Để sử dụng toàn bộ tiện ích nâng cao của Hệ Thống Pháp Luật vui lòng lựa chọn và đăng ký gói cước.
Nếu bạn là thành viên. Vui lòng ĐĂNG NHẬP để tiếp tục.
PHỦ THỦ TƯỚNG | VIỆT |
Số: 013-TTg | Hà Nội, ngày 12 tháng 01 năm 1957 |
CHỈ THỊ
VỀ VIỆC TĂNG CƯỜNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐIỀU CHỈNH DIỆN TÍCH SẢN LƯỢNG VÀ TÍNH LẠI THUẾ NÔNG NGHIỆP
Việc sửa chữa diện tích sản lượng để tính thuế nông nghiệp làm chậm và không đều, ảnh hưởng đến việc thu thuế nông nghiệp vụ Đông.
Kiểm điểm kết quả ở những nơi đã điều chỉnh, Thủ tướng phủ nhận thấy sản lượng của nhiều xã bị kéo tụt xuống quá thấp, việc tính thuế cũng chưa được đúng, còn sai, sót nhiều; hiện tượng khá phổ biến là tính sai xuống; việc này sẽ làm thất thu cho công quỹ một số khá lơn.
Có những thiếu sót trên là do tình hình tổ chức và tư tưởng cán bộ chưa được ổn định, việc lãnh đạo điều chỉnh diện tích, sản lượng và tính thuế chưa được chú trọng đúng mức.
Tình trạng đó cần được chấn chỉnh gấp. Việc tiến hành điều chỉnh diện tích sản lượng cần theo đúng tinh thần chỉ thị số 1082-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 18 tháng 10 năm 1956, để làm cơ sở cho việc tính lại thuế nông nghiệp năm 1956 cho đúng và bảo đảm thu thuế vụ Đông tương đối kịp thời.
Muốn thế, các Ủy ban khu, tỉnh, thành phố cần chú ý những điểm sau đây:
1) Lãnh đạo chặt chẽ việc điều chỉnh diện tích sản lượng theo đúng phương châm: sai là kiên quyết sửa, sai nhiều sửa nhiều, sai ít sửa ít, không sai không sửa. Đối với những nơi chưa sửa, các Ủy ban hành chính tỉnh, huyện cần nhận định tình hình thực tế, kết hợp với việc nghiên cứu các tài liệu, số liệu hiện có (địa bạ cũ, số thuế trước cải cách ruộng đất) do đó định chủ trương nhằm hướng dẫn các xã điều chỉnh cho đúng, tuyệt đối tránh buông trôi lãnh đạo để các xã một chiều đưa ra nhân dân bình nghị được đến đâu hay đến đó.
Về việc định sản lượng, cần làm cho cán bộ xã nhận rõ nhiệm vụ của mình là bàn bạc với nhân dân, là lãnh đạo nhân dân điều tra và định sản cho đúng, tránh khuynh hướng sai lầm là cứ để nhân dân tự khai sản lượng, không căn cứ vào khoảnh, hạng.
Nơi đã sửa chữa nhưng kết quả không đúng với thực tế, quá thấp, phải kiên quyết làm lại cho đúng. Nếu vì lý do đặc biệt nào đó mà diện tích và sản lượng biết còn thấp nhiều, nhưng chưa làm lại được, hoặc xét nếu làm lại cũng chưa bảo đảm được tốt, thì cần tuyên bố với nhân dân là năm 1956 tạm thời tính thuế theo diện tích và sản lượng mới điều chỉnh, sang năm 1957 sẽ xét để sửa lại cho đúng những trường hợp chưa hợp lý. Đối với số thuế tính toán sai, sót, thì nhất thiết phải kiểm tra kỹ, sửa chữa lại để thu cho đúng.
2) Nhắc lại chính sách, điều lệ thuế nông nghiệp, phương pháp điều chỉnh diện tích sản lượng trong cán bộ và nông dân để động viên mọi người hăng hái tham gia việc sửa chữa.
Cần thực hiện dân chủ rộng rãi đối với nhân dân, nhưng đồng thời cần đề phòng và có thái độ thích đáng đối với những phần tử cố ý phá hoại việc điều chỉnh diện tích sản lượng.
3) Nắm vững sách lược nông thôn trong khi sửa chữa diện tích sản lượng, tránh những lệch lạc đã xảy ra ở một số xã, là không tin và không dựa hẳn vào bần cố nông.
4) Nắm vững tình hình mùa màng, kết hợp với việc sửa chữa diện tích, sản lượng để thi hành miễn giảm thuế đúng chính sách.
Việc sửa chữa diện tích sản lượng là một công tác rất quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến tình hình đóng góp, tinh thần sản xuất và tình đoàn kết ở nông thôn. Mặt khác việc thu thuế nông nghiệp không thể để kéo dài và làm quá muộn, do đó việc điều chỉnh diện tích sản lượng để tính thuế cần làm khẩn trương hơn trong đợt 2 sửa sai này.
Đồng thời với việc điều chỉnh diện tích sản lượng và thu thuế nông nghiệp, phải tập trung lực lượng, tranh thủ thời gian, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, bảo đảm làm chiêm, trồng hoa màu và cây công nghệ cho kịp thời vụ.
Mong các Ủy ban các cấp hết sức coi trọng vấn đề này để làm cho tốt.
| THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ |
Chỉ thị 013-TTg năm 1957 về tăng cường lãnh đạo công tác điều chỉnh diện tích sản lượng và tính lại thuế nông nghiệp do Thủ tướng Chính phủ ban hành
- Số hiệu: 013-TTg
- Loại văn bản: Chỉ thị
- Ngày ban hành: 12/01/1957
- Nơi ban hành: Phủ Thủ tướng
- Người ký: Phạm Văn Đồng
- Ngày công báo: Đang cập nhật
- Số công báo: Số 3
- Ngày hiệu lực: Kiểm tra
- Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra