TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN TỈNH AN GIANG Bản án số: 84/2022/HNGĐ-ST Ngày: 17/10/2022 “V/v tranh chấp hôn nhân và gia đình” | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRI TÔN TỈNH AN GIANG
Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đỗ Minh Huyền
Hội thẩm nhân dân:
Ông Mai Văn Tài;
Ông Chau Khon Sốc;
Thư ký phiên tòa: Ông Đặng Văn Việt, thư ký Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang tham gia phiên tòa: Ông Chau Pho Ly – Kiểm sát viên.
Ngày 17 tháng 10 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tri Tôn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 217/2022/TLST-HNGĐ, ngày 02 tháng 5 năm 2022 về việc “ Tranh chấp hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 102/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 15 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 30/9/2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Trần Thị Gái T, sinh năm 1987; địa chỉ: Công ty Sang Sum, khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương (có đơn xin vắng mặt);
Bị đơn: Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1987; địa chỉ: Tổ 1, ấp Ninh Thạnh, xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản không tiến hành hòa giải được tại Tòa án bà Trần Thị Gái T trình bày:
Về hôn nhân: Vào năm 2007 bà và ông C quen biết nhau do qua mai mối nên chúng tôi có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn số 60/2007, quyển số 01, ngày 20/11/2007 tại Ủy ban nhân dân xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn thì vợ chồng sống chung với nhau bên gia đình chồng tại tổ 1, ấp Ninh Thạnh, xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Thời gian đầu cuộc sống bình thường đến năm 2009 thì vợ chồng xảy ra mâu thuẫn
nguyên nhân do ông C quen người khác nên khi phát hiện thì ông C bỏ nhà đi, bà T trở về nhà mẹ ruột sinh sống. Sau đó bà đi làm ở Sài Gòn đến năm 2011 thì bà và ông C sống chung lại với nhau tại Bình Dương đến tháng 11/2021 thì ông C tiếp tục quen người phụ nữ khác nên vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay ông C đã về quê sinh sống. Nay bà T yêu cầu được ly hôn ông C do không còn tình cảm nữa.
Về con chung: Bà T cho rằng có ba con chung tên Nguyễn Hữu H sinh năm 2006, Nguyễn Hữu Đ sinh năm 2009 và Nguyễn Thị Nhã U sinh ngày 30/12/2016. Bà T hiện tại đang nuôi dưỡng ba đứa con chung nên bà T yêu cầu được nuôi ba đứa con chung, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án đã tiến hành đã niêm yết tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự cho bị đơn ông Nguyễn Văn C. Tuy nhiên, ông C vẫn không tham gia tố tụng. Vì vậy, Tòa án không tiến hành hòa giải giữa các đương sự được.
Tại phiên tòa bà T có đơn xin xét xử vắng mặt, ông C đã được triệu tập lần hai nhưng vẫn vắng mặt
Hội đồng xét xử công bố lời khai của bà T; công bố kết quả xác minh về tình trạng hôn nhân, nơi cư trú của ông C.
Phát biểu của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng, quan điểm giải quyết vụ án:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Từ khi thụ lý giải quyết án Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 35, Điều 68, Điều 97, Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội thẩm nhân dân đã thực hiện đúng quy định về xét xử phiên tòa sơ thẩm.
Về chấp hành pháp luật của đương sự thì nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, chấp hành đúng quy định tại Điều 71. Tuy nhiên bị đơn đã được tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần hai nên không thực hiện Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ hồ sơ vụ án, các tài liệu chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và kết quả tranh luận của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, nhận thấy theo yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có đủ cơ sở để chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
Về tố tụng: Bà Trần Thị Gái T khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Văn C có địa chỉ tại tổ 1, ấp Ninh Thạnh, xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang nên thuộc tranh chấp ly hôn và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện Tri Tôn theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Nguyên đơn có đơn xin xét xét vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án đã niêm yết, tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng tại phiên tòa, ông C vẫn vắng mặt. Xét nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt phù hợp với quy định pháp luật theo khoản 2 Điều 228; bị đơn ông C vắng mặt lần thứ hai không rõ lý do. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông C theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung:
Về hôn nhân: Vào năm 2007 bà T và ông C quen biết nhau do qua mai mối, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn số 60/2007, quyển số 01, ngày 20/11/2007 tại Ủy ban nhân dân xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang nên đây là hôn nhân hợp pháp phù hợp theo Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình.
Theo lời khai của bà T cho rằng vợ chồng mâu thuẫn từ năm 2009 nguyên nhân do ông C quen người khác nên khi phát hiện thì ông C bỏ nhà đi, bà T trở về nhà mẹ ruột sinh sống. Đến năm 2011 thì bà và ông C sống chung lại với nhau tại Bình Dương đến tháng 11/2021 thì ông C tiếp tục quen người phụ nữ khác, nên vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay, nay tình cảm không còn bà T yêu cầu được ly hôn.
Qua kết quả xác minh tại địa phương cho biết: Vợ chồng bà T và ông C có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp Ninh Thạnh, xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Sau khi cưới thì vợ chồng sinh sống tại địa phương, cuộc sống vợ chồng lúc đầu hạnh phúc nhưng từ khoảng năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn nên thường xuyên cự cải nhau còn nguyên nhân mâu thuẫn thì địa phương không biết rõ. Hiện tại vợ chồng đi làm Công ty tại Bình Dương nhưng vẫn đi về thăm nhà ít ngày rồi đi lại, nên thu nhập của vợ chồng cụ thể thì địa phương không biết.
Xét thấy, kết quả xác minh và lời khai của bà T phù hợp với nhau là vợ chồng thường xuyên cự cải, nguyên nhân do ông C quen người khác, nên vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 11/2021 cho đến nay. Điều này, thể hiện ông C đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng và Trong thời gian ly thân đã gần một năm đủ dài để vợ chồng cùng nhau hàn gắn tình cảm nhưng cả hai vẫn không thể hàn gắn được tình cảm đến nay thì bà Từ và ông C vẫn còn ly thân đều đó chứng tỏ hai bên không có tiếng nói chung, cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc. Đồng thời, trong quá trình tống đạt các văn bản của Tòa án ông C có nhận trực tiếp văn bản nhưng vẫn không tham gia hòa giải. Điều này thể hiện ông C cũng không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng.
Cho nên, tình trạng hôn nhân của vợ chồng ông, bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T theo Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Bà T và ông C có ba con chung tên Nguyễn Hữu H sinh năm 2006, Nguyễn Hữu Đ sinh năm 2009 và Nguyễn Thị Nhã U sinh ngày 30/12/2016. Bà T yêu cầu được nuôi dưỡng ba đứa con chung, không yêu cầu ông C cấp dưỡng nuôi con chung.
Nhận thấy, hiện tại bà T đang trực tiếp nuôi dạy ba đứa con chung, bà T có nghề nghiệp đi làm tại công ty Samsum nên có thu nhập đảm bảo cho việc
nuôi dạy, chăm sóc con ổn định. Đồng thời tại bản tự khai ngày 20/6/2022 thì hai cháu H và cháu Đ đều có nguyện vọng được tiếp tục ở với mẹ. Đối với cháu Uyên hiện tại còn nhỏ dưới 7 tuổi. Từ đó để đảm bảo cho môi trường sống của ba cháu được ổn định thì giao ba cháu cho bà T tiếp tục nuôi dạy, ông C không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình, xét chấp nhận.
Căn cứ khoản 1 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình thì sau khi ly hôn cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định pháp luật mà không ai được quyền cản trở.
Trên cơ sở lợi ích của con, khi có yêu cầu của đương sự hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
Về án phí: Bà T khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí hôn nhân theo mức án phí không giá ngạch.
Ông C không phải chịu án phí hôn nhân. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ vào các Điều 9, Điều 56, khoản 1, 2 Điều 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điêm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 2 Điều 228, Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
Chấp nhận toàn bộ cầu khởi kiện của bà Trần Thị Gái T.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị Gái T được ly hôn với ông Nguyễn Văn C
Giấy chứng nhận kết hôn số 60/2007, quyển số 01, ngày 20/11/2007 tại Ủy ban nhân dân xã An Tức, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.
Về con chung: Bà Trần Thị Gái T được tiếp tục nuôi dạy ba đứa con chung tên Nguyễn Hữu H sinh năm 2006, Nguyễn Hữu Đ sinh năm 2009 và Nguyễn Thị Nhã U sinh ngày 30/12/2016. Ông Nguyễn Văn C không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định pháp luật mà không ai được quyền cản trở.
Trên cơ sở lợi ích của con, khi có yêu cầu của đương sự hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.
Về án phí: Bà Trần Thị Gái T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn) tiền án phí hôn nhân, gia đình sơ thẩm, nhưng được khấu trừ vào số tiền
tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: 0008397 ngày 16/5/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tri Tôn.
Ông Nguyễn Văn C không phải chịu án phí hôn nhân.
Trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án, bà T, ông C có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa
Đỗ Minh Huyền |
Bản án số 84/2022/HNGĐ-ST ngày 17/10/2022 của TAND huyện Tri Tôn , tỉnh An Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Số bản án: 84/2022/HNGĐ-ST
- Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
- Cấp xét xử: Sơ thẩm
- Ngày ban hành: 17/10/2022
- Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
- Tòa án xét xử: TAND huyện Tri Tôn , tỉnh An Giang
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: Tranh chấp ly hôn