện mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô.

- Thực hiện chính sách tiền tệ bảo đảm cung ứng vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế, đồng thời góp phần kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô. Phấn đấu kiềm chế lạm phát khoảng 7%.Tiếp tục phát triển đồng bộ và lành mạnh hoá thị trường tiền tệ, giảm dần tỷ lệ nợ xấu thông qua việc tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng; tiến hành thanh lọc, mua bán hoặc sáp nhập các tổ chức tín dụng có tình hình tài chính yếu kém. Triển khai có hiệu quả Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam và thực hiện tốt Đề án cơ cấu lại các ngân hàng thương mại.

Đẩy mạnh các kênh huy động vốn ngoài hệ thống ngân hàng như thị trường chứng khoán, thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài,...Tái cơ cấu thị trường chứng khoán nhằm phát huy vai trò kênh trung chuyển vốn trong nền kinh tế.

- Tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá phối hợp hiệu quả với chính sách tiền tệ và các chính sách kinh tế vĩ mô khác bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tăng cường quản lý ngân sách nhà nước, kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước.

- Kiểm soát nhập siêu ở mức hợp lý. Tiếp tục thực hiện hiệu quả các biện pháp khuyến khích, đẩy mạnh xuất khẩu, nhất là các mặt hàng có giá trị gia tăng cao. Thực hiện có hiệu quả các biện pháp hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không khuyến khích, hàng hoá xa xỉ hoặc các hàng hoá dịch vụ trong nước sản xuất được để thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước.

- Tăng cường kiểm tra, thanh tra, minh bạch hoá thông tin, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giá cả, thị trường. Giám sát các hành vi lạm dụng vị thế có thị phần lớn trên thị trường để nâng giá, giảm giá hoặc giảm chất lượng của các doanh nghiệp cung ứng các sản phẩm, dịch vụ như: điện, than, xăng dầu, dịch vụ công, thức ăn gia súc,...

2. Về phát triển xã hội:

a) Về an sinh xã hội và xoá đói giảm nghèo:

- Tập trung thực hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách tạo việc làm mới và giải quyết việc làm. Tăng cường các hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm của hệ thống Trung tâm giới thiệu việc làm; đa dạng hoá các hoạt động giao dịch việc làm; tiếp tục phát huy và nâng cao năng lực hoạt động sàn giao dịch việc làm, góp phần tích cực kết nối cung - cầu lao động. Tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp giữ và tăng thị phần ở các thị trường xuất khẩu lao động truyền thống. Đồng thời tiếp tục các hoạt động để mở rộng thị trường mới, nhất là thị trường có thu nhập cao và an toàn cho người lao động... đẩy mạnh các hình thức hợp tác đưa lao động có trình độ, tay nghề đi làm việc ở nước ngoài, như: đưa điều dưỡng viên, người lao động đi làm việc tại Nhật Bản, CHLB Đức…

Tăng cường kiểm tra, giám sát điều kiện lao động, an toàn, bảo hộ lao động; nắm bắt và giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động. Tăng cường công tác hướng dẫn đăng ký, lập thủ tục và cấp phép cho lao động người nước ngoài làm việc tại Việt Nam.

Tăng cường quản lý đối tượng đóng và tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm thất nghiệp; theo dõi, hướng dẫn, xử lý kịp thời những khó khăn, vướng mắc của cơ quan, doanh nghiệp, người dân trong thực hiện quy định của pháp luật về BHXH, bảo hiểm thất nghiệp.Đồng thời, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về BHXH, bảo hiểm thất nghiệp, kịp thời phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, nhất là hành vi trốn đóng, nợ BHXH, bảo hiểm thất nghiệp; các hành vi tiêu cực, gian lận để hưởng chế độ, trục lợi BHXH, bảo hiểm thất nghiệp.

- Phấnđấu giảm dần khoảng cách về thu nhập và đời sống giữa các vùng.Tiếp tục thực hiện đồng bộ và hiệu quả các chính sách, chương trình, dự án về giảm nghèo, nhất là đối với các huyện nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc, tập trung cho các huyện, xã, thôn, bản khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cao. Giảm dần các chính sách hỗ trợ trực tiếp “cho không”; tập trung ưu tiên thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, học nghề, tạo việc làm, xây dựng nông thôn mới; khuyến khích người nghèo tự chủ vươn lên thoát nghèo.

- Tổ chức thực hiện đầy đủ, kịp thời các chính sách an sinh xã hội đã ban hành, nhất là đối với người có công, đối tượng bảo trợ xã hội, người già cô đơn, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đồng bào miền núi, hải đảo.

Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cộng đồng , đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia trợ giúp những người thiệt thòi trong xã hội; Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, nhân đạo và sử dụng có hiệu quả các quỹ từ thiện nhân đạo. Phát triển các mô hình chăm sóc người có hoàn cảnh đặc biệt tại cộng đồng; khuyến khích khu vực tư nhân tham gia vào triển khai các mô hình chăm sóc người cao tuổi, trẻ mồ côi, người khuyết tật, nhất là mô hình nhà dưỡng lão.

Theo dõi sát tình hình thiếu đói giáp hạt, thiệt hại do thiên tai để chỉ đạo kịp thời hoạt động cứu trợ tại địa phương và đề xuất các giải pháp khắc phục hậu quả; xây dựng, triển khai nhân rộng việc thực hiện các mô hình phòng tránh và cứu trợ phù hợp để kịp thời ứng phó và hạn chế các tác động xấu của thiên tai, hướng dẫn người dân chủ động phòng chống, cứu giúp lẫn nhau khi gặp thiên tai.

b) Về chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân:

Tập trung thực hiện các nhiệm vụ: Củng cố và nâng cao hiệu quả mạng lưới y tế dự phòng và y tế cơ sở, chủ động phòng, chống dịch bệnh, không để các dịch bệnh lớn xảy ra. Tiếp tục thực hiện đồng bộ các biện pháp để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, giảm quá tải bệnh viện. Triển khai các giải pháp hiệu quả để thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về y tế, trong đó có giảm nhanh và bền vững tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em, tỷ suất chết trẻ em dưới 1 tuổi, dưới 5 tuổi, tỷ suất chết mẹ liên quan đến thai sản tại các khu vực miền núi, Tây Nguyên; khống chế lây nhiễm HIV, bệnh lao và các bệnh dịch nguy hiểm khác;... Quản lý chặt chẽ giá và chất lượng thuốc chữa bệnh. Triển khai thực hiện các nội dung về đổi mới cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp y tế công lập (trong đó có giá dịch vụ y tế); thực hiện thí điểm khám chữa bệnh theo yêu cầu. Tăng cường thanh tra, kiểm tra an toàn vệ sinh thực phẩm, dược, mỹ phẩm, vắc xin sử dụng cho người. Tăng cường phát triển nhân lực y tế; phát triển mô hình bác sỹ gia đình và y tế biển đảo. Tiếp tục thực hiện các biện pháp mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế, thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Kiểm soát tỷ lệ tăng dân số và tỷ số giới tính khi sinh. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin, truyền thông giáo dục sức khỏe.

c) Về phát triển giáo dục đào tạo:

Tập trung triển khai thực hiện Luật giáo dục đại học, Chiến lược phát triển giáo dục và Kết luận của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI). Đẩy mạnh thực hiện xã hội học tập; chấn chỉnh tình trạng dạy thêm, học thêm, liên kết đào tạo; nâng cao chất lượng giáo dục đại học, nhất là đại học ngoài công lập. Nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục, nhất là giáo dục tiểu học, phổ thông cơ sở; đảm bảo không còn sự khác biệt về giới trong tiếp cận giáo dục ở các cấp học. Tiếp tục đầu tư phát triển hệ thống dạy nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động; phát triển nhanh về quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy nghề theo 3 cấp trình độ. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực với cơ cấu hợp lý. Tiếp tục thực hiện các biện pháp nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo.

d) Về phát triển khoa học công nghệ:

Tập trung thực hiện Nghị quyết số 46/NQ-CP ngày 29/3/2013 của Chính phủ về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị Trung ương 6 (Khóa XI ) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục triển khai thực hiện Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 và các chương trình quốc gia về khoa học và công nghệ. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ cơ chế quản lý, tổ chức, hoạt động khoa học và công nghệ. Ưu tiên phát triển công nghệ cao. Phát triển dịch vụ tư vấn, thẩm định, giám định công nghệ và thị trường khoa học công nghệ. Tăng cường quản lý bảo hộ sở hữu trí tuệ.

đ) Về phát triển văn hoá:

Tiếp tục củng cố và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng, tăng cường hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa, thể dục thể thao ở các cấp. Đẩy mạnh xã hội hóa và đa dạng hoá nguồn lực đối với lĩnh vực văn hóa, thể dục thể thao. Tăng cường huy động các nguồn lực để bảo tồn, tôn tạo và phát huy các di sản văn hoá của dân tộc, trong đó chú trọng những di sản văn hoá thế giới. Tăng cường quản lý các lễ hội, hoạt động văn hoá, thể thao; hạn chế tối đa việc sử dụng ngân sách nhà nước để tổ chức lễ hội.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền; tăng cường các thông tin chính thức một cách công khai, minh bạch, kịp thời về các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước và tình hình phát triển kinh tế - xã hội. Nâng cao chất lượng các hoạt động thông tin, báo chí, xuất bản; tăng phủ sóng phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc thiểu số tới các vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới, hải đảo.

e) Xây dựng môi trường sống an toàn, thân thiện với trẻ em; bảo đảm thực hiện quyền trẻ em. Xây dựng môi trường phát triển toàn diện cho thanh niên. Chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi, xây dựng và phát triển hình mẫu gia đình văn minh, hạnh phúc. Từng bước bảo đảm bình đẳng giới trong mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội; thu hẹp khoảng cách giới, xoá dần định kiến về giới trong đời sống xã hội.

g) Tập trung giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội bức xúc; nhất là tình trạng khiếu kiện kéo dài, tham nhũng, tội phạm, ma tuý, tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông và những tiêu cực trong y tế, giáo dục.

3. Về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu:

Tiếp tục triển khai Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa XI) về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Nghị quyết của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Thực hiện có hiệu quả các định hướng ưu tiên về tài nguyên và môi trường của Chiến lược phát triển bền vững, Chiến lược tăng trưởng xanh, Chiến lược bảo vệ môi trường, Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu và thực hiện

Mục tiêu Thiên niên kỷ về bảo vệ môi trường, phát triển bền vững. Tập trung thực hiện:

a) Giảm thiểu ô nhiễm môi trường, khắc phục và cải thiện chất lượng môi trường, tập trung xử lý môi trường làng nghề. Tiếp tục tăng số khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường; kiên quyết xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.

b) Nâng cao khả năng phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai, sự biến động khí hậu bất lợi đối với môi trường; ứng cứu kịp thời và khắc phục hậu quả xấu do thiên tai gây ra. Tăng cường khả năng dự báo các biến động bất lợi của thời tiết. Thực hiện khung hướng dẫn ưu tiên đầu tư ứng phó biến đổi khí hậu.

c) Sử dụng hợp lý, có hiệu quả và bền vững tài nguyên thiên nhiên, môi trường ở các lưu vực sông, bảo đảm cân bằng sinh thái, bảo tồn thiên nhiên và giữ gìn đa dạng sinh học. Tích cực triển khai các thủ tục để Việt Nam tham gia Công ước Liên hợp quốc về sử dụng các nguồn nước quốc tế vào năm 2014. Ngăn chặn quyết liệt, hiệu quả tình trạng chặt phá rừng. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao nhận thức về gìn giữ và bảo vệ môi trường.

4. Về cải cách hành chính; phòng chống tham nhũng, lãng phí; khiếu nại tố cáo:

Đẩy mạnh triển khai thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính giai đoạn 2011 - 2020, tập trung vào đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp và nhân dân. Nâng cao chất lượng, khắc phục tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật và việc ban hành văn bản không phù hợp, không khả thi. Tích cực triển khai Đề án cải cách chế độ công vụ, công chức; tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động công vụ. Cụ thể hoá các mục tiêu về xây dựng Chính phủ điện tử trong mỗi lĩnh vực quản lý nhà nước và xây dựng kế hoạch triển khai thiết lập hệ thống thông tin kết nối bộ, ngành, địa phương, đẩy mạnh mô hình một cửa. Triển khai Đề án tổng thể đơn giản hoá thủ tục hành chính, giấy tờ công dân và các cơ sở dữ liệu liên quan đến quản lý dân cư giai đoạn 2013-2020.

Tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra để phòng ngừa, phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng. Chỉ đạo thực hiện nghiêm các kết luận thanh tra và việc xử lý sau thanh tra. Kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan chuyên trách về phòng, chống tham nhũng. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; hạn chế thấp nhất các đoàn khiếu nại đông người.

5. Về công tác đối ngoại, quốc phòng, an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội:

Tiếp tục thực hiện tốt đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đất nước.

Tăng cường củng cố quốc phòng an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đặc biệt tại các khu vực trọng điểm, vùng biên giới và hải đảo, tạo môi trường hoà bình, chính trị ổn định cho sự phát triển của đất nước. Tăng cường đầu tư và sử dụng các nguồn lực bảo đảm cho các lực lượng hoạt động, quản lý, bảo vệ và chấp pháp trên biển; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các lực lượng trọng yếu đảm bảo công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong tình hình mới; tập trung đẩy nhanh tiến độ triển khai khu kinh tế - quốc phòng biển, đảo, các khu kinh tế quốc phòng trọng điểm; đẩy nhanh tiến độ xây dựng các đồn trạm biên phòng, xoá nhà cấp 4 cho bộ đội.

V. TIẾN ĐỘ XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014

Các nội dung phân công, quy trình, tiến độ và nhiệm vụ xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của các bộ, ngành, địa phương được thực hiện theo Chỉ thị số 13/CT-TTg ngày 25 tháng 6 năm 2013của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và Dự toán ngân sách nhà nước năm 2014. Cụ thể như sau:

- Các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và Khung hướng dẫn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hướng dẫn của Bộ Tài chính và điều kiện của bộ, ngành, địa phương mình, tiến hành xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014, gửi báo cáo đến Bộ Kế hoạch và Đầu tư trước ngày 20 tháng 7 năm 2013.

- Trong tháng 8 năm 2013, Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho ý kiến về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của các bộ, ngành, địa phương và tiến hành tổng hợp Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 của cả nước.

- Trước ngày 10 tháng 9 năm 2013, các Bộ, ngành, địa phương, tiếp thu ý kiến của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính và các cơ quan liên quan, hoàn chỉnh Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 gửi lại Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

- Trong tháng 9 năm 2013, Bộ Kế hoạch và Đầu tư báo cáo Chính phủ Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014để Chính phủ cho ý kiến, hoàn chỉnh, trình Quốc hội theo quy định.

-Trước ngày 20 tháng 11 năm 2013, căn cứ các Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ giao chỉ tiêu Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 cho các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các địa phương, các cơ quan, đơn vị khác.

Trên đây là nội dung hướng dẫn xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014. Đề nghị các bộ, ngành, địa phương căn cứ vào Chỉ thị số 13/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Khung hướng dẫn này,hướng dẫn của Bộ Tài chính và tình hình, đặc điểm cụ thể của từng bộ, ngành, địa phương, khẩn trương xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014và gửi Báo cáo bằng văn bản về Bộ Kế hoạch và Đầu tư(2 bản), Bộ Tài chính trước ngày 20 tháng 7 năm 2013, đồng thời gửi kèm file theo địa chỉ e-mail: thktqd@mpi.gov.vn để tổng hợp báo cáo Thủ tướng Chính phủ./.

 

 

Nơi nhận:
- Văn phòng Chính phủ (để b/c TTCP);
- Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương ;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- Các Sở Kế hoạch và Đầu tư;
- Các Tập đoàn kinh tế nhà nước, Tổng công ty 91;
- Ngân hàng phát triển Việt Nam, Ngân hàng Chính sách xã hội;
- Bộ KH&ĐT: Lãnh đạo Bộ, các đơn vị trực thuộc Bộ, Cổng TTĐT;- Lưu: VT, VụTHKTQD (10b).

BỘ TRƯỞNG




Bùi Quang Vinh

 

PHỤ LỤC 1

CÁC BIỂU MẪU XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2014 CỦA CÁC CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG
(Kèm theo công văn số    /BKHĐT-TH ngày    tháng 6 năm 2013)

Biểu 1: Các chỉ tiêu sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản

Biểu 2: Các chỉ tiêu sản xuất công nghiệp và xây dựng Biểu 3: Các chỉ tiêu dịch vụ

Biểu 4: Các chỉ tiêu xuất khẩu, nhập khẩu

Biểu 5: Cân đối ngân sách nhà nước

Biểu 6: Cán cân thanh toán quốc tế

Biểu 7: Các chỉ tiêu tiền tệ

Biểu 8: Các chỉ tiêu xã hội

Biểu 9: Các chỉ tiêu giáo dục và đào tạo

Biểu 10: Các chỉ tiêu môi trường

Biểu 11:Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Biểu 12: Chỉ tiêu thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia

Biểu 13:Năng lực mới tăng thêm

Biểu 14: Danh mục các dự án quy hoạch

 

PHỤ LỤC 2

CÁC BIỂU MẪU XÂY DỰNG KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI NĂM 2013 CỦA CÁC TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG
(Kèm theo công văn số    /BKHĐT-TH ngày    tháng 6 năm 2013)

Biểu 1: Các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp

Biểu 2: Các chỉ tiêu nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, xuất nhập khẩu

Biểu 3: Các chỉ tiêu xã hội

Biểu 4: Các chỉ tiêu môi trường và phát triển bền vững

Biểu 5: Các chỉ tiêu phát triển doanh nghiệp và kinh tế tập thể

Biểu 6: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

Biểu 7: Danh mục các dự án quy hoạch

 

 

FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN

 

 

 



[1] Tài liệu này có thể tải về từ Cổng thông tin điện tử Bộ Kế hoạch và Đầu tư (www.mpi.gov.vn).

[2] Thủ tướng Chính phủ đã ra các Quyết định: số 1788/QĐ-TTg ngày 05/12/2012 về việc giao chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2013; số 1792/QĐ-TTg ngày 30/11/2012 về việc giao dự toán NSNN năm 2013; số 1902/QĐ-TTg ngày 19/12/2012 về việc giao kế hoạch vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN năm 2013; số 2086/QĐ-TTg ngày 27/12/2012 về việc giao kế hoạch vốn TPCP năm 2013; và số 2081/QĐ-TTg ngày 26/12/2012 về việc giao dự toán NSTW năm 2013 thực hiện chương trình MTQG ứng phó với biến đổi khí hậu và Chương trình MTQG khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường.

[3] Lãi suất huy động của các TCTD đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng phổ biến ở mức 1,5-2%/năm; kỳ hạn 1 tháng đến dưới 12 tháng là 5-7,5%/năm; kỳ hạn từ 12 tháng trở lên là 8-10,5%/năm. Lãi suất huy động USD phổ biến là 2%/năm đối với tiền gửi của dân cư và 0,5%/năm đối với tiền gửi của tổ chức. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với một số lĩnh vực ưu tiên ở mức 10%/năm. Các ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước và có cổ phần nhà nước chi phối điều chỉnh giảm tất cả các khoản vay có lãi suất trên 13%/năm về mức 13%/năm. Hiện nay, lãi suất cho vay phổ biến đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa, công nghiệp hỗ trợ, doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở mức 8-10%/năm; lãi suất cho vay lĩnh vực sản xuất, kinh doanh khác ở mức 9-11%/năm ở khối NHTM Nhà nước, 11-12%/năm ở khối NHTM cổ phần; trong đó, một số doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch, phương án, dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả đã được các NHTM cho vay với mức lãi suất chỉ từ 7,5-8%/năm. Lãi suất cho vay USD phổ biến 5-8%, trong đó các NHTM Nhà nước là 4-5%/năm đối với ngắn hạn, 6-7,5%/năm đối với trung và dài hạn; các NHTM cổ phần khoảng 5,5-6,5%/năm đối với ngắn hạn, 6,5-8%/năm đối với trung và dài hạn.

[4] Xuất khẩu dầu thô ước đạt gần 4,4 triệu tấn, tăng 3,4% về lượng và giảm 2% về kim ngạch; than đá ước đạt 7,8 triệu tấn, tăng 7,5% về lượng và giảm 14,7% về kim ngạch.

[5] Điện thoại các loại và linh kiện đạt 9,9 tỷ USD, tăng 97%; dệt may đạt gần 8 tỷ USD, tăng 16,8%; da giày đạt 4,1 tỷ USD, tăng 16,4%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 2,4 tỷ USD, tăng 12%; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 4,7 tỷ USD, tăng 39,3%.

[6] Xuất khẩu gạo đạt gần 3,7 triệu tấn, giảm 4,2% về lượng và giảm 7,4% về kim ngạch; cà phê đạt 804 ngàn tấn, giảm 23,4% về lượng và giảm 21,9% về kim ngạch; cao su đạt 384 ngàn tấn, giảm 4,7% về lượng và giảm 19,5% về kim ngạch.

[7] Tháng 01 tăng 5%; 02 tháng tăng 5%; 3 tháng tăng 7,1%; 4 tháng tăng 3,9%; 5 tháng tăng 1,6%; 6 tháng tăng 5,6% so với cùng kỳ 2012.

[8] Một số ngành sản xuất có chỉ số tồn kho tăng cao là: sản phẩm điện tử, máy vi tính và quang học tăng 8,6%; đồ uống tăng 5,4%; giường, tủ, bàn ghế tăng 26,3%; kim loại tăng 12,3%; thiết bị điện tăng 17,7%; hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 32,3%; thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 16%. Một số ngành sản xuất có chỉ số tồn kho tăng thấp hoặc giảm là: Dệt tăng 5,4%; da tăng 4,5%; chế biến thực phẩm tăng 3,1%; giấy và sản phẩm từ giấy giảm 0,3%; xe có động cơ giảm 5,1%; sản phẩm thuốc lá giảm 41,1%.

[9] Năng suất vụ Đông Xuân 2013 giảm 0,6% (0,4 tạ/ha) so với năm trước do năng suất lúa vụ Đông Xuân của Việt Nam đã rất cao, khoảng 65 tạ/ha, trong khi năng suất bình quân trên thế giới là khoảng trên 40 tạ/ha. Vì vậy, năng suất rất dễ bị ảnh hưởng từ các yếu tố dịch bệnh, thời tiết và rất khó để tiếp tục tăng năng suất.

[10] Sản lượng lúa cả năm đạt khoảng 43,7 triệu tấn. Riêng vùng ĐBSCL, sản lượng lúa cả năm ước đạt 24,571 triệu tấn (so với 2012 tăng khoảng 172 ngàn tấn). Với sản lượng lúa như trên, lượng gạo dành cho xuất khẩu cả năm khoảng 8,3 triệu tấn. Trong khi đó, theo dự báo của FAO, sản lượng gạo toàn cầu ước đạt 489,5 triệu tấn trong khi nhu cầu tiêu dùng ước đạt 477,8 triệu tấn và tồn kho ở mức 173,1 triệu tấn. So với thời điểm cuối năm 2012, sản lượng gạo tăng 4,3 triệu tấn. 6 tháng đầu năm 2013 gạo xuất khẩu ước đạt 3,7 triệu tấn, giảm 4% về lượng nhưng giảm 7% về giá trị.

[11] Tính đến nay, các địa phương trong cả nước đã hỗ trợ hơn 1.600 tỷ đồng hỗ trợ trên 7.000 mô hình sản xuất góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất từ 10-15%.

[12] Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/2/2013.

[13] Quyết định 498/QĐ-TTg ngày 21/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ: Đối với các công trình quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản, sử dụng thiết kế mẫu, thiết kế điển hình thì chỉ cần lập dự toán đơn giản, giao cho cộng đồng hưởng lợi tự thực hiện.

[14] Số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 4 tháng giảm 1,2%, 5 tháng tăng 4,8%, 5 tháng tăng 7,6% so với cùng kỳ.

[15] Đến nay, nhiều Trung tâm đã tổ chức định kỳ, thường xuyên như Đà Nẵng, Bến Tre, Bắc Ninh (1 phiên/tuần), Hà Nội (3 phiên/tuần), Hải Dương, Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Long An, …

[16] Mức lương tối thiểu mới sẽ tăng lên chia theo 4 vùng I, II, III, IV. Vùng I là 2.350.000 đồng/tháng, vùng II là 2.100.000 đồng/tháng, vùng III là 1.800.000 đồng/tháng, và vùng IV là 1.650.000 đồng/tháng.

[17] Tính đến ngày 17/6/2013, Chính phủ đã ban hành 12 quyết định, hỗ trợ cứu đói cho 22 tỉnh với số lượng 40.734 tấn gạo; đã thực hiện cấp phát là 38.038 tấn gạo hỗ trợ cứu đói cho nhân dân 20 tỉnh, trong đó cấp trước Tết Nguyên đán là 23.151 tấn, cấp sau Tết Nguyên đán là 14.887 tấn; đang triển khai cấp phát là 2.696 tấn cho các tỉnh mới có quyết định trong tháng 6/2013.

[18] Chính phủ đã ban hành Nghị định số 31/2013/NĐ-CP ngày 9/4/2013 quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Quyết định số 22/2013/QĐ-TTg ngày 26/4/2013 về hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở; Nghị định số 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng.

[19] Như ghép thận, ghép gan, thụ tinh trong ống nghiệm, phẫu thuật tim hở, thông/nong mạch vành, mổ nội soi phẫu thuật mạch máu, thay ổ chỏm khớp, lọc máu, tán sỏi ngoài cơ thể...

[20] Trong 6 tháng đầu năm 2013, cả nước có trên 25 nghìn trường hợp mắc bệnh chân tay miệng, giảm 41,7% so với cùng kỳ năm trước, trong đó có 7 trường hợp tử vong, giảm 70,8%; gần 14 nghìn người mắc bệnh sốt xuất huyết, giảm 7%, trong đó có 10 trường hợp tử vong;… Trong 6 tháng đầu năm xảy ra 43 vụ ngộ độc thực phẩm với 1.110 người mắc và15 trường hợp tử vong.

[21] Tính đến 31/5/2013, cả nước có 1.332 cơ sở dạy nghề, trong đó: 158 trường cao đẳng nghề, 304 trường trung cấp nghề và 870 trung tâm dạy nghề.

[22] Tập trung rà soát, sửa đổi Luật Đất đai năm 2003, Luật Bảo vệ môi trường năm 2005; triển khai xây dựng Luật Khí tượng thuỷ văn, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo;... Ban hành Nghị quyết của Chính phủ về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, Nghị định của Chính phủ quy định điều kiện của tổ chức hoạt động dịch vụ quan trắc môi trường, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về thẩm quyền quyết định danh mục cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng cần phải xử lý triệt để; xây dựng các Nghị định về xử lý vi phạm hành chính trong các lĩnh vực khí tượng thuỷ văn, đo đạc bản đồ, tài nguyên nước; xây dựng quy trình vận hành liên hồ chứa trên các sông Sê San, Đồng Nai, Srepok, Ba - Hinh, Vu Gia - Thu Bồn,...

[23] Hiện có 22/63 tỉnh đã hoàn thành việc lập, phê duyệt Quy hoạch quản lý chất thải rắn trên địa bàn, các tỉnh còn lại đang lập và dự kiến trình phê duyệt năm 2013.

[24] Cứu 887 người, 59 phương tiện bị nạn trên biển.

[25] Như mô hình 141 của thành phố Hà Nội, 622 của thành phố Hồ Chí Minh.

[26] Tính đến trung tuần tháng 3, đã điều tra khám phá gần 10.832 vụ phạm tội về trật tự xã hội, xử lý 24.909 đối tượng, triệt phá 478 băng nhóm tội phạm; phát hiện, xử lý 3.639 vụ vi phạm về trật tự kinh tế, trong đó có 87 vụ vi phạm pháp luật về tham nhũng, lợi dụng chức vụ; xử lý 2.658 vụ với 12.047 đối tượng cờ bạc, phá 4.968 vụ với 7.390 đối tượng phạm tội ma túy; bắt và vận động 3.001 đối tượng truy nã trong đó có 789 đối tượng nguy hiểm, đặc biệt nguy hiểm.

[27] Tổ chức thành công Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài lần thứ II, Kiều bào thăm Trường Sa, Chương trình Xuân Quê hương. Bảo vệ quyền và lợi ích của công dân, ngư dân, lao động làm việc ở nước ngoài; hỗ trợ kiều bào ta tại các địa bàn khó khăn.

[28] Nguồn: báo cáo của WTO tháng 4/2013

[29] Khảo sát mới nhất của DAC về các kế hoạch chi tiêu tương lai của các thành viên DAC.

[30] Tốc độ tăng trưởng kinh tế và thương mại thế giới 2014 được dự báo đạt mức tương ứng là 4% và 5.3%, cao hơn so với mức 3.3% và 3.6% tương ứng của năm 2013.

[31] Dự báo dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu năm 2014 phục hồi nhẹ lên 1,6 nghìn tỷ USD (so với mức 1.4 tỷ USD năm 2013) (UNCTAD, 01/2013). Dòng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) năm 2014 dự báo chỉ tăng nhẹ do khó khăn của nhiều Chính phủ quốc gia tài trợ.

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Hướng dẫn 4480/BKHĐT-TH xây dựng Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2014 do Bộ Kế hoạch và Đầu tư ban hành

  • Số hiệu: 4480/BKHĐT-TH
  • Loại văn bản: Hướng dẫn
  • Ngày ban hành: 28/06/2013
  • Nơi ban hành: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
  • Người ký: Bùi Quang Vinh
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản