Hệ thống pháp luật

ỦY BAN NHÂN DÂN
TỈNH QUẢNG BÌNH
--------

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------

Số: 100/BC-UBND

Quảng Bình, ngày 13 tháng 5 năm 2016

 

BÁO CÁO

SƠ KẾT 03 NĂM THỰC HIỆN NGHỊ ĐỊNH 81/2013/NĐ-CP NGÀY 19/7/2013 CỦA CHÍNH PHỦ QUY ĐỊNH CHI TIẾT MỘT SỐ ĐIỀU VÀ BIỆN PHÁP THI HÀNH LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH

Thực hiện Công văn số 1052/BTP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 05/4/2016 của Bộ Tư pháp về việc sơ kết 03 năm thực hiện Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ, UBND tỉnh Quảng Bình báo cáo kết quả như sau:

I. TÌNH HÌNH TỔ CHỨC TRIỂN KHAI NGHỊ ĐỊNH SỐ 81/2013/NĐ-CP

1. Đánh giá chung

a) Công tác chỉ đạo triển khai thực hiện

Để triển khai thi hành Nghị định 81/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ, hàng năm, UBND tỉnh Quảng Bình đã ban hành các kế hoạch triển khai thực hiện, cụ thể: Kế hoạch số 103/KH-UBND ngày 25/01/2014 về thực hiện theo dõi thi hành pháp luật và xử lý vi phạm hành chính năm 2014; Kế hoạch số 328/KH-UBND ngày 07/4/2015 về theo dõi tình hình thi hành pháp luật về chống buôn lậu, gian lận thương mại, hàng giả và quản lý xử lý vi phạm hành chính năm 2015; Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày 14/01/2016 về Công tác quản lý xử lý vi phạm hành chính năm 2016; Kế hoạch số 429/KH-UBND ngày 04/4/2016 về việc sơ kết 03 năm thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, các Công văn chỉ đạo triển khai thực hiện công tác xử lý vi phạm hành chính (XLVPHC) trên địa bàn tỉnh[1]. Sở Tư pháp với nhiệm vụ tham mưu UBND tỉnh trong công tác quản lý XLVPHC trên địa bàn tỉnh cũng đã ban hành các Công văn số 447/STP-QLXLVPHC&TDTHPL ngày 10/3/2016 về việc triển khai thực hiện Kế hoạch số 76/KH-UBND của UBND tỉnh.

b) Công tác xây dựng văn bản QPPL

Thời gian qua, UBND tỉnh không ban hành văn bản quy phạm pháp luật nào quy định về công tác XLVPHC, Nhưng trong quá trình thực hiện, trên cơ sở khó khăn, vướng mắc của các cơ quan có thẩm quyền XLVPHC, UBND tỉnh đã có Công văn số 39/UBND-NC ngày 08/01/2016 về việc phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong công tác XLVPHC tại địa phương gửi Bộ Tư pháp để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung như một số nội dung liên quan đến Nghị định số 81/2013/NĐ-CP. Định kỳ 6 tháng, năm xây dựng báo cáo trong đó có phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện XLVPHC gửi Bộ Tư pháp kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung một số nội dung cho phù hợp.

c) Công tác tuyên truyền, phổ biến Nghị định 81/2013/NĐ-CP

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã được các cơ quan, đơn vị, địa phương tích cực triển khai đến tất cả các đối tượng, trong đó chú trọng những đối tượng có nguy cơ vi phạm và người có thẩm quyền xử lý. Hình thức tổ chức các hội nghị phổ biến hoặc lồng ghép phổ biến quán triệt Nghị định 81/2013/NĐ-CP trong các cuộc họp, tập huấn, buổi nói chuyện; tuyên truyền trên chuyên trang, chuyên mục báo, tạp chí, Đài PTTH; mua và cấp phát sách pháp luật; in ấn, phát hành tài liệu, tờ gấp, đĩa hình, băng đĩa tiếng; tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh ở cơ sở, đài truyền thanh cấp huyện, cấp xã; tổ chức thi tìm hiểu pháp luật; mở chuyên mục theo dõi thi hành pháp luật, XLVPHC trên website của Sở, cập nhật thường xuyên kết quả công tác XLVPHC trên địa bàn tỉnh, đặc biệt trong lĩnh vực thẩm quyền của ngành Công an; xây dựng bộ câu hỏi – đáp về XLVPHC đăng trên website.

2. Kết quả thực hiện Nghị định số 81/2013/NĐ-CP

a) Kết quả thực hiện các quy định xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng biện pháp xử lý hành chính

- Về xử phạt vi phạm hành chính

Từ ngày 19/7/2013 đến ngày 31/3/2016, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện trên 101.401 vụ vi phạm với 101.670 đối tượng vi phạm. Các cơ quan chức năng đã ban hành 101.386 quyết định xử phạt vi phạm hành chính với tổng số tiền phạt thu được là 157.713.005.000 đồng, số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 12.637.736.845 đồng. Cụ thể:

+ Các sở, ngành thuộc tỉnh, UBND cấp huyện, cấp xã đã phát hiện trên 13.274 vụ/12.887 đối tượng vi phạm, trong đó, có 40 vụ chuyển truy cứu trách nhiệm hình sự và 09 vụ áp dụng biện pháp thay thế đối với người chưa thành niên. Số đối tượng bị xử phạt 12.887 đối tượng (646 tổ chức và 12.239 cá nhân). Các cơ quan đã ban hành 13.068 quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có 02 Quyết định bị hoãn, giảm, miễn thi hành hình phạt tiền; 10 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị cưỡng chế thi hành; 08 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị khiếu nại. Tổng số tiền phạt thu được từ xử phạt vi phạm hành chính là 28.550.622.000 đồng. Tổng số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 6.781.396.000 đồng.

+ Các cơ ngành dọc đã phát hiện trên 88.127 vụ/88.783 đối tượng vi phạm, trong đó có 27 vụ chuyển bằng hình thức truy cứu trách nhiệm hình sự và 22 vụ áp dụng biện pháp thay thế đối với người chưa thành niên. Số đối tượng bị xử phạt 88.783 đối tượng ( 2.528 tổ chức và 86.255 cá nhân). Các cơ quan ngành dọc đã ban hành 88.318 quyết định xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có 78 Quyết định bị hoãn, giảm, miễn thi hành hình phạt tiền; 06 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị cưỡng chế thi hành; 08 Quyết định xử phạt vi phạm hành chính bị khiếu nại. Tổng số tiền phạt thu được từ xử phạt vi phạm hành chính là 129.162.383.000 đồng. Tổng số tiền thu được từ bán, thanh lý tang vật, phương tiện bị tịch thu là 5.856.340.845 đồng.

- Về áp dụng biện pháp xử lý hành chính

Từ ngày 19/7/2013 đến ngày 31/3/2016, trên địa bàn tỉnh có trên 191 đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. Trong đó, có 147 đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 06 đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng; 09 đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc; 29 đối tượng bị lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Về số đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính có trên 191 đối tượng. Trong đó, các đối tượng là nam giới, số đối tượng bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn được là 147 đối tượng (chiếm 77%) và số đối tượng áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo quyết định của TAND cấp huyện 44 đối tượng (chiếm 23%). Trong tổng số đối tượng bị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét, quyết định số đối tượng đưa vào trường giáo dưỡng: 06 đối tượng (chiếm 13,6%); số đối tượng đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc: 09 đối tượng (chiếm 20,5%); số đối tượng đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc: 29 đối tượng (chiếm 65,9%).

Trong thời gian qua, chỉ có 11 đối tượng đủ điều kiện áp dụng biện pháp thay thế XLVPHC quản lý tại gia đình đối với người chưa thành niên.

Nhìn chung, thời gian qua công tác XLVPHC trên địa bàn tỉnh được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo theo quy định của pháp luật. Các cơ quan chức năng đã xác định đúng thẩm quyền, đúng đối tượng trong quá trình giải quyết các vụ vi phạm hành chính. Khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính, kịp thời lập biên bản và ra quyết định XLVPHC, sau khi ban hành đã đôn đốc theo dõi việc thực hiện quyết định XLVPHC. Hình thức, thủ tục thu, nộp tiền phạt được đảm bảo bằng hình thức nộp trực tiếp tại Kho bạc nhà nước hoặc Ngân hàng thương mại nơi ngân hàng nhà nước ủy nhiệm thu tiền phạt được ghi trong quyết định xử phạt; nộp trực tiếp hoặc chuyển khoản vào tài khoản Kho bạc nhà nước được ghi trong quyết định; nộp trực tiếp cho người có thẩm quyền xử phạt theo quy định tại Khoản 1, Điều 56 và Khoản 2, Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính…

b) Kết quả thực hiện các quy định quản lý nhà nước về thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính

- Về xây dựng và hoàn thiện pháp luật về XLVPHC, hàng năm Sở Tư pháp tham mưu UBND tỉnh rà soát, theo dõi thi hành Nghị định 81/2013/NĐ-CP và các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác XLVPHC nhằm kịp thời phát hiện các quy định không khả thi, không phù hợp với thực tiễn hoặc chồng chéo, mâu thuẫn để kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung[2].

- Về tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ biến pháp luật về XLVPHC, UBND tỉnh giao cho Sở Tư pháp tổ chức 01 lớp tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ cho người trực tiếp làm công tác XLVPHC của các sở, ngành cấp tỉnh, UBND các huyện, thành phố, thị xã với 137 người tham dự và tổ chức 04 lớp tập huấn nghiệp vụ công tác tư pháp, trong đó có nội dung về XLVPHC cho đối tượng công chức tư pháp – hộ tịch cấp xã với 391 người tham gia; cử 18 người làm công tác XLVPHC tham gia lớp tập huấn chuyên sâu về XLVPHC tại Hà Nội. Bên cạnh đó, Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh, các sở, ngành cấp tỉnh và UBND các huyện, thành phố, thị xã đã tổ chức trên 48 hội nghị tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật về XLVPHC cho trên 4.609 người tham dự thuộc ngành, địa phương mình quản lý[3].

- Hướng dẫn nghiệp vụ về XLVPHC, Sở Tư pháp với chức năng tham mưu UBND tỉnh quản lý nhà nước về XLVPHC, trong thời gian qua đã hướng dẫn nghiệp vụ XLVPHC cho các sở, ngành và UBND cấp huyện khi có yêu cầu[4].

- Về kiểm tra việc thi hành pháp luật về XLVPHC, UBND tỉnh đã thành lập Đoàn Kiểm tra liên ngành của tỉnh kiểm tra công tác XLVPHC trên địa bàn tỉnh trong lĩnh vực thuế, hải quan tại Cục Thuế, Cục Hải quan tỉnh; lĩnh vực lâm sản tại Vườn Quốc gia Phong Nha – Kẻ Bàng, lĩnh vực sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng tại Sở Công thương; Trong năm 2016 sẽ kiểm tra công tác XLVPHC tại Sở Y tế, UBND thị xã Ba Đồn và UBND huyện Tuyên Hóa. Các sở, ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện hàng năm cũng tiến hành nhiều cuộc thanh tra, kiểm tra tình hình chấp hành pháp luật trong các lĩnh vực thuộc phạm vi, địa bàn quản lý. Qua đó, đã kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm pháp luật, các sai phạm trong quá trình quản lý để tiến hành xử lý hoặc đề xuất xử lý đối với những trường hợp vi phạm, góp phần thực hiện tốt hơn các quy định của pháp luật về XLVPHC.

- Về chế độ báo cáo công tác thi hành pháp luật về XLVPHC, định kỳ 6, hàng năm các sở, ngành cấp tỉnh, UBND cấp huyện, cấp xã đã chấp hành nghiêm túc việc báo cáo và gửi về cho Sở Tư pháp theo đúng quy định. Sở Tư pháp đã kịp thời tham mưu UBND tổng hợp gửi Bộ Tư pháp theo yêu cầu[5].

c) Kết quả thực hiện quy định về mẫu biên bản và mẫu quyết định sử dụng trong xử phạt vi phạm hành chính

Trong quá trình thực hiện xử phạt vi phạm hành chính trên địa bàn tỉnh, các cơ quan có chức năng đã sử dụng đúng biểu mẫu biên bản, mẫu quyết định ban hành kèm theo Nghị định số 81/2013/NĐ-CP để giải quyết.

II. NHỮNG KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC TRONG QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG CÁC CÁC QUY ĐỊNH CỦA NGHỊ ĐỊNH SỐ 81/2013/NĐ-CP

1. Những khó khăn, bất cập trong các quy định của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP

- Trong Nghị định số 81/2013/NĐ-CP không quy định mẫu quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả nên gây nhiều khó khăn trong việc sử dụng biểu mẫu quyết định cưỡng chế buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả tại địa phương.

- Một số quy định về biểu mẫu kèm theo Nghị định số 81/2013/NĐ-CP không phù hợp với thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản hành chính quy định tại Thông tư số 01/2011/TT-BNV của Bộ Nội vụ gây ra sự lúng túng cho địa phương trong quá trình triển khai thực hiện.

- Về vấn đề giao quyền: Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định vấn đề giao quyền xử phạt cho cấp phó tại Điều 54; khoản 2 Điều 87; khoản 2 Điều 123. Tuy nhiên, đối với các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm XLVPHC khác (tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính; khám người; khám phương tiện vận tải, đồ vật; khám nơi cất giấu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính…), Luật Xử lý vi phạm hành chính và Nghị định số 81/2013/NĐ-CP không quy định việc giao quyền cho cấp phó trong việc áp dụng các biện pháp này dẫn đến sự lúng túng trong thực thi nhiệm vụ, nhất là đối với những trường hợp cấp trưởng vắng mặt do ốm đau, nghỉ phép dài ngày hoặc đi học tập trung, dài hạn… không thể thực hiện thẩm quyền của mình nhưng không được giao quyền cho cấp phó. Do vậy, các cơ quan, lực lượng thực thi pháp luật về XLVPHC gặp nhiều khó khăn, ảnh hưởng lớn đến hiệu lực, hiệu quả của công tác XLVPHC

2. Những khó khăn, bất cập trong tổ chức thực hiện các nội dung của Nghị định số 81/2013/NĐ-CP

- Về xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC, Điều 23 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP về cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính và Khoản 8, Điều 30 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định: “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính trong phạm vi địa phương; chỉ đạo các sở, ban, ngành cung cấp thông tin để phục vụ công tác xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính. Sở Tư pháp giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh xây dựng cơ sở dữ liệu về xử lý vi phạm hành chính và tích hợp vào cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính tại Bộ Tư pháp”. Tuy nhiên, đến ngày 30/3/2016, Chính phủ mới có Nghị định số 20/2016/NĐ-CP quy định Cơ sở dữ liệu quốc gia về xử lý vi phạm hành chính (có hiệu lực từ ngày 15/5/2016) nên việc triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC từ khi Nghị định số 81/2013/NĐ-CP có hiệu lực thi hành cho đến nay không khả thi và gặp nhiều lúng túng. Các địa phương không có phần mềm chung cơ sở dữ liệu về XLVPHC nên việc tích hợp các thông tin về Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Quyết định thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính, thi hành Quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả (nếu có), về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính và thông tin về việc áp dụng biện pháp quản lý tại gia đình không thể triển khai được. Với số lượng lớn các Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đã ban hành trong những năm qua thì khi triển khai cập nhật vào cơ sở dữ liệu quốc gia về XLVPHC theo Nghị định số 20/2016/NĐ-CP sẽ quá tải và gặp nhiều khó khăn.

- Thời điểm lấy số liệu báo cáo 06 tháng, năm, tại Khoản 4, Điều 25 Nghị định số 81/2013/NĐ-CP quy định: “Thời điểm lấy số liệu đối với báo cáo định kỳ 06 tháng tính từ ngày 01 tháng 10 năm trước đến ngày 31 tháng 3 năm sau; đối với báo cáo hàng năm, từ ngày 01 tháng 10 năm trước đến ngày 30 tháng 9 năm sau”, tuy nhiên đối với báo báo thống kê của ngành Tư pháp được thực hiện theo quy định tại Thông tư 20/2013/TT-BTP hướng dẫn một số nội dung về hoạt động thống kê của Ngành Tư pháp thì thời điểm lấy số liệu 06 tháng từ 01 tháng 01 đến ngày 30 tháng 6 và báo cáo năm 01 tháng 01 đến 31 tháng 10 (đối với năm lần 1), từ 01 tháng 01 đến 31 tháng 12 (đối với năm lần 2) nên các địa phương rất khó khăn trong quá trình tổng hợp và yêu cầu các cơ quan, đơn vị báo cáo về công tác XLVPHC cũng như công tác Theo dõi thi hành pháp luật. Hơn nữa, việc XLVPHC nhất là với hình thức phạt tiền thường liên quan đến việc chốt số liệu theo năm ngân sách địa phương nên việc xây dựng báo cáo theo mốc như Nghị định gặp nhiều bất cập và không thống nhất với các báo cáo, thống kê khác thuộc lĩnh vực quản lý nhà nước của công tác tư pháp. Với nhiều mốc tổng hợp như thế nên gây quá tải cho các cơ quan, đơn vị, địa phương trong việc tổng hợp báo cáo các lĩnh vực của công tác tư pháp. Do đó, một số cơ quan, đơn vị thực hiện chế độ báo cáo, thống kê, báo cáo định kỳ theo quy định tại Nghị định số 81/2013/NĐ-CP còn chậm, chưa thực sự chủ động mà chỉ thực hiện khi có Công văn đề nghị của Sở Tư pháp.

- Về các điều kiện đảm bảo thi hành, lực lượng cán bộ làm công tác XLVPHC chuyên trách còn mỏng, một số địa bàn quản lý rộng và một số lĩnh vực phức tạp còn thiếu lực lượng thực thi nhiệm vụ; trang thiết bị, phương tiện, máy móc hiện đại để tiếp nhận, truyền đạt thông tin, chính sách, pháp luật một số nơi, một số lĩnh vực chưa đảm bảo, công cụ hỗ trợ còn hạn chế chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; kinh phí dành cho việc triển khai thực hiện công tác XLVPHC do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung này nên các địa phương còn lúng túng trong việc phân bổ và chi cho công tác XLVPHC trên địa bàn.

- Việc phối hợp giữa các ngành, cơ quan chức năng trong XLVPHC, chưa có cơ chế phối hợp giữa các ngành, cơ quan chức năng trong XLVPHC, do đó việc tổng hợp cũng như cung cấp số liệu thống kê về XLVPHC còn thiếu sự chủ động và hợp tác.

3. Nguyên nhân

- Do biên chế, cơ sở vật chất, kinh phí còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ đề ra.

- Một số quy định trong Nghị định chưa thống nhất với các văn bản khác và còn thiếu tính khả thi trên thực tế.

- Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật một số nơi chưa thực sự thường xuyên, sâu sát.

III. ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

- Đề nghị Chính phủ xem xét sửa đổi các nội dung chưa phù hợp trên đảm bảo khả thi, thuận tiện trong quá trình áp dụng.

- Đề nghị Bộ Tư pháp tiếp tục tăng cường công tác tổ chức tập huấn cho đội ngũ cán bộ làm công tác này của địa phương theo hướng cụ thể, chuyên sâu để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng tốt hơn nhiệm vụ công tác trong thời gian tới./.

 

 

Nơi nhận:
- Cục QLXLVPHC&TDTHPL - Bộ Tư pháp (để b/c);
- Ban Pháp chế HĐND tỉnh;
- Chủ tịch, các PCT UBND tỉnh;
- Lãnh đạo VP UBND tỉnh;
- Sở Tư pháp;
- Lưu: VT, NC.

TM. ỦY BAN NHÂN DÂN
KT.CHỦ TỊCH
PHÓ CHỦ TỊCH




Nguyễn Tiến Hoàng



[1] Công văn số 436/UBND-NC về việc nâng cao hiệu quả công tác theo dõi thi hành pháp luật và xử lý vi phạm hành chính; Công văn số 117/UBND-NC ngày 30/01/2015 chỉ đạo UBND cấp xã cử đại diện tham gia họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý vi phạm hành chính tại TAND.

[2] Công văn số 39/UBND-NC về việc phản ánh những khó khăn, vướng mắc trong công tác XLVPHC tại địa phương gửi Bộ Tư pháp

[3] Hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật tỉnh tổ chức 11 hội nghị và lớp tập huấn cho hơn 1642 người tham dự; Sở Giáo dục – Đào tạo tổ chức 03 Hội nghị bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho hơn 300 người tham dự; Sở Y tế tổ chức 01 Hội nghị  tập huấn nghiệp vụ cho thanh tra với hơn 100 người tham dự; Sở Kế hoạch và Đầu tư tổ chức 04 Hội nghị tập huấn những văn bản mới liên quan đến pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với 220 người tham dự; UBND huyện Minh Hóa tổ chức 06 Hội nghị lồng ghép giới thiệu các văn bản mới liên quan đến Luật Xử lý vi phạm hành chính với 576 người tham dự; UBND huyện Bố Trạch đã tổ chức 02 Hội nghị với 200 người tham dự; UBND thị xã Ba Đồn tổ chức 04 hội nghị lồng ghép các vấn đề liên quan đến công tác xử lý vi phạm hành chính với gần 1000 lượt người tham dự; UBND huyện Quảng Ninh tổ chức 17 lớp tập huấn  lồng ghép các vấn đề liên quan đến luật xử lý vi phạm hành chính với 571 lượt người tham dự…

[4] Công văn số 232/STP-KTVB ngày 27/2/2015 V/v phản hồi Công văn số 27/TP của Phòng Tư pháp huyện Quảng Nình về việc xin ý kiến hướng dẫn nghiệp vụ thi hành Quyết định xử phạt VPHC; Công văn số 997/STP-KTVB ngày 03/6/2015 V/v phản hồi Công văn số 730/SYT của Sở Y tế đề nghị hỗ trợ pháp lý trong xử lý vi phạm hành chính; Công văn số 1773/STP-KTVB ngày 06/10/2015 V/v triển khai thực hiện Thông tư số 10/2015/TT-BTP ngày 31/8/2015 của Bộ Tư pháp

[5] Báo cáo số 72/BC-UBND ngày 12/5/2014 về theo dõi thi hành pháp luật và xử lý vi phạm hành chính 6 tháng đầu năm 2014 trên địa bàn tỉnh; Báo cáo số 218/BC-UBND ngày 21/11/2014 về công tác xử lý vi phạm hành chính năm 2014 trên địa bàn tỉnh; Báo cáo số 83/UBND-NC ngày 26/5/2015 về theo dõi thi hành pháp luật và xử lý vi phạm hành chính 6 tháng đầu năm 2015 trên địa bàn tỉnh; Báo cáo số 257/BC-UBND ngày 25/11/2015 về công tác xử lý vi phạm hành chính năm 2015 trên địa bàn tỉnh…

HIỆU LỰC VĂN BẢN

Báo cáo 100/BC-UBND năm 2016 sơ kết 03 năm thực hiện Nghị định 81/2013/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính do tỉnh Quảng Bình ban hành

  • Số hiệu: 100/BC-UBND
  • Loại văn bản: Báo cáo
  • Ngày ban hành: 13/05/2016
  • Nơi ban hành: Tỉnh Quảng Bình
  • Người ký: Nguyễn Tiến Hoàng
  • Ngày công báo: Đang cập nhật
  • Số công báo: Đang cập nhật
  • Ngày hiệu lực: 13/05/2016
  • Tình trạng hiệu lực: Chưa xác định
Tải văn bản