BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 1350-TC/ĐTPT | Hà Nội, ngày 27 tháng 3 năm 1999 |
CÔNG VĂN
CỦA BỘ TÀI CHÍNH SỐ 1350 TC/ĐTPT NGÀY 27 THÁNG 3 NĂM 1999 VỀ VIỆC CẤP THU HỒI VỐN TÍN DỤNG ĐẦU TƯ CỦA NHÀ NƯỚC NĂM 1999 QUA HỆ THỐNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN
Kính gửi: | - Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ |
Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 248/1998/QĐ-TTg ngày 24/12/1998 về một số chủ trương, biện pháp điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 1999 và Quyết định số 13/1999/QĐ-TTg ngày 4/2/1999 về công tác tín dụng đầu tư năm 1999. Để thực hiện nghiêm túc các Quyết định nêu trên của Thủ tướng Chính phủ và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai thực hiện kế hoạch tín dụng đầu tư của Nhà nước, góp phần đơn giản hoá thủ tục hành chính, Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tài chính cấp và thu hồi vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thuộc kế hoạch năm 1999 như sau:
I. ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN ĐANG VAY DỞ DANG:
1. Các dự án đang vay dở dang là các dự án đang vay vốn thuộc kế hoạch năm 1998 tại hệ thống Tổng cục Đầu tư phát triển, nếu tiếp tục bảo đảm khả năng trả nợ vay thì được bố trí đủ vốn để thực hiện theo tiến độ xây dựng và cơ cấu nguồn vốn đã xác định trong quyết định đầu tư.
2. Căn cứ nhu cầu vốn đầu tư để thực hiện dự toán theo nguyên tắc trên, chủ đầu tư của dự án đăng ký mức vốn vay với cơ quan chủ quản và tổ chức cho vay: cơ quan chủ quản tổng hợp nhu cầu vay vốn của các dự án thuộc trách nhiệm quản lý, báo cáo Bộ Kế hoạch và Đầu tư đồng thời gửi tổ chức cho vay. Trường hợp việc đăng ký kế hoạch của Bộ, địa phương chưa phù hợp với nguyên tắc nêu tại điểm 1 thì tổ chức cho vay phải có ý kiến bằng văn bản gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư và cơ quan chủ quản đề nghị điều chỉnh lại cho phù hợp.
Căn cứ tổng mức vốn vay kế hoạch năm 1999 của các dự án đang vay dở dang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo, các Bộ và địa phương phân khai danh mục và mức vốn vay của từng dự án cụ thể gửi Tổng cục Đầu tư phát triển chậm nhất là sau 01 tháng kể từ ngày Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo kế hoạch cho các Bộ, địa phương; việc phân khai kế hoạch phải đảm bảo trên nguyên tắc nêu tại điểm 1, trong đó cần ưu tiên bố trí vốn cho các dự án có khả năng hoàn thành dứt điểm trong năm 1999, các dự án có điều kiện đẩy nhanh tiến độ. Trường hợp tổng mức vốn vay của các dự án đang vay dở dang được thông báo không đủ để bố trí vốn theo nguyên tắc này thì cơ quan chủ quản được sử dụng một phần nguồn vốn vay cho các dự án vay mới trong kế hoạch năm 1999 để phân bổ cho các dự án đang vay dở dang, với điều kiện không làm tăng tổng mức kế hoạch vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước năm 1999 của Bộ, địa phương đã được Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo.
3. Trường hợp dự án cho vay dở dang được bố trí vào kế hoạch năm 1999 nhưng thực sự không có hiệu quả, không đảm bảo khả năng trả nợ vay, trong thời hạn 45 ngày từ khi nhận đủ hồ sơ vay vốn của dự án, tổ chức cho vay phải thông báo bằng văn bản lý do từ chối cho vay đến chủ đầu tư, cơ quan chủ quản, Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Cơ quan chủ quản có trách nhiệm báo cáo tình hình và số liệu cho Bộ Kế hoạch và Đầu tư để có căn cứ tổng hợp, kiến nghị các biện pháp xử lý số vốn (gốc và lãi vay) mà dự án còn nợ tổ chức cho vay trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.
4. Thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, bảo đảm tiền vay và trách nhiệm của cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư và tổ chức cho vay đối với các dự án đang cho vay dở dang được tiếp tục vay vốn trong kế hoạch năm 1999 được thực hiện theo quy định tại Quyết định số 52/1998/QĐ-TTg ngày 3/3/1998 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai kế hoạch tín dụng đầu tư năm 1998. Phần vốn dự án đã vay theo kế hoạch Nhà nước từ các năm trước được tiếp tục thực hiện theo các hợp đồng tín dụng đã ký hàng năm giữa đơn vị vay vốn với các Cục ĐTPT.
II. ĐỐI VỚI CÁC DỰ ÁN CHO VAY MỚI NĂM 1999
1. Đối với các dự án cho vay mới trong kế hoạch năm 1999, đối tượng vay vốn tập trung ưu tiên cho các dự án có hiệu quả kinh tế, có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và có đủ thủ tục đầu tư và xây dựng theo quy định, thuộc các ngành, lĩnh vực, chương trình Quốc gia được quy định tại Điều 3 và Điều 6 của Quyết định số 13/1999/QĐ-TTg ngày 04/02/1999 của Thủ tướng Chính phủ về công tác tín dụng đầu tư năm 1999. Vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước thuộc kế hoạch năm 1999 không dùng để cho vay đảo nợ các khoản vay trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng, không cho vay để góp vốn liên doanh với nước ngoài, trường hợp đặc biệt phải có ý kiến của Thủ tướng Chính phủ.
2. Lãi suất cho vay là 0,81%/tháng. Riêng những dự án thuộc các chương trình mục tiêu và các chương trình khác, mức lãi suất cho vay thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ đối với từng chương trình.
3. Thời hạn cho vay bao gồm cả thời gian ân hạn và thời gian trả nợ, là khoảng thời gian tính từ khi dự án nhận khoản vay đầu tiên đến khi trả hết nợ (gốc và lãi), được xác định căn cứ vào khả năng thu hồi vốn của dự án và khả năng trả nợ của chủ đầu tư nhưng tối đa không quá 10 năm. Trường hợp vượt thời hạn trên phải được Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia xem xét, quyết định. Điều kiện để xem xét là các dự án đầu tư có tính đặc thù, có thời gian thực hiện đầu tư, chu kỳ sản xuất kinh doanh dài (trồng rừng nguyên liệu, trồng cây công nghiệp dài ngày, các công trình điện, than, khu công nghiệp...) hoặc các dự án có hiệu quả kinh tế thấp, có thời gian hoàn vốn dài nhưng thật sự cần thiết cho nền kinh tế.
4. Tổ chức cho vay là Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia (bao gồm Quỹ Trung ương và các chi nhánh Quỹ tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).
5. Bảo đảm tiền vay:
5.1. Chủ đầu tư là đơn vị ngoài quốc doanh khi vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước theo kế hoạch năm 1999 phải có tài sản thế chấp thuộc sở hữu hợp pháp. Tổ chức cho vay chỉ cho vay số vốn tối đa không quá 70% giá trị tài sản thế chấp, trong phạm vi tổng dự toán được duyệt và kế hoạch vay vốn đã bố trí cho dự án.
Việc thế chấp tài sản khi vay vốn của các đơn vị ngoài quốc doanh thực hiện theo các quy định hiện hành của Nhà nước và hướng dẫn tạm thời của Bộ Tài chính về việc thế chấp tài sản vay vốn tín dụng đầu tư năm 1999.
5.2. Chủ đầu tư là doanh nghiệp Nhà nước khi vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước theo kế hoạch năm 1999 không phải thế chấp tài sản và được lấy tài sản hình thành bằng vốn vay làm bảo đảm nợ vay.
Trong thời gian chưa trả hết nợ vay (gốc và lãi) cho tổ chức cho vay, chủ đầu tư không được dùng tài sản hình thành bằng vốn vay để thế chấp cho khoản vay mới; không tự động điều chuyển, nhượng bán tài sản hình thành bằng vốn vay cho đơn vị khác nếu không được tổ chức cho vay đồng ý bằng văn bản. Chủ đầu tư có trách nhiệm thông báo cho tổ chức cho vay mọi thay đổi về tổ chức hoạt động của đơn vị có liên quan đến việc quản lý, sử dụng tài sản hình thành bằng vốn vay như: chuẩn bị chia tách, sát nhập, bán, khoán, cho thuê, cổ phần hoá, giải thể, phá sản... cũng như phương án thanh toán số nợ vay còn lại cho tổ chức cho vay theo Hợp đồng tín dụng và kế ước nhận nợ vay vốn.
6. Nguyên tắc phân bổ kế hoạch và điều chỉnh kế hoạch:
6.1. Thủ tướng Chính phủ quyết định tổng nguồn vốn, danh mục và mức vốn cho vay năm 1999 của từng dự án nhóm A phù hợp với tiến độ xây dựng và cơ cấu nguồn vốn đã được xác định trong Quyết định đầu tư.
6.2. Đối với các dự án nhóm B và C, căn cứ vào khả năng nguồn vốn đã được Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ Kế hoạch và Đầu tư giao tổng mức vốn cho vay các dự án mới thuộc nhóm B và C cho từng Bộ, địa phương; căn cứ tổng mức vốn được Bộ Kế hoạch và Đầu tư thông báo, các Bộ, địa phương bố trí vốn cho từng dự án cụ thể theo nguyên tắc tập trung ưu tiên cho các dự án đúng đối tượng được vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, có đủ thủ tục đầu tư theo quy định tại Điều lệ quản lý Đầu tư và Xây dựng, thực sự cần thiết, có hiệu quả, có khả năng thu hồi vốn trực tiếp và bảo đảm trả nợ trong thời hạn quy định. Mức vốn cho vay đối với từng dự án phải được bố trí đủ để bảo đảm tiến độ xây dựng theo quyết định đầu tư và có 70% số dự án nhóm C hoàn thành trong năm kế hoạch. Trường hợp Bộ và địa phương bố trí kế hoạch vay vốn cho các dự án không đúng quy định trên, cơ quan cho vay có quyền từ chối không ký hợp đồng tín dụng cho vay vốn và thông báo cho Bộ, địa phương đó biết để có điều chỉnh kế hoạch.
7. Trình tự và thủ tục vay vốn:
7.1. Tất cả các dự án không phân biệt được Quyết định đầu tư trước hoặc sau ngày 31/3/1999, khi bố trí vào kế hoạch vay vốn năm 1999 phải có đủ thủ tục đầu tư và xây dựng theo quy định, cụ thể là phải có Quyết định đầu tư và tổng dự toán công trình được cấp có thẩm quyền phê duyệt; những dự án thuộc nhóm A, B nếu chưa có thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được duyệt thì trong Quyết định đầu tư phải quy định mức vốn của từng hạng mục và phải có thiết kế, dự toán được duyệt của hạng mục khởi công trong năm.
7.2. Các dự án có Quyết định đầu tư trước thời điểm 31/3/1999, chủ đầu tư thực hiện quy trình ký Hợp đồng tín dụng với tổ chức cho vay theo các quy định của tổ chức cho vay đối với các dự án mới trong kế hoạch năm 1998. Trong thời hạn tối đa 45 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ vay vốn do Chủ đầu tư gửi đến tổ chức cho vay, phải xem xét và thông báo bằng văn bản cho chủ đầu tư về quyết định của mình (cho vay hoặc không cho vay).
7.3. Các dự án được quyết định đầu tư sau ngày 31/3/1999, cơ quan có thẩm quyền chỉ ra quyết định đầu tư khi đã có ý kiến bằng văn bản của tổ chức cho vay về phương án tài chính, hiệu quả của dự án.
Việc thẩm định phương án tài chính, hiệu quả của dự án thực hiện thống nhất theo Quy chế thẩm định do Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia ban hành.
Sau khi tổ chức cho vay đã có văn bản chấp thuận phương án tài chính, hiệu quả của dự án và khả năng trả nợ của dự án và chủ đầu tư, cơ quan có thẩm quyền phê duyệt quyết định đầu tư và bố trí kế hoạch vay vốn cho dự án. Căn cứ kế hoạch vay vốn đã được thông báo, chủ đầu tư có trách nhiệm hoàn chỉnh hồ sơ vay vốn để làm thủ tục ký hợp đồng tín dụng với tổ chức cho vay.
Để đảm bảo cho dự án được triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện của thị trường trong từng thời gian; nếu sau thời hạn 1 năm kể từ khi tổ chức cho vay có ý kiến thẩm định mà cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định đầu tư hoặc đã có quyết định đầu tư mà chủ đầu tư chưa triển khai thực hiện dự án, thì trước khi phê duyệt quyết định đầu tư hoặc trước khi triển khai thực hiện dự án, phải có ý kiến xác nhận lại của tổ chức cho vay về phương án tài chính và hiệu quả của dự án.
7.4. Việc cấp vốn vay, thu hồi nợ vay (gốc và lãi) được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 60 TC/ĐTPT ngày 23/10/1996 của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, cho vay vốn tín dụng ưu đãi của Nhà nước.
Để nâng cao trách nhiệm của chủ đầu tư trong việc triển khai thực hiện dự án, đẩy nhanh tiến độ xây dựng, sớm đưa công trình vào sản xuất sử dụng, đồng thời để tạo điều kiện cho Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia chủ động bố trí nguồn vốn cho vay, việc cấp vốn vay cho các dự án nhóm B và C thuộc kế hoạch vay vốn năm 1999 thực hiện tối đa đến ngày 31/12/2000.
8. Về trách nhiệm của cơ quan quyết định đầu tư, chủ đầu tư và tổ chức cho vay:
8.1. Cơ quan quyết định đầu tư chịu trách nhiệm toàn diện về tính khả thi và hiệu quả đầu tư của dự án.
8.2. Chủ đầu tư chịu trách nhiệm lập hồ sơ vay vốn theo hướng dẫn của tổ chức cho vay, sử dụng vốn vay đúng mục đích, có hiệu quả, thực hiện đầu tư dự án theo đúng tiến độ xây dựng tại quyết định đầu tư, sớm đưa dự án vào khai thác sử dụng, tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh có hiệu quả và hoàn trả nợ vay (gốc và lãi) đầy đủ, đúng hạn theo hợp đồng tín dụng cho tổ chức cho vay.
8.3. Tổ chức cho vay chịu trách nhiệm về ý kiến tham gia thẩm định phương án tài chính, hiệu quả của dự án. Sau khi dự án đã được phê duyệt và bố trí vào kế hoạch vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước, tổ chức cho vay có trách nhiệm triển khai ký hợp đồng tín dụng với đơn vị vay vốn theo quy định; Cung ứng vốn vay kịp thời theo tiến độ xây dựng của dự án và đúng chế độ quy định; kiểm tra giám sát việc thực hiện vốn vay đúng mục đích, thu hồi nợ vay đầy đủ đúng hạn. Trường hợp do quá trình thẩm định phương án tài chính và hiệu quả dự án của tổ chức cho vay chưa đảm bảo theo đúng quy định dẫn đến quyết định đầu tư sai, hoặc tổ chức cho vay cung ứng vốn vay chậm, cho vay không đúng chế độ quy định gây thất thoát lãng phí thì tổ chức cho vay phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
9. Các quy định về điều chỉnh thời hạn trả nợ, thời điểm trả nợ.
Về nguyên tắc, thời hạn trả nợ của dự án tính từ khi dự án được đưa vào sản xuất kinh doanh cho đến khi dự án trả hết nợ (gốc và lãi) và được quy định trong hợp đồng tín dụng; đơn vị vay vốn phải trả nợ vay theo đúng hợp đồng tín dụng đã ký. Trường hợp do nguyên nhân khách quan, dự án không trả được nợ vay theo hợp đồng tín dụng thì cho vay xem xét lùi thời điểm bắt đầu trả nợ hoặc gia hạn thời hạn trả nợ cho dự án theo nguyên tắc một dự án chỉ được điều chỉnh trả nợ 01 lần và việc điều chỉnh trả nợ không làm vượt thời hạn cho vay tối đa đã được quy định. Các trường hợp điều chỉnh quá quy định nêu trên phải được Bộ tài chính hoặc Hội đồng quản lý Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia xem xét, quyết định.
Trên đây là một số nội dung về cơ chế cấp và thu hồi vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước kế hoạch năm 1999. Bộ Tài chính đề nghị các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ, các Tổng công ty thành lập theo Quyết định 91/TTg, Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo các đơn vị vay vốn phối hợp với Tổng cục Đầu tư phát triển và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia tổ chức thực hiện.
Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc, đề nghị các Bộ và địa phương phản ánh kịp thời về Bộ Tài chính (Tổng cục Đầu tư phát triển và Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia) để nghiên cứu giải quyết.
| Lê Thị Băng Tâm (Đã ký)
|
Công văn về việc cấp và thu hồi tín dụng đầu tư của Nhà nước năm 1999 qua hệ thống đầu tư phát triển
- Số hiệu: 1350-TC/ĐTPT
- Loại văn bản: Công văn
- Ngày ban hành: 27/03/1999
- Nơi ban hành: Bộ Tài chính
- Người ký: Lê Thị Băng Tâm
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: 27/03/1999
- Tình trạng hiệu lực: Đã biết