Hệ thống pháp luật

UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
-------------

Số: 242/BC-UBTVQH12

Hà Nội, ngày 16 tháng 06 năm 2009

 

BÁO CÁO

GIẢI TRÌNH, TIẾP THU, CHỈNH LÝ DỰ THẢO LUẬT QUY HOẠCH ĐÔ THỊ

Kính thưa: Các vị đại biểu Quốc hội,

Trong phiên họp chiều ngày 30 tháng 5 năm 2009, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về dự án Luật quy hoạch đô thị. Có 14 đại biểu phát biểu ý kiến, 01 đại biểu gửi ý kiến bằng văn bản.

Đa số các ý kiến tán thành với nội dung cơ bản của dự thảo Luật và Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Bên cạnh đó, các đại biểu cũng cho ý kiến về các nội dung cụ thể tại các chương, điều của dự thảo Luật.

Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Cơ quan chủ trì thẩm tra, Cơ quan soạn thảo và các cơ quan, tổ chức hữu quan nghiên cứu, tiếp thu để chỉnh lý dự thảo Luật. Ủy ban thường vụ Quốc hội xin báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật này như sau:

1. Về phạm vi điều chỉnh (Điều 1)

Có ý kiến đề nghị bổ sung hoạt động giám sát phát triển đô thị theo quy hoạch vào phạm vi điều chỉnh của Luật.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc quản lý đã bao gồm nội dung tổ chức thực hiện, kiểm tra, thanh tra, giám sát. Ngoài ra, giám sát việc thực hiện các hoạt động quy hoạch đô thị nói riêng và các hoạt động quản lý nhà nước nói chung đã được quy định trong các luật về giám sát như Luật hoạt động giám sát, Luật mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Do đó, xin không bổ sung hoạt động giám sát vào phạm vi điều chỉnh của Luật.

2. Về giải thích từ ngữ (Điều 3)

Có ý kiến đề nghị bổ sung giải thích các từ ngữ “đô thị cổ”, “đô thị di sản” và đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm của Bộ xây dựng, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với việc bảo tồn thành phố là đô thị cổ, đô thị di sản trong quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, các quy định của Luật không sử dụng các từ ngữ trên nên không nêu trong Điều về giải thích từ ngữ. Mặt khác, trong quá trình lập quy hoạch đô thị, việc bảo tồn đô thị cổ, đô thị di sản được thực hiện theo quy định của Luật di sản văn hóa, đồng thời quy hoạch đô thị phải phù hợp với quy hoạch ngành đã được phê duyệt theo quy định tại khoản 2 Điều 24 (mới) về căn cứ lập đồ án quy hoạch đô thị của dự thảo Luật. Đồng thời, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch còn có trách nhiệm đóng góp ý kiến và tham gia Hội đồng thẩm định theo quy định tại các Điều 20 (mới) và Điều 42 (mới) của dự thảo Luật.

3. Về phân loại đô thị (Điều 4)

- Có ý kiến đề nghị bổ sung thêm các tiêu chí về lịch sử, chính trị, văn hóa, những giá trị văn hóa phi vật thể, những giá trị về thiên nhiên, môi trường.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, các yếu tố về lịch sử, chính trị, văn hóa, thiên nhiên, môi trường là rất cần thiết nhưng sẽ được thể hiện trong tiêu chí về vị trí, chức năng, vai trò của đô thị quy định tại điểm a khoản 1 Điều 4. Chính phủ sẽ cụ thể về các yếu tố trên trong Nghị định hướng dẫn thi hành Luật.

- Có ý kiến đề nghị quy định thành phố trực thuộc Trung ương là đô thị loại đặc biệt và đô thị loại I, thành phố trực thuộc tỉnh là đô thị loại II và loại III, không phải là loại I.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, loại đô thị là thể hiện chất lượng đô thị, còn việc xác định cấp quản lý đô thị căn cứ vào ý nghĩa, tầm quan trọng của đô thị và yêu cầu quản lý về hành chính đối với đô thị đó, phù hợp với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Trên thực tế, có đô thị không thuộc Trung ương nhưng được công nhận là đô thị loại I vì đạt các tiêu chí theo quy định. Do đó, xin giữ quy định như dự thảo Luật.

4. Về yêu cầu đối với quy hoạch đô thị (Điều 6)

- Có ý kiến đề nghị khi quy hoạch đô thị cần có quy định hạn chế việc mở rộng đô thị trên đất nông nghiệp.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, tại khoản 4 Điều này đã có quy định về yêu cầu khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đất đai đô thị nhằm tạo ra nguồn lực phát triển đô thị, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững. Với yêu cầu chặt chẽ như vậy, đã bao gồm việc hạn chế sử dụng đất nông nghiệp trong quá trình mở rộng đô thị.

- Có ý kiến đề nghị bổ sung yêu cầu quy hoạch đô thị phải bảo đảm bản sắc văn hóa của địa phương; các đô thị đặc biệt và đô thị loại I phải tập trung phát triển nhà chung cư.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, yêu cầu về bảo đảm bản sắc văn hóa của địa phương là rất quan trọng đối với một đồ án quy hoạch đô thị nên đã được quy định đầy đủ tại khoản 3 Điều này. Việc phát triển các loại hình nhà ở (trong đó có cả nhà chung cư) phụ thuộc vào yêu cầu cụ thể của từng đô thị và được nghiên cứu, đề xuất trong quá trình lập đồ án quy hoạch. Vì vậy, đề nghị không nên quy định cứng yêu cầu này trong Luật.

- Có ý kiến đề nghị quy định các công trình đường điện, truyền hình, thông tin, truyền thông phải ngầm hóa khi quy hoạch đô thị hoặc cải tạo, chỉnh trang đô thị theo phương hướng hiện đại để bảo đảm mỹ quan đô thị, tiết kiệm đầu tư, bảo đảm an sinh, an toàn cho cộng đồng dân cư sống ở đô thị.

Về vấn đề trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội tán thành với ý kiến trên và báo cáo Quốc hội, vấn đề này đã được quy định tại Điều 64 (mới) quy định về quản lý xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị đối với các đô thị cũ, đô thị cải tạo và Điều 65 (mới) quy định về quản lý xây dựng hệ thống hạ tầng kỹ thuật đô thị trong đô thị mới, khu đô thị mới.

5. Về kinh phí cho công tác lập và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị (Điều 12)

Có ý kiến đề nghị đầu tư ngân sách xây dựng cho các đô thị cần có trọng tâm, trọng điểm và đồng bộ, quan tâm đến những vùng khó khăn như miền núi, hải đảo và các vùng đặc biệt khó khăn thì nên đầu tư kinh phí nhiều hơn để xây dựng các khu đô thị nhỏ và để địa phương chủ động cân đối nguồn thu ngân sách từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho công tác tổ chức lập quy hoạch đô thị.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, dự án Luật quy hoạch đô thị chỉ quy định những vấn đề đặc thù nhất về kinh phí cho hoạt động quy hoạch đô thị gồm kinh phí từ ngân sách nhà nước, kinh phí của các tổ chức, cá nhân khác…còn việc quản lý, sử dụng nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước nói chung để xây dựng, phát triển đô thị cũng như việc tạo nguồn kinh phí để đầu tư thì thực hiện theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và pháp luật khác có liên quan.

6. Về Hội đồng Kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng (Điều 16 cũ)

Nhiều ý kiến đồng ý với quy định như dự thảo Luật đã trình Quốc hội để Chính phủ có căn cứ pháp lý ban hành quy định cụ thể về việc thành lập Hội đồng kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng khi xét thấy cần thiết, phù hợp với yêu cầu quản lý của từng thời kỳ. Ngược lại cũng có nhiều ý kiến không tán thành quy định của dự thảo Luật vì cho rằng, Hội đồng kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng chỉ có chức năng tư vấn, không thuộc hệ thống cơ quan quản lý hành chính nhà nước, không bắt buộc phải thành lập, do đó không nên quy định vào Luật. Ngoài ra, việc thí điểm mô hình Kiến trúc sư trưởng tại Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian trước đây cho thấy hiệu quả chưa rõ.

Sau khi cân nhắc các loại ý kiến trên, Ủy ban thường vụ Quốc hội đề nghị không quy định Hội đồng kiến trúc quy hoạch và Kiến trúc sư trưởng vào dự thảo Luật.

7. Về những hành vi bị cấm (Điều 16 mới)

Có ý kiến đề nghị bổ sung hành vi bị cấm là quy hoạch cấp phép xây dựng các công trình trái với quy hoạch đã được phê duyệt.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, vấn đề cấp phép xây dựng đã được quy định tại Luật xây dựng và các văn bản pháp luật khác có liên quan. Do đó, xin không bổ sung nội dung này vào dự thảo Luật.

8. Về định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia (Điều 17 mới)

Có ý kiến đề nghị bổ sung một điều quy định về định hướng phát triển phát triển đô thị Việt Nam với nội dung: hạn chế phát triển loại siêu đô thị, phát triển đô thị xanh, ưu tiên bố trí không gian công cộng và sinh hoạt cộng đồng, ưu tiên không gian đô thị để phát triển các loại dịch vụ công cộng.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, tại Điều 17 (mới) của dự thảo Luật đã quy định về việc lập Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia. Các nội dung hạn chế phát triển loại siêu đô thị, phát triển đô thị xanh là nội dung cụ thể đã được thể hiện trong Định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị quốc gia. Hơn nữa, những nội dung trên cũng đã được quy định tại Điều 6 của dự thảo Luật. Do đó, xin không bổ sung nội dung này vào dự thảo Luật.

9. Về các loại quy hoạch đô thị (Điều 18 mới)

Có ý kiến đề nghị không quy định quy hoạch phân khu mà chỉ nên có hai loại quy hoạch đô thị là quy hoạch chung và quy hoạch chi tiết. Ý kiến khác đề nghị chỉ nên quy định lập đồ án quy hoạch phân khu đối với đô thị trực thuộc Trung ương, không nên áp dụng cho tất cả các loại đô thị từ loại II trở xuống.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, trong quy hoạch chung đô thị có phân các khu chức năng, có khu chức năng nằm trên địa bàn nhiều quận, phường... Quy hoạch chung mang tính định hướng xác định các mô hình, cấu trúc phát triển không gian đô thị nên chưa đủ cơ sở để lập quy hoạch chi tiết. Vì vậy cần có quy hoạch phân khu nhằm cụ thể hóa một bước quy hoạch chung làm cơ sở cho việc lập quy hoạch chi tiết. Riêng đối với thị trấn thì không phải lập quy hoạch phân khu.

10. Về trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị (Điều 19 mới)

Về trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị loại đặc biệt, qua tổng hợp phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội, kết quả: có 136/390 đại biểu đồng ý phương án 1 giao Bộ Xây dựng tổ chức lập quy hoạch chung đô thị loại đặc biệt; có 220/390 đại biểu đồng ý với phương án 2 giao Ủy ban nhân dân đô thị loại đặc biệt tổ chức lập quy hoạch chung đô thị này, Bộ Xây dựng thẩm định, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.

Do vậy, Ủy ban thường vụ Quốc hội xin tiếp thu ý kiến của đa số này và trình Quốc hội phương án đã được đa số các đại biểu Quốc hội đồng ý và thể hiện như trong dự thảo Luật.

11. Về lấy ý kiến về quy hoạch đô thị (Điều 20 và Điều 21 mới)

- Có ý kiến đề nghị nên lấy ý kiến rộng rãi với người dân trong khu vực có quy hoạch chi tiết và thực hiện theo Pháp lệnh dân chủ cơ sở.

Tiếp thu ý kiến đại biểu, xin bổ sung quy định tại khoản 2 Điều 21 (mới) như sau: Đại diện cộng đồng dân cư có trách nhiệm tổng hợp ý kiến của cộng đồng dân cư theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở”.

- Có ý kiến đề nghị quy định thống nhất về hình thức và thời gian lấy ý kiến đối với các loại quy hoạch đô thị; có ý kiến đề nghị thời gian lấy ý kiến ít nhất phải là 30 ngày đối với cơ quan, 60 ngày đối với tổ chức, cá nhân, cộng đồng, hộ gia đình.

Ủy ban thường vụ Quốc hội nhận thấy, phạm vi và mức độ ảnh hưởng của mỗi loại quy hoạch tới cộng đồng là khác nhau, do đó, hình thức lấy ý kiến của mỗi loại quy hoạch cũng khác nhau.

Về thời gian lấy ý kiến, dự thảo Luật quy định thời gian tối thiểu 15 ngày đối với cơ quan, 30 ngày đối với tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư là phù hợp với thực tế và chủ trương cải cách hành chính hiện nay, còn tùy theo loại đồ án quy hoạch và tính phức tạp của đồ án quy hoạch mà cơ quan có trách nhiệm quyết định thời gian cụ thể của việc lấy ý kiến.

12. Về thời hạn quy hoạch đô thị (Điều 25 đến Điều 30 mới)

Có ý kiến đề nghị quy định thời hạn đối với quy hoạch chung thành phố trực thuộc Trung ương phải là 50 năm và tầm nhìn 100 năm, quy hoạch chung thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã là 50 năm, quy hoạch chung đối với thị trấn phải từ 20 - 30 năm và tầm nhìn 50 năm.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, trên cơ sở thực tế và xu thế phát triển rất nhanh của đô thị Việt Nam, việc quy định thời hạn quy hoạch đô thị từ 20 đến 25 năm, tầm nhìn đến 50 năm là đủ dài, phù hợp với sự thay đổi, vận động của các quan hệ kinh tế, xã hội, bảo đảm tính định hướng chiến lược, có tầm nhìn dài hạn và không bị lệ thuộc vào nhiệm kỳ của chính quyền các cấp nên sẽ tránh được tư duy nhiệm kỳ trong công tác quy hoạch.

13. Cơ quan thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị (Điều 41 mới)

Có ý kiến đề nghị xem xét lại việc giao cho cơ quan quản lý chuyên môn cấp huyện (phòng Công thương hoặc phòng Quản lý đô thị) thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị vì chưa phù hợp với trình độ và năng lực (chưa đủ cán bộ chuyên môn như kiến trúc sư và kỹ sư về hạ tầng kỹ thuật đô thị) .

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, việc giao cho cơ quan quản lý chuyên môn cấp huyện thẩm định nhiệm vụ và đồ án quy hoạch đô thị là phù hợp với xu hướng phân cấp hiện nay. Tuy nhiên, để khắc phục những hạn chế trên và bảo đảm chất lượng đối với các đồ án quy hoạch đô thị thuộc thẩm quyền phê duyệt của Ủy ban nhân dân cấp huyện, tại khoản 3 và 4 Điều 44 (mới) của dự thảo Luật đã quy định việc phê duyệt chỉ được thực hiện “sau khi có ý kiến thống nhất bằng văn bản của cơ quan quản lý quy hoạch đô thị cấp tỉnh”.

14. Về công bố công khai quy hoạch đô thị (Điều 53 mới)

Có ý kiến đề nghị bỏ quy định giao Bộ Xây dựng quy định cụ thể về nội dung hình, thức công bố công khai của từng loại đồ án quy hoạch đô thị.

Xin tiếp thu ý kiến đại biểu, dự thảo Luật đã bỏ quy định tại khoản 4 Điều này.

15. Về cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị (Điều 55 mới)

Có ý kiến đề nghị quy định thêm việc cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị được thực hiện bằng các hình thức là cung cấp văn bản, tài liệu có liên quan; giải thích trực tiếp và trực tuyến qua phương tiện thông tin đại chúng.

Xin tiếp thu ý kiến này, xin bổ sung, chỉnh lý khoản 2 Điều 55 như sau:

“2. Việc cung cấp thông tin về quy hoạch đô thị được thực hiện dưới các hình thức giải thích trực tiếp, qua phương tiện thông tin đại chúng và cấp chứng chỉ quy hoạch”.

16. Về chuẩn bị quỹ đất để phát triển đô thị theo quy hoạch (Điều 62 mới)

Có ý kiến đề nghị giao Chính phủ quy định diện tích tối thiểu được phép xây dựng theo hướng thống nhất đối với từng loại đô thị, theo đó những diện tích đất còn lại nhỏ hơn quy định này sẽ bị thu hồi.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với ý kiến đại biểu, xin chỉnh lý khoản 6 Điều này như sau:

6. Trong trường hợp dự án đầu tư chỉ sử dụng một phần của thửa đất, nếu diện tích còn lại quá nhỏ không đáp ứng yêu cầu về sử dụng hoặc ảnh hưởng đến kiến trúc, cảnh quan đô thị theo quy định của Chính phủ thì Nhà nước thu hồi và bồi thường cho người sử dụng đất”.

17. Về quản lý không gian ngầm (Điều 66 mới)

Có ý kiến đề nghị có quy định cụ thể về độ sâu phần ngầm của các công trình trên mặt đất được khai thác sử dụng để không ảnh hưởng đến việc xây dựng các công trình ngầm công cộng theo quy hoạch.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, dự thảo Luật chỉ quy định về nguyên tắc quản lý không gian ngầm và xây dựng công trình ngầm, còn các quy định cụ thể về khai thác và sử dụng không gian ngầm (trong đó có độ sâu phần ngầm của các công trình trên mặt đất) sẽ được quy định trong quy chuẩn về xây dựng công trình ngầm phù hợp với từng loại công trình và từng đô thị.

18. Về quy hoạch sử dụng đất trong đô thị

Có ý kiến đề nghị cần quy định về quy hoạch sử dụng đất trong đô thị vì những đô thị lớn như Hà Nội có ngoại thành rất rộng, chủ yếu sản xuất nông nghiệp vẫn cần có quy hoạch sử dụng đất.

Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, về bản chất quy hoạch sử dụng đất trong đô thị và quy hoạch đô thị đều có nội dung liên quan đến việc xác định mục đích, chức năng sử dụng đất cho các khu vực trong đô thị bao gồm cả việc xác định khu vực sản xuất nông nghiệp. Do đó, nội hàm của quy hoạch đô thị đã bao gồm cả quy hoạch sử dụng đất trong đô thị. Vì vậy, trong đô thị chỉ lập quy hoạch đô thị, không lập quy hoạch sử dụng đất riêng theo quy định của Luật đất đai.

Ngoài các vấn đề trên đây, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về các nội dung cụ thể, về từ ngữ, kỹ thuật văn bản và thể hiện như trong dự thảo Luật.

*

* *

Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,

Trên đây là Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật quy hoạch đô thị, Ủy ban thường vụ Quốc hội kính trình Quốc hội xem xét, thông qua./.

 

 

TM. UỶ BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
KT. CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Nguyễn Đức Kiên

 

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Báo cáo số 242/BC-UBTVQH12 về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật quy hoạch đô thị do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành

  • Số hiệu: 242/BC-UBTVQH12
  • Loại văn bản: Văn bản khác
  • Ngày ban hành: 16/06/2009
  • Nơi ban hành: Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
  • Người ký: Nguyễn Đức Kiên
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: Kiểm tra
  • Tình trạng hiệu lực: Kiểm tra
Tải văn bản