(Mẫu số 27-HS (Ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP)
TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
HUYỆN QUỲ CHÂU Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TỈNH NGHỆ AN
Bản án số: 84/2022/HS-ST Ngày 27/10/2022
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲ CHÂU
-Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Lô Xuân Diệu.
Các Hội thẩm nhân dân: Ông: Vi Văn Duẩn.
Ông: Lý Văn Huân.
Thư ký phiên tòa: Ông Tăng Thành Vương – Thư ký Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An tham gia phiên tòa: ông Lương Văn Hiếu - Kiểm sát viên.
Ngày 29 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 79/2022/TLST-HS ngày 03/10/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 101/2022/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn D – Tên gọi khác: Không. Sinh năm 1980, tại huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: k, thị trấn T.L, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An.
Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Lớp 3; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam.
Con ông: Trần Văn Dần và bà Hồ Thị Lý. Vợ: Nguyễn Thị Thắng; con: 02 đứa
Tiền án; tiền sự: không.
Nhân thân: Ngày 12/4/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng, đã chấp hành xong quyết định ngày 17/9/2019.
Tạm giữ, tạm giam 11/6/2022. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: bà Nguyễn Thị Th, trợ giúp viên pháp lý – Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nghệ An – Chi nhánh số 2.
Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 11/6/2022, bị cáo Trần Văn D đi bộ từ nhà ra khu vực Bến xe huyện Quỳ Châu để tìm mua ma túy về sử dụng. Tại đây bị cáo gặp một người đàn ông vừa ở trên xe khách xuống, bị cáo đã làm quen và hỏi mua ma túy với người đàn ông đó và được người đàn ông đó bán cho một gói ma túy với số tiền là 300.000,đ. Sau khi mua được bị cáo cầm gói ma túy trên tay và đi về nhà, trền đường về khoảng 08 giờ thì gặp Công an huyện Q.Châu và Công an thị trấn T.L cầu kiểm tra hành chính, thấy vậy nên bị cáo đã ném gói ma túy mới mua được xuống đường nhưng đã bị phát hiện, Công an huyện Q.Ch đã lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng và đưa bị cáo cùng vật chứng về trụ sở Công an huyện Q.Ch để điều tra xử lý.
Tại Cơ quan điều tra bị cáo đã khai nhận gói chất rắn màu trắng mà Công an huyện Quỳ Châu thu giữ là ma túy của bị cáo mua với người mà bị cáo không biết tên và địa chỉ ở khu vực Bến xe huyện Quỳ Châu đưa về để sử dụng.
Tại kết luận giám định số 871/KL-PC09(Đ2-MT) ngày 17/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận: Mẫu chất rắn màu trắng thu giữ của Trần Văn Dương gửi tới giám định là ma túy ( Hê rô in). Số chất rắn màu trắng thu giữ của Trần Văn Dương khối lượng là 0,3 gam.
Cáo trạng số 85/CT-VKS - HS, ngày 29/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu truy tố Trần Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự.
Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa: Giữ nguyên bản cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Văn D từ 01 (một) năm 03 (ba) tháng đến 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Bị cáo điều kiện kinh tế khó khăn đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Vật chứng vụ án: Căn cứ 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,2 gam hê rô in và và vỏ bao niêm phong cũ.
Án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Đề nghị miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo theo quy định.
Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Nhất trí với luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa về tội danh, khung hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ đối với bị cáo bởi: Bị cáo là người nghiện chất ma túy nên bị cáo thực hiện hành vi phạm tội là nhằm thỏa mãn nhu cầu bản thân không vì mục đích lợi nhuận, điều kiện kinh tế của gia đình khó khăn. Đề nghị căn cứ điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo 01 (một) năm đến 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Về hình phạt bổ sung, bị cáo điều kiện kinh tế khó khăn . Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo. Về vật chứng vụ chứng và án phí nhất trí với ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa.
Ý kiến của bị cáo: Bị cáo xin được giảm nhẹ mức hình phạt để bị cáo cải tạo tốt và sớm được trở về với cộng đồng, với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng:
Những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, Kiểm sát viên thu thập, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác cung cấp đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng và đầy đủ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ai có khiếu nại về hành vi tiến hành tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên và kiểm sát viên.
Về nội dung:
Do là người nghiện ma túy nên sáng ngày 11/6/2022 bị cáo Trần Văn D đi bộ từ nhà mình ra khu vực Bến xe huyện Quỳ Châu để tìm mua ma túy đưa về để sử dụng, Khi đến khu vực Bến xe thì gặp một người đàn ông mới ở trên xe khách xuống xe nên bị cáo đã làm quen và hỏi mua ma túy thì được người đàn ông đó bán cho một gói ma túy với số tiền là 300.000,đ. Sau khi mua được ma túy thì bị cáo cầm gói ma túy trên tay và đi bộ về nhà, trên đường về thì gặp Công an huyện Quỳ Châu đang làm nhiệm vụ và yêu cầu kiểm tra hành chính đối với bị cáo, thấy vậy nên bị cáo đã vứt gói ma túy mới mua được xuống đường nhằm tránh bị phát hiện, tuy nhiên Công an huyện Quỳ Châu đã phát hiện nên bị cáo bị bắt và bị thu giữ một gói ma túy. Gói ma túy bị thu giữ là hê rô in của bị cáo mua về nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.
Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá tình điều tra, phù hợp với vật chứng đã thu giữ được. Tại kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nghệ An đã kết luận: Mẫu chất rắn màu trắng thu giữ của Trần Văn D gửi tới giám định là ma túy (Hê rô in), số chất rắn màu trắng thu giữ của Trần Văn D có khối lượng là 0,3 gam. Bị cáo mua ma túy (Hê rô in) nhằm mục đích để sử dụng. Hành vi trên của bị cáo đã cấu thành tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Khối lượng chất ma túy bị cáo tàng trữ là 0,3 gam do đó bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự theo điểm c khoản 1 điều 249 của Bộ luật hình sự. Như vậy Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An truy tố đối với bị cáo là có căn cứ. Hành vi ph¹m téi cña bÞ c¸o là nghiªm träng, bản thân bị cáo là người nghiện chất ma túy biết rõ về tác hại của việc sử dụng ma túy đối với sức khỏe con ng-êi, làm băng hoại đạo đức xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo có nhân thân xấu, ngày 12/4/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 18 tháng, đã chấp hành xong quyết định ngày 17/9/2019, tính đến ngày bị cáo thực hiện hành vi phạm tội lần này thì bị cáo được coi là chưa bị xử lý hành chính. Mặc dù bị cáo đã được chữa bệnh, lao động và học tập tại Trung tâm cai nghiện, sau khi trở về địa phương vẫn không từ bỏ việc sử dụng ma túy. Do đó cần thiết xét xử nghiêm đối với bị cáo để tiếp tục cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người sống có ích cho xã hội và để bị cáo có điều kiện để cai nghiện và từ bỏ việc sử dụng ma túy. Tuy nhiên khi quyết định hình phạt cũng xem xét giảm nhẹ đối với bị cáo bởi: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự.
Khoản 5 điều 249 của Bộ luật hình sự quy định: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000,đ đến 500.000.000,đ, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Bị cáo có điều kiện kinh tế khó khăn, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không vì mục đích lợi nhuận. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Hành vi của người bán ma túy cho bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa không xác định được là ai, ở đâu nên không có căn cứ để điều tra xử lý.
Vật chứng vụ án: Hê rô in thu giữ của bị cáo có khối lượng 0,3 gam, quá trình điều tra đã trích lấy mẫu giám định 0,1 gam, còn lại 0,2 gam và và vỏ bao niêm phong cũ. Đây là vật cấm lưu hành và vật không có giá trị sử dụng. Căn cứ điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch Thu tiêu hủy.
Án phí: Bị cáo Trần Văn D thuộc đối tượng chính sách hộ nghèo năm 2022 và đã có đơn đề nghị miễn, giảm án phí theo đúng quy định. Căn cứ khoản 2 điều 136
Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, điều 38 của Bộ luật hình sự . Xử phạt: Trần Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù được tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 11/6/2022.
Vật chứng vụ án: Căn cứ các điểm a, c khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 0,2 gam hê rô in và và vỏ bao niêm phong cũ.
Chi tiết các vật chứng được mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện Quỳ Châu và Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu lập ngày 30/9/2022.
-Án phí: Căn cứ khoản 2 điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo được quyền kháng cáo bản án lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM
Nơi nhận: THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
VKSND; Công an; THADS H.Quỳ Châu;
Phòng KTNV-TAND tỉnh Nghệ An;
Bị cáo;
Lưu HSVA.
Lô Xuân Diệu
Bản án số 84/2022/HS-ST ngày 27/10/2022 của TAND huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
- Số bản án: 84/2022/HS-ST
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 27/10/2022
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Trần Văn Dương - TTTP CMT