Hệ thống pháp luật

VĂN PHÒNG CHÍNH PHỦ
-------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------------

Số: 888/BC-VPCP

Hà Nội, ngày 16 tháng 02 năm 2011

 

BÁO CÁO

TỔNG KẾT HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CÔNG TÁC CHUYÊN TRÁCH CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ VÀ HỘI ĐỒNG TƯ VẤN CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

Trước đòi hỏi của thực tế và để thúc đẩy thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế - xã hội năm năm (2006 - 2010), nhất là trong bối cảnh Việt Nam trở thành thành viên Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và để tiếp tục thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Đề án 30[1]. Đề án 30 được triển khai nhằm bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của thủ tục hành chính; tạo sự thuận lợi cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành chính; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, từng bước nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành chính và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí; tạo điều kiện cho nhân dân giám sát việc thực hiện thủ tục hành chính tại các cơ quan hành chính các cấp. Đề án 30 thể hiện quyết tâm chính trị của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ trong việc xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, cũng như thực hiện các cam kết khi tham gia WTO. Có thể nói việc triển khai Đề án 30 là để tạo bước đột phá trong tiến trình cải cách thủ tục hành chính.

Để khắc phục những tồn tại trong cải cách thủ tục hành chính (chỉ xem xét thủ tục dưới giác độ quy định hình thức – giải quyết phần ngọn), Đề án 30 tiếp cận thủ tục hành chính là toàn bộ các quy định liên quan đến việc giải quyết một công việc cụ thể cho cá nhân, tổ chức[2]. Với cách tiếp cận này, đề án 30 đã từng bước giải quyết tận gốc vấn đề cả về thủ tục lẫn chính sách[3].

Cải cách thủ tục hành chính theo đề án 30 là công việc khó khăn, phức tạp và đụng chạm, chính vì vậy Thủ tướng Chính phủ đã quyết định thành lập Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ để triển khai công tác này, và giao Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính để hỗ trợ Tổ công tác chuyên trách thực hiện nhiệm vụ được giao. Qua gần 3 năm triển khai thực hiện, Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng và Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Văn phòng Chính phủ xin được báo cáo về những kết quả đạt đã được, tồn tại nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và nhiệm vụ trọng tâm về cải cách thủ tục hành chính trong thời gian tới như sau:

1. Kết quả đạt được và nguyên nhân

Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng đã phối hợp chặt chẽ với Tổ công tác thực hiện đề án 30 của các bộ, ngành địa phương tiến hành tập huấn được trên 20.000 lượt cán bộ, công chức về cách thức thống kê, rà soát thủ tục hành chính. Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ mặc dù chỉ có 50 cán bộ nhưng đã tiến hành làm việc trực tiếp nhiều lượt với các bộ, ngành, địa phương để đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện. Kết quả thực hiện của các bộ, ngành, địa phương được Tổ công tác chuyên trách kiểm tra kỹ càng, có nhận xét cụ thể về chất lượng, tiến độ thực hiện để làm cơ sở cho công tác thi đua, khen thưởng của các cấp, các ngành.

Đổi mới cách làm và được sự đồng ý của Thủ tướng, Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính[4] đã được thành lập nhằm tư vấn và hỗ trợ cho Tổ công tác chuyên trách thực hiện một cách có hiệu quả các nhiệm vụ, mục tiêu cải cách thủ tục hành chính đã đề ra. Thông qua các nhóm công tác và Tổ thư ký của Hội đồng đã nghiên cứu, phát hiện các thủ tục hành chính còn chưa đầy đủ trong giai đoạn thống kê [5]. Cùng với việc huy động các hội viên đông đảo [6] đã tham gia thu thập bằng chứng thực tế về các thủ tục gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của nhân dân; xác định những lĩnh vực cần ưu tiên rà soát và phối hợp với Tổ công tác tổ chức nghiên cứu, đề xuất những giải pháp xử lý nhằm đơn giản hóa các thủ tục hành chính theo hướng dẫn của Tổ công tác[7]; cung cấp thông tin về thủ tục hành chính không phù hợp, cần sửa đổi, đơn giản hóa thông qua việc điền vào các biểu mẫu rà soát thủ tục hành chính theo hướng dẫn của Tổ công tác chuyên trách; tham gia huy động các nguồn lực hỗ trợ cũng như quảng bá cho hoạt động của Hội đồng và Tổ công tác chuyên trách.

Với cách thức tổ chức công việc khoa học, nhận thức đúng về cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin và huy động được sự tham gia tích cực của người dân, doanh nghiệp vào quá trình cải cách thủ tục hành chính, nhờ chủ trương và cách làm đúng đắn, Đề án 30 đã được triển khai đồng loạt tại các bộ, ngành, địa phương, đã huy động được sự vào cuộc của tất cả các cơ quan hành chính từ trung ương đến địa phương[8]. Với nỗ lực chung của toàn bộ hệ thống chính quyền, lần đầu tiên sau 64 năm thành lập Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đã tập hợp, xây dựng được bộ cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính [9] áp dụng tại bốn cấp chính quyền với hơn 5.400 thủ tục hành chính, trên 9.000 văn bản quy định; đồng thời chuẩn hóa thu gọn từ 10.000 bộ thủ tục cấp xã, 700 bộ thủ tục hành chính cấp huyện xuống còn 63 bộ thủ tục hành chính cấp xã và 63 bộ thủ tục hành chính cấp huyện tại 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để thống nhất thực hiện tại từng địa phương. Theo báo cáo môi trường kinh doanh năm 2011 của Ngân hàng thế giới công bố ngày 04 tháng 11 năm 2010, thông qua hoạt động cải cách đã đưa Việt Nam vào nhóm 10 nền kinh tế có nhiều sự cải thiện môi trường kinh doanh nhất và tăng 10 bậc trong bảng xếp hạng các nền kinh tế (đứng thứ 78 trong số 183 nền kinh tế). Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (OECD) đánh giá Đề án 30 của Việt Nam cho rằng “Chính phủ Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong việc cải thiện quản trị công, nâng cao chất lượng thể chế, kích thích năng lực cạnh tranh và tăng trưởng bình đẳng. OECD cho rằng rất ít quốc gia trên thế giới thực hiện được chương trình cải cách có quy mô như đề án 30. Xét từ góc độ phương pháp luận, chương trình cải cách của Việt Nam có thể được coi là một mô hình mẫu cho các quốc gia khác có mức thu nhập bình quân đầu người tương tự tham khảo”.

Tính đến thời điểm hiện tại, Chính phủ đã hoàn thành giai đoạn 2 của Đề án 30 thông qua việc ban hành 25 Nghị quyết đơn giản hóa gần 5000 thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của 24 bộ, ngành làm cơ sở để làm cơ sở thực thi phương án đơn giản hóa các thủ tục hành chính này [10]. Sau khi các phương án đơn giản hóa này được thực thi trên thực tế dự kiến sẽ cắt giảm 37,31% chi phí tuân thủ thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp, ước đạt gần 30.000 tỷ đồng mỗi năm. Theo đó, dự kiến các cơ quan trung ương phải sửa đổi trên 1000 văn bản; cấp địa phương phải sửa đổi khoảng 3000 văn bản (ước tính mỗi tỉnh sửa khoảng 50 văn bản). Như vậy, thông qua kết quả giai đoạn 2 đề án 30 đã giúp Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương phát hiện những bất cập của hệ thống các quy định pháp luật về thủ tục hành chính đang gây khó khăn, cản trở cho người dân, doanh nghiệp cần phải được tháo gỡ kịp thời, hiện thực hóa quyết tâm chính trị của Đảng, nhà nước về cải cách thủ tục hành chính.

Có được kết quả trên đây là do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố mang tính quyết định là sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; vai trò điều hành trực tiếp của các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Tiếp đến là sự tận tâm, tận lực và tinh thần trách nhiệm của các Tổ công tác thực hiện Đề án 30 ở các bộ, ngành, địa phương; sự hỗ trợ và tư vấn tích cực của Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính; sự chung tay, góp sức của các cơ quan thông tấn, báo chí; hỗ trợ có hiệu quả của nhà tài trợ; sự vào cuộc của từng cán bộ, công chức có liên quan cũng như vai trò tổ chức, điều hành công việc của Tổ công tác chuyên trách của Thủ tướng và Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính.

2. Tồn tại hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, việc triển khai thực hiện Đề án 30 vẫn còn bộc lộ một số tồn tại, nhược điểm như sau:

Thứ nhất, do chưa nhận thức đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của Đề án nên vẫn có tình trạng lãnh đạo một số bộ, ngành và địa phương, người đứng đầu cơ quan, tổ chức chưa dành sự quan tâm thỏa đáng, cần thiết để chỉ đạo triển khai. Cá biệt, trong giai đoạn đầu có nơi thực hiện không nghiêm ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng và hướng dẫn của Tổ công tác chuyên trách; thiếu sự chủ động, sáng tạo trong tổ chức công việc;

Thứ hai, chất lượng thống kê, rà soát chưa đồng đều, tiến độ còn chậm so thời gian quy định.

Thứ ba, do thời gian triển khai ngắn, khối lượng công việc nhiều, công việc lại mới mẻ, phức tạp nên phải vừa làm vừa điều chỉnh, rút kinh nghiệm; trong quá trình tổ chức thực hiện, một số khó khăn, vướng mắc phát sinh nhưng việc đề xuất giải pháp khắc phục có lúc còn chậm như về kinh phí, chế độ phụ cấp trách nhiệm, cũng như việc bố trí cán bộ chuyên trách làm việc tại Tổ công tác thực hiện đề án 30 của bộ, ngành, địa phương;

Thứ tư, nguồn lực cả về con người cũng như tài chính chậm được bố trí kịp thời. Chưa có cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích và thu hút cán bộ có chuyên môn cao tham gia Đề án; ở một số bộ, ngành, địa phương, vẫn còn tình trạng cán bộ không muốn về làm việc tại Tổ công tác thực hiện đề án 30, một số được điều động về thì vẫn còn tâm lý thụ động, ngại va chạm;

Thứ năm, công tác truyền thông phục vụ cho Đề án còn chậm; hiệu quả sự tham gia trực tiếp của người dân và doanh nghiệp vào quá trình triển khai thống kê, rà soát chưa cao.

Thông qua kết quả thực tiễn triển khai thực hiện đề án 30 thời gian qua, có thể khái quát nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế nêu trên là:

- Quá trình xây dựng thể chế, nhất là thủ tục hành chính ít chú trọng đến chất lượng thể chế (đánh giá về sự cần thiết và tính hợp lý của các quy định) mà chú trọng nhiều về tính hợp pháp và việc sử dụng các công cụ hành chính để quản lý. Việc rà soát, đánh giá các thủ tục hành chính thiếu các tiêu chí cụ thể, chưa chú trọng nhiều về tính kinh tế của quy định mà chỉ chú trọng đến tính hợp pháp của vấn đề nên đã tạo gánh nặng về chi phí tuân thủ cho người dân và doanh nghiệp.

- Việc xây dựng cơ chế pháp lý hữu hiệu để giúp người dân tích cực tham gia vào việc giám sát thực hiện thủ tục hành chính còn chậm; công tác tổ chức thực hiện tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về thủ tục hành chính theo quy định tại Nghị định số 20/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 02 năm 2008 chưa được chú trọng đúng mức.

- Một số bộ, ngành trung ương, địa phương chưa thật kiên quyết thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo đúng chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, chưa thấy được hết ý nghĩa, tầm quan trọng và đòi hỏi cấp bách của việc tháo gỡ những cản trở, vướng mắc cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp về thủ tục hành chính để phát huy mạnh mẽ tiềm năng sức mạnh vật chất, tinh thần của người dân cho mục tiêu phát triển. Chính vì vậy mà chưa tập trung chỉ đạo quyết liệt và dành ưu điểm các nguồn lực cho công tác này.

- Các thủ tục hành chính hiện nay còn được thực hiện cắt khúc, thiếu tính liên thông và phối hợp trong thực hiện thủ tục hành chính. Khi có nhu cầu cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp còn phải đến nhiều cơ quan, nhiều đầu mối để thực hiện thủ tục hành chính.

- Chế độ đãi ngộ đối với đội ngũ cán bộ công chức còn nhiều bất cập, chưa đóng vai trò là động lực để bảo đảm việc thực thi công vụ có hiệu quả.

3. Bài học kinh nghiệm

Với một nguồn lực hạn chế nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, công tác cải cách thủ tục hành chính theo đề án 30 đã đạt được các mục tiêu đề ra gắn với những kết quả cụ thể có thể lượng hóa được. Kết quả đạt được của cải cách thủ tục hành chính thời gian qua khẳng định tính đúng đắn của một cách làm mới trong việc triển khai hoạt động cải cách. Đó là:

- Sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của người đứng đầu các bộ, ngành, địa phương và của Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ.

- Cụ thể hóa quyết tâm chính trị của lãnh đạo các cấp thành kế hoạch chi tiết, xác định rõ lộ trình bước đi, gắn với phân công trách nhiệm rõ ràng trên nguyên tắc làm từ trên xuống; gắn thi đua, khen thưởng với kết quả thực hiện.

- Thành lập bộ máy chuyên trách để thực hiện cải cách TTHC. Theo đó, 88 Tổ công tác được thành lập, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ và Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Huy động sự tham gia rộng rãi của người dân và doanh nghiệp thông qua hoạt động của Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính và của người dân, doanh nghiệp, luật sư, chuyên gia quản lý và nhà khoa học. Đặc biệt, mọi diễn tiến của quá trình cải cách đều được công khai, minh bạch tới toàn xã hội nhằm xây dựng lòng tin của người dân và doanh nghiệp đối với những nỗ lực cải cách của Chính phủ.

- Gắn nội dung cải cách thủ tục hành chính với các lợi ích kinh tế đối với người dân, doanh nghiệp; giao chỉ tiêu cụ thể về việc đơn giản hóa thủ tục hành chính và cắt giảm chi phí tuân thủ thủ tục hành chính do các Bộ, ngành, địa phương với các mốc thời gian cụ thể.

- Tăng cường công tác kiểm tra đôn đốc, hướng dẫn và tập huấn việc triển khai thực hiện quá trình cải cách thủ tục hành chính trong phạm vi toàn quốc, gắn liền việc cải cách với công tác truyền thông để nâng cao nhận thức và tạo sự đồng thuận trong xã hội.

- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế để tận dụng có chọn lọc vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam.

4. Một số nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới

Những kết quả trên đây của Đề án 30 mới chỉ là bước đầu, thời gian tới kế thừa kết quả hoạt động của Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính, Văn phòng Chính phủ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ sẽ tiếp tục tập trung triển khai đôn đốc các bộ, ngành thực thi phương án đơn giản hóa các thủ tục hành chính thuộc phạm vi chức năng quản lý của từng bộ, ngành đã được Chính phủ thông qua tại 25 Nghị quyết, hiện thực hóa quyết tâm cải cách của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sớm đưa các phương án này vào thực tiễn cuộc sống, thực sự tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp. Tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị định số 63/2010/NĐ-CP về kiểm soát thủ tục hành chính, qua đó thực hiện kiểm soát thủ tục hành chính từ khâu dự thảo, đến khâu ban hành và thực hiện trên thực tế cuộc sống; đồng thời tập trung thực hiện Nghị định số 20/2008/NĐ-CP về tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của cá nhân, tổ chức về các quy định hành chính để kịp thời phát hiện, xử lý các quy định về thủ tục hành chính không còn phù hợp, gây cản trở cho hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống của nhân dân, cũng như việc chấn chỉnh những hành vi nhũng nhiễu, tiêu cực, chậm trễ trong giải quyết thủ tục hành chính.

Văn phòng Chính phủ cũng sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, địa phương để tiếp tục hoàn thiện và cập nhật cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính để phục vụ người dân và doanh nghiệp.

Từ thực tiễn triển khai hiệu quả mô hình hợp tác công – tư trong cải cách thủ tục hành chính theo mô hình Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính và sự tham gia của giới luật sư, chuyên gia và các hiệp hội trong việc hỗ trợ Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ triển khai Đề án 30 thời gian qua, Văn phòng Chính phủ sẽ báo cáo Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục huy động người dân và doanh nghiệp tham gia vào các hoạt động cải cách thủ tục hành chính dưới hình thức đại diện như Hội đồng Tư vấn cải cách thủ tục hành chính, cũng như thiết lập được một cơ chế phối hợp hiệu quả với các cơ quan hành chính nhà nước, mà trực tiếp là giữa Cục Kiểm soát thủ tục hành chính với hệ thống các đơn vị kiểm soát thủ tục hành chính tại các bộ, ngành, địa phương trong việc cải cách thủ tục hành chính, từng bước nâng cao chất lượng thể chế phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng khóa XI./.

 

 

Nơi nhận:
- TTg, các PTTgCP (để báo cáo);
- Các Bộ, cơ quan ngang Bộ;
- UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương;
- VPCP: BTCN, các PCN, các Vụ, Cục, Cổng TTĐT;
- Lưu: VT, KSTT (5).

BỘ TRƯỞNG, CHỦ NHIỆM




Nguyễn Xuân Phúc

 


[1] Đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 – 2010 (Quyết định số 30/QĐ-TTg ngày 10 tháng 1 năm 2007) và phê duyệt kế hoạch thực hiện đề án này tại Quyết định số 07/QĐ-TTg ngày 04 tháng 01 năm 2008.

[2] Bao gồm trình tự, cách thức, hồ sơ, yêu cầu, điều kiện, thời gian giải quyết, đối tượng thực hiện, cơ quan giải quyết, mẫu đơn, mẫu tờ khai hành chính, kết quả và thời hạn có hiệu lực của kết quả, phí, lệ phí.

[3] Thông qua việc xem xét thủ tục hành chính mua hóa đơn, Chính phủ đã bãi bỏ thủ tục này, và cho phép doanh nghiệp đủ điều kiện thì tự in hóa đơn hoặc như thủ tục khai thuế, Chính phủ đã quyết định đơn giản hóa thủ tục này thông qua việc giảm tần suất kê khai thuế từ 12 lần/năm xuống còn 4 lần/năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, vừa tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, vừa cắt giảm chi phí tuân thủ nhưng vẫn phải bảo đảm được mục tiêu quản lý của nhà nước.

[4] Theo Quyết định số 846/QĐ-VPCP ngày 23 tháng 6 năm 2008, Hội đồng là đại diện cho khối doanh nghiệp, các nhà khoa học, hiệp hội gồm 15 thành viên của Văn phòng Chính phủ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Đoàn đại biểu Quốc hội thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam, Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Hiệp hội Cà phê – Ca cao Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam, Hiệp hội Da – Giầy Việt Nam, Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp Hoa Kỳ tại Việt Nam, Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam, Phòng Xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc, Tổ chức Tài chính Quốc tế.

[5] Trong giai đoạn thống kê, các nhóm công tác và Tổ thư ký của Hội đồng đã nghiên cứu, kiến nghị hoàn thiện, loại bỏ hoặc bổ sung gần 1.500 tên TTHC trong số hơn 6.400 tên thủ tục hành chính nằm trong danh mục thống kê ban đầu.

[6] Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam với hơn 10.000 thành viên, đại diện cho khoảng 60.000 doanh nghiệp; Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam với khoảng 8.000 doanh nghiệp thành viên; Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam với khoảng 750 thành viên …

[7] Hội đồng đã tiến hành khảo sát thông qua việc gửi Phiếu lấy ý kiến đến các doanh nghiệp thành viên của các hiệp hội, tổ chức trong Hội đồng. Đợt khảo sát đã thu được gần 500 phiếu trả lời với khoảng 500 vấn đề về TTHC được doanh nghiệp đề cập đến. Báo cáo kết quả khảo sát và bản tổng hợp các phiếu trả lời đã được chuyển cho TCTCT làm căn cứ xem xét xây dựng danh mục 258 TTHC ưu tiên rà soát đợt 1.

[8] Bao gồm hơn 10.000 đơn vị cấp xã, khoảng 700 đơn vị cấp huyện, 1.300 sở, ngành cấp tỉnh, 400 vụ, cục, đơn vị trực thuộc bộ, cơ quan ngang bộ.

[9] Việc chuẩn hóa và công khai hóa Cơ sở dữ liệu quốc gia về thủ tục hành chính trên mạng Internet tại địa chỉ www.thutuchanhchinh.vn đã tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức tiếp cận các thông tin, quy định về thủ tục hành chính, được dư luận quốc tế đánh giá cao, được nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp trong và ngoài nước ghi nhận, coi đó là đóng góp quan trọng vào việc cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội và mở rộng hội nhập.

[10] Theo tính toán sơ bộ của Tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng, dự kiến sẽ đơn giản hóa 4.818 TTHC (bãi bỏ 480 TTHC, sửa đổi 4.146 TTHC, thay thế 192 TTHC) trên tổng số 5.421 thủ tục hành chính được rà soát, bảo đảm nguyên tắc cắt giảm tối đa chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp nhưng phải bảo đảm mục tiêu quản lý của nhà nước (đạt chỉ tiêu đơn giản hóa 88%).

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Báo cáo 888/BC-VPCP về tổng kết hoạt động của tổ công tác chuyên trách cải cách thủ tục hành chính của Thủ tướng Chính phủ và Hội đồng tư vấn cải cách thủ tục hành chính do Văn phòng Chính phủ ban hành

  • Số hiệu: 888/BC-VPCP
  • Loại văn bản: Văn bản khác
  • Ngày ban hành: 16/02/2011
  • Nơi ban hành: Văn phòng Chính phủ
  • Người ký: Nguyễn Xuân Phúc
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 16/02/2011
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản