Hệ thống pháp luật

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH TỈNH HẢI DƯƠNG

Bản án số: 52/2022/HS-ST Ngày: 24-10-2022

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

-------------------------

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NAM SÁCH, TỈNH HẢI DƯƠNG

  • Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

    Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà: Bà Phạm Thúy Hằng.

    Các Hội thẩm nhân dân: Bà Bùi Thị Quy, Ông Nguyễn Đắc Quýnh.

  • Thư ký phiên toà: Ông Nguyễn Minh Đ - Thư ký Toà án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương tham gia phiên toà: Bà Nguyễn Thị La - Kiểm sát viên.

    Ngày 24 tháng 10 năm 2022, tại Nhà văn hóa khu Nhân Đào, thị trấn Nam Sách, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Tòa án nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 54/2022/TLST-HS ngày 07/10/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 52/2022/QĐXXST-HS ngày 12/10/2022, đối với bị cáo:

    QUÀNG VĂN M, sinh năm 1997. Nơi sinh, đăng ký hộ khẩu thường trú: Bản B, xã M, huyện ML, tỉnh SL. Tạm trú: Thôn ML, xã ĐL, huyện NS, tỉnh Hải Dương. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: QVH và bà TTS; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ là LTH. Bị cáo có 01 con sinh năm 2018. Tiền án, tiền sự: Không.

    Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/6/2022 đến ngày 16/6/2022 chuyển tạm giam đến nay. Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.

    Bị cáo có mặt.

    * Người có quyền lợi liên quan: Anh Lê Minh Đ, sinh năm 1991.

    Địa chỉ: Thôn Phương La, xã Cẩm Chế, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. (vắng mặt)

    • Người làm chứng:

  • Anh Đỗ Văn C, sinh năm 1987.

  • Người chứng kiến: Ông MĐB, sinh năm 1965.

    Đều vắng mặt.

    NỘI DUNG VỤ ÁN:

    Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

    Sáng ngày 14/6/2022, Quàng Văn M đến khu vực thôn Vũ La, phường Nam Đồng, thành phố Hải Dương gặp một người tên Đ (không rõ họ, năm sinh, địa chỉ) để mua ma túy với mục đích sử dụng và có ai hỏi mua thì bán lại. M mua được của Đ 03 gói ma túy loại heroin với giá 600.000đồng rồi mang về phòng trọ của M ở thôn Miếu Lãng, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương. Tại phòng trọ, M lấy một gói ma túy sử dụng. Còn hai gói, M cất giấu dưới chiếu trên giường. Khoảng 14 giờ cùng ngày, anh Lê Minh Đ gọi điện thoại từ số 0934.257.892 đến số 0393.975.515 của M để hỏi mua 300.000đồng ma túy loại heroin để sử dụng. M đồng ý bán cho anh Minh Đ và bảo anh Minh Đ đến phòng trọ của M để nhận ma túy. Sau đó, M mở một gói ma túy và sử dụng một ít, số ma túy còn lại M chia làm 02 gói nhỏ để bán cho anh Minh Đ. Một lúc sau, anh Minh Đ cùng anh Đỗ Văn C đến phòng trọ của M. Anh Minh Đ đi vào gặp M còn anh C đứng phía ngoài. Tại cửa phòng trọ của M, anh Minh Đ đưa cho M số tiền 300.000đồng gồm 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đồng và 01 tờ tiền mệnh giá 200.000đồng. M đưa cho anh Minh Đ 02 gói ma túy. Anh Minh Đ đi ra cổng khu trọ và cùng anh C đi về. Trên đường đi, anh Minh Đ làm rơi mất 02 gói ma túy vừa mua của M nên nhắn tin cho M hỏi mua tiếp 200.000đồng ma túy loại heroin nữa và M đồng ý bán. Do không có đủ tiền nên anh Minh Đ nhắn tin lại cho M là không mua ma túy nữa. Không thấy M trả lời, anh Minh Đ và anh C quay lại phòng trọ của M để bảo M về việc không mua ma túy.

    Khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, anh Minh Đ và anh C đến khu vực phòng trọ của M, đúng lúc M mang gói ma túy ra cửa phòng trọ để giao cho anh Đ thì bị Công an huyện Nam Sách phát hiện, bắt quả tang M đang cầm trên tay phải 01 gói giấy màu vàng bọc nilon, kích thước (03x01)cm bên trong có chứa

    chất bột màu trắng; Số tiền 900.000đồng; 01 điện thoại di động của M có gắn sim số 0393.975.515; 01 điện thoại di động của Minh Đ có gắn sim số 0934.257.892.

    Kết luận giám định số 400/KL-KTHS ngày 15/6/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hải Dương, kết luận: Chất bột (dạng cục) màu trắng trong gói giấy màu vàng được niêm phong trong phong bì ghi thu của Quàng Văn M gửi đến giám định có khối lượng là 0,059gam, là ma túy, loại heroin.

    Tại bản Cáo trạng số 54/CT-VKS ngày 07/10/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố Quàng Văn M về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

    Tại phiên tòa:

    Bị cáo khai nhận: Sáng ngày 14/6/2022, bị cáo mua của một người tên Đ (không họ, không rõ tuổi, địa chỉ) ở khu nhà trọ thuộc khu Vũ La, phường Nam Đồng, thành phố Hải Dương 03 gói ma túy loại heroin với giá 600.000đồng để về sử dụng và có ai hỏi mua thì bán kiếm lời. Bị cáo đã sử dụng hết 01 gói, còn lại 02 gói. Chiều cùng ngày, anh Lê Minh Đ gọi điện, nhắn tin hỏi mua ma túy nên bị cáo đã lấy ra 01 gói ma túy, sử dụng một ít, còn lại chia làm 02 gói nhỏ bán cho anh Minh Đ với giá 300.000đồng. Sau đó, anh Minh Đ lại nhắn tin hỏi mua 200.000đồng ma túy nữa. Bị cáo đồng ý và đem ra cửa phòng trọ giao cho Minh Đ thì bị Công an phát hiện, thu giữ của bị cáo một gói ma túy, 01 điện thoại và 900.000.000đồng. Trong số tiền 900.000đồng có 300.000đồng là tiền bị cáo bán ma túy cho anh Minh Đ mà có, 600.000đồng còn lại là của bị cáo lao động mà có. Bị cáo đề nghị được nhận lại số tiền 600.000đồng. Bị cáo bị truy tố, xét xử là đúng, không bị oan.

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

    Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Quàng Văn M từ 07 năm đến 07 năm 02 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về vật chứng: áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu cho phát mại để sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh tím than số IMEI 860821053343370; Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 300.000đồng. Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 400/KL-KTHS ngày của Phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương, bên

    trong có chứa 0,031gam ma túy, lọai heroin; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh giấy màu vàng; 01 vỏ phong bì niêm phong; 01 sim điện thoại số 0393.975.515. Trả lại Quàng văn M số tiền 600.000đồng. Trả lại anh Lê Minh Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh có bàn phím, bên trong lắp sim số 0934.257.892, số IMEI 352415900491147. Về án phí: buộc bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự

  • Lời nói sau cùng: Bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được về với gia đìnhchăm sóc con nhỏ và bố mẹ ốm đau.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

  1. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nam Sách, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

  2. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của chính bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người có quyền lợi liên quan, người chứng kiến, phù hợp với vật chứng thu được và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, thể hiện diễn biến nội dung vụ việc và hành vi của bị cáo như sau: Khoảng 14 giờ ngày 14/6/2022, tại khu vực trước cửa phòng trọ của Quàng Văn M ở thôn Miếu Lãng, xã Đồng Lạc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Quàng Văn M có hành vi bán cho anh Lê Minh Đ 02 gói ma túy với giá 300.000đồng. Tiếp đó, vào khoảng 15 giờ 45 phút cùng ngày, cũng tại địa điểm trên, Quàng Văn M đang đang cầm trên tay phải 01 gói giấy màu vàng bọc nilon, kích thước (03x01)cm bên trong có chứa chất bột màu trắng có khối lượng là 0,059gam, là ma túy, loại heroin với mục đích bán cho Lê Minh Đ thì bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

    Bị cáo M là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi bán trái phép chất ma túy cho người là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố

    ý thực hiện vì mục đích kiếm lời. Lần thứ nhất, bị cáo đã bán cho anh Minh Đ 02 gói ma túy thu được số tiền 300.000đồng. Lần thứ hai, bị cáo đang cất giấu 0,059gam, là ma túy, loại heroin với mục đích tiếp tục bán cho anh Minh Đ thì bị phát hiện. Do đó, hành vi của bị cáo M đã đủ yếu tố cấu thành tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b (phạm tội hai lần trở lên) khoản 2 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

    Viện kiểm sát nhân dân huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Quàng Văn M là có căn cứ, đúng pháp luật.

  3. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền của Nhà nước trong việc quản lý các chất ma túy. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy còn là mầm mống làm phát sinh các hành vi vi phạm pháp luật khác, gây mất trật tự trị an ở địa phương, ảnh hưởng xấu đến an toàn công cộng. Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo.

  4. Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

    Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

    Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

  5. Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng bị cáo và phòng ngừa chung.

  6. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc ổn định, không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

  7. Vật chứng: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh tím than số IMEI 860821053343370 bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu cho phát mại để sung quỹ Nhà nước; Số tiền 300.000đồng do bị cáo phạm tội mà có cần tịch thu để sung quỹ Nhà nước.

    01 phong bì niêm phong số 400/KL-KTHS ngày của Phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương, bên trong có chứa 0,031gam ma túy, lọai heroin; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh giấy màu vàng; 01 vỏ phong bì niêm phong; 01 sim điện thoại số 0393.975.515 là các vật chứng liên quan đến tội phạm không còn giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

    Số tiền 600.000đồng thu của M không liên quan đến tội phạm cần trả lại cho bị cáo M;

    01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh có bàn phím, bên trong lắp sim số 0934.257.892, số IMEI 352415900491147 cần trả lại cho anh Lê Minh Đ.

  8. Về nguồn gốc ma túy: Bị cáo M khai mua của người tên là Đ ở khu vực thôn Vũ La, phường Nam Đồng, thành phố Hải Dương nhưng không biết tuổi, địa chỉ nên không làm rõ được. Vì vậy, không có căn cứ xử lý.

    Anh Lê Minh Đ khai nhận, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên đã mua của M 02 gói ma túy ở lần thứ nhất với giá 300.000đồng nhưng đã làm rơi mất. Cơ quan Công an không thu giữ được. Lần thứ hai, anh Đ tiếp tục hỏi mua ma túy của M nhưng do không đủ tiền nên anh Đ đã liên lạc với M thông báo không mua ma túy của M nữa. Anh Đỗ văn C đi cùng anh Lê Minh Đ nhưng không tham gia vào việc mua bán trái phép ma túy nên không có căn cứ xử lý đối với anh Lê Minh Đ và anh Đỗ Văn C.

  9. Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm. Vì các lẽ trên;

túy”.

QUYẾT ĐỊNH:

  1. Tuyên bố: Bị cáo Quàng Văn M phạm tội “Mua bán trái phép chất ma

  2. Căn cứ: Điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38

    Bộ luật hình sự.

  3. Xử phạt: Bị cáo Quàng Văn M 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 14/6/2022.

  4. Về vật chứng: Căn cứ áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

    Tịch thu cho phát mại để sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu xanh tím than số IMEI 860821053343370; Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng).

    Tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong số 400/KL-KTHS ngày của Phòng PC09 Công an tỉnh Hải Dương, bên trong có chứa 0,031gam ma túy, lọai heroin; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 mảnh giấy màu vàng; 01 vỏ phong bì niêm phong; 01 sim điện thoại số 0393.975.515.

    Trả lại Quàng văn M số tiền 600.000đồng (sáu trăm nghìn đồng).

    Trả lại anh Lê Minh Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu xanh có bàn phím, bên trong lắp sim số 0934.257.892, số IMEI 352415900491147.

    (Đặc điểm của vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nam Sách với Chi cục thi hành án dân sự huyện Nam Sách)

  5. Án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Quàng Văn M phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

  6. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Người có quyền lợi liên quan (anh Lê Minh Đ) vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết/.

Nơi nhận:

  • Sở tư pháp tỉnh Hải Dương;

  • VKSND tỉnh Hải Dương;

  • VKSND huyện Nam Sách;

  • Nhà tạm giữ CA huyện Nam Sách;

  • CQCSĐT công an huyện Nam Sách;

  • CQTHAHS-công an huyện Nam Sách;

  • CCTHADS huyện Nam Sách;

  • Bị cáo; Người có quyền lợi liên quan;

  • Lưu hồ sơ vụ án; Lưu VP

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Phạm Thúy Hằng

HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

Các Hội thẩm nhân dân

Trịnh Thị Ngọc Trần Thị Luận

Thẩm phán - Chủ toạ phiên toà

Phạm Thúy Hằng

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Phạm Thuý Hằng

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 52/2022/HS-ST ngày 24/10/2022 của TAND huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương

  • Số bản án: 52/2022/HS-ST
  • Quan hệ pháp luật:
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 24/10/2022
  • Loại vụ/việc: Hình sự
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Quàng Văn Long mua bán ma túy
Tải về bản án