Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
BỘ TÀI CHÍNH | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 4502/TCT-KK | Hà Nội, ngày 04 tháng 10 năm 2017 |
Kính gửi: | - Cục Thuế thành phố Hà Nội; |
Tổng cục Thuế nhận được các công văn của Cục Thuế thành phố Hà Nội: công văn số 4561/CT-PC ngày 09/02/2017 về việc báo cáo vướng mắc về hoàn thuế liên quan đến hồ sơ đề nghị hoàn thuế của Chi nhánh Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hòa Bình tại Hà Đông, công văn số 39064/CT-PC ngày 09/6/2017 về việc xử lý hồ sơ đề nghị hoàn thuế và công văn số 52214/CT-PC ngày 04/8/2017 về việc xử lý hồ sơ đề nghị hoàn thuế. Về vấn đề này, sau khi báo cáo Bộ và có ý kiến của Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Tổng cục Thuế có ý kiến như sau:
Căn cứ hướng dẫn tại Khoản 3 Điều 14 Thông tư số 99/2016/TT-BTC ngày 29/6/2016 của Bộ Tài chính hướng dẫn về quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng:
“Trường hợp Chi nhánh hạch toán phụ thuộc có số thuế còn được hoàn thì phải thực hiện bù trừ với số tiền thuế nợ quá hạn trên 90 ngày của doanh nghiệp trụ sở chính “
Căn cứ hướng dẫn tại Điểm 6 Mục II Phần A Thông tư số 41/2004/TT-BTC ngày 18/5/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế:
“Không xử phạt vi.phạm hành chính trong lĩnh vực thuế đối với các trường hợp sau:
a) Hết thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điểm 1, Điểm 2 Mục III Phần A Thông tư này;
b) Vi phạm hành chính có dấu hiệu của tội phạm, bao gồm:
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế có dấu hiệu tội phạm đã chuyển hồ sơ đến cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền giải quyết;
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế có dấu hiệu tội phạm mà cơ quan tiến hành tố tụng đang xem xét giải quyết,
- Vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế có dấu hiệu tội phạm, cơ quan tiến hành tố tụng có văn bản đề nghị chuyển hồ sơ để xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự“;
Điều 240 Bộ luật Hình sự 2003 quy định: “Bản án, quyết định và những phần của bản án, quyết định sơ thẩm của Tòa án không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị “.
Căn cứ ý kiến của Bộ Tư Pháp tại công văn số 2304/BTP-PLDSKT về việc xác định khoản bồi thường theo bản án của Tòa án: “Tòa án đã tuyên rõ trách nhiệm của cá nhân và trách nhiệm của Công ty XNK Hòa Bình. Do đó, đề nghị các cá nhân, tổ chức có liên quan thực hiện theo đúng nội dung của bản án hình sự phúc thẩm số 925/2005/HSPT ngày 7/9/2005 “.
Căn cứ ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao tại công văn số 60/TANDTC-V1 ngày 19/9/2017 về việc trả lời kiến nghị: “Bản án hình sự phúc thẩm số 925/2005/HSPT ngày 07-9-2005 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội có hiệu lực pháp luật đối với các cá nhân, tổ chức nên buộc phải thi hành. Trong trường hợp các cá nhân, tổ chức có liên quan không tự nguyện thi hành án thì phải yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự thực hiện theo đúng thẩm quyền“.
Căn cứ các hướng dẫn nêu trên, ý kiến của Bộ Tư pháp, ý kiến của Tòa án nhân dân tối cao và báo cáo của Cục Thuế tỉnh Hòa Bình tại công văn số 557/CT-KK&KTT ngày 22/02/2017 và công văn số 1718/CT-KK&KTT ngày 17/5/2017 (kèm theo bản án số 30/HSST ngày 26/4/2005 của tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình và bản án số 925/2005/HSPT ngày 07/9/2005 của Tòa phúc thẩm tại Hà Nội - Tòa án nhân dân tối cao) thì:
1. Số tiền của các cá nhân còn lại phải bồi thường là: 4.156.999. 152 đồng, trong đó:
- Ông Nguyễn Trường Thiên: 1.979.416.667 đồng.
- Bà Nguyễn Thị Nhàn: 2.177.582.485 đồng (gồm 2.121.640.579 + 55.941.906)“.
Theo đó, việc thu hồi NSNN đối với phần thuộc trách nhiệm hoàn trả (bồi thường) của các cá nhân nêu trên thuộc trách nhiệm của Cục thi hành án dân sự; đề nghị Cục Thuế tỉnh Hòa Bình làm việc với Cục thi hành án dân sự tỉnh Hòa Bình để thực hiện các thủ tục đề nghị thi hành án theo quy định.
2. Đối với số tiền chênh lệch so với số tiền thuế thu hồi hoàn thuế theo dõi trên ứng dụng quản lý thuế của Cục Thuế tỉnh Hòa Bình là 55.131.507 đồng theo báo cáo của Cục Thuế tỉnh Hòa Bình tại công văn số 1718/CT-KK&KTT ngày 17/5/2017 thì Cục Thuế tỉnh Hòa Bình có trách nhiệm rà soát, điều chỉnh để hạch toán theo dõi đúng số nợ của các cá nhân do Tòa án tuyên án trên hệ thống ứng dụng TMS.
3. Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hòa Bình trước đây đã được Cục Thuế tỉnh Hòa Bình hoàn thuế (tổng số tiền đã hoàn là 9.124.618.157 đồng) nhưng xuất phát từ hành vi lập khống hồ sơ đầu ra, đầu vào và vụ án này Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình đã có bản án số 30/HSST ngày 26/4/2005 và Tòa phúc thẩm tại Hà Nội - Tòa án nhân dân tối cao đã có bản án số 925/2005/HSPT ngày 07/9/2005 quyết định Công ty xuất nhập khẩu Hòa Bình phải hoàn trả lại Cục Thuế tỉnh Hòa Bình 1.047.633.819 đồng và phần còn lại thuộc trách nhiệm bồi hoàn của các cá nhân có liên quan.
Đồng thời, theo báo cáo của Cục Thuế tỉnh Hòa Bình: Tháng 12/2006, Công ty cổ phần XNK Hòa Bình đã thực hiện cổ phần hóa theo Quyết định số 3513/QĐ-UBND ngày 27/12/2006 của Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình. Số nợ đọng thuế và các khoản phải nộp ngân sách khi cổ phần hóa là 581.240.070 đồng, trong đó không tính số nợ phải thu hồi hoàn thuế vào số nợ phải theo dõi của công ty toàn bộ số thuế nợ đọng đã được Bộ Tài chính xóa nợ tại Quyết định số 3274/QĐ-BTC ngày 05/10/2007. Tại các công văn số 557/CT-KK&KTT ngày 22/02/2017 và công văn số 1718/CT-KK&KTT ngày 17/5/2017 của Cục Thuế tỉnh Hòa Bình, Cục Thuế cũng đã xác định khoản nợ trên ứng dụng TMS là khoản thu hồi tiền hoàn thuế GTGT mà tòa án đã quy trách nhiệm cho các cá nhân phải bồi hoàn từ các bản án nêu trên và Cục Thuế đã lập mã số thuế cá nhân và chuyển nợ theo bản án.
Do đó, phần thuộc trách nhiệm bồi hoàn của các cá nhân có liên quan nhưng chưa nộp hoặc chưa nộp đủ (số tiền 4.156.999. 152 đồng nêu trên) không phải khoản nợ của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Hòa Bình. Theo đó, trường hợp Chi nhánh Công ty cổ phần xuất nhập.khẩu Hòa Bình tại Hà Đông có hồ sơ đề nghị hoàn thuế thì Cục Thuế thành phố Hà Nội xem xét giải quyết cho Chi nhánh Công ty theo quy định và không phải bù trừ với số nợ mà tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình đã quy trách nhiệm bồi hoàn thuộc các cá nhân có liên quan.
Cục Thuế tỉnh Hòa Bình phải chịu trách nhiệm về tính chính xác của số liệu nợ này.
Tổng cục Thuế trả lời để Cục Thuế thành phố Hà Nội, Cục Thuế tỉnh Hòa Bình được biết./.
Nơi nhận: | KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG |
- 1Bộ luật Tố tụng Hình sự 2003
- 2Thông tư 41/2004/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 100/2004/NĐ-CP về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế do Bộ Tài chính ban hành
- 3Thông tư 99/2016/TT-BTC hướng dẫn về quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành
- 4Công văn 4584/TCT-CS năm 2017 về hoàn thuế giá trị gia tăng do Tổng cục Thuế ban hành
- 5Công văn 4748/TCT-CS năm 2017 về hoàn thuế giá trị gia tăng do Tổng cục Thuế ban hành
- 6Công văn 4857/TCT-CS năm 2017 về hoàn thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu do Tổng cục Thuế ban hành
Công văn 4502/TCT-KK năm 2017 về hoàn thuế giá trị gia tăng do Tổng cục Thuế ban hành
- Số hiệu: 4502/TCT-KK
- Loại văn bản: Công văn
- Ngày ban hành: 04/10/2017
- Nơi ban hành: Tổng cục Thuế
- Người ký: Nguyễn Đại Trí
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Dữ liệu đang cập nhật
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra