Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

HUYỆN AN BIÊN Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

TỈNH KIÊN GIANG

Bản án số: 37/2024/HNGĐ-ST Ngày: 07-5-2024

“V/v ly hôn, tranh chấp về nuôi con”

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Văn Thảo

Các Hội thẩm nhân dân:

  1. Bà Trần Thị Mộng Lành

  2. Bà Nguyễn Ngọc Duyên

    • Thư ký phiên tòa: Bà Võ Thúy Kiều - Thư ký Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.

    • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang tham gia phiên tòa: Bà Lai Thị Ngọc Thúy - Kiểm sát viên.

Ngày 07 tháng 5 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 06/2024/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 01 năm 2024 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 56/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên toà số: 42/2024/QĐST- HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:

  1. Nguyên đơn: Chị Võ Thị Mỹ D, sinh ngày 09 tháng 8 năm 1998 (có

    mặt);

  2. Bị đơn: Anh Huỳnh Quốc H, sinh ngày 02 tháng 9 năm 1996 (vắng mặt); Cùng địa chỉ: ấp 5B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN:

* Trong đơn khởi kiện ngày 27/6/2023 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ D trình bày và yêu cầu như sau:

Chị và anh Huỳnh Quốc H quen biết, tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, đến 15/3/2019 đăng ký kết hôn và chung sống với nhau có 01 người con chung tên:

Huỳnh Võ Đông Q, sinh ngày 11/5/2020 hiện nay đang chung sống với anh Huỳnh Quốc H từ ngày 24 tháng 01 năm 2024 đến nay. Về tài sản chung và nợ, chị và anh Huỳnh Quốc H không có tài sản chung, không có nợ người khác, người khác không nợ anh chị. Quá trình chung sống chị và anh Huỳnh Quốc H thường xuyên bất hòa cự cãi với nhau, anh Huỳnh Quốc H không lo làm ăn, chơi bời, không quan tâm đến vợ con, chị nói thì bị anh Huỳnh Quốc H đánh, đến tháng 04/2022 chị sống ly thân với anh Huỳnh Quốc H cho đến nay, thời gian ly thân anh Huỳnh Quốc H đôi khi có liên lạc qua điện thoại và có đến thăm con, đưa đón con về chung sống với anh Huỳnh Quốc H. Chị thấy, chị và anh Huỳnh Quốc H không còn tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhân, chị yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên: Huỳnh Võ Đông Q, sinh ngày 11/5/2020 đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, chị không yêu cầu anh Huỳnh Quốc H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, chị không yêu cầu giải quyết.

  • Trong quá trình tố tụng, bị đơn anh Huỳnh Quốc H trình bày như sau:

    Về thời gian chung sống, kết hôn, con chung như chị Võ Thị Mỹ D trình bày trên là đúng. Anh và chị Võ Thị Mỹ D chung sống, kết hôn và chung sống với nhau hạnh phúc đến tháng 4 năm 2022, vợ chồng thường xuyên cự cãi với nhau nên vợ chồng đã ly thân cho đến nay. Trong thời gian chung sống anh và chị Võ Thị Mỹ D có 01 người con chung tên Huỳnh Võ Đông Q, sinh ngày 11/5/2020, từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 10 năm 2023 anh giao con cho chị Võ Thị Mỹ D nuôi dưỡng, từ ngày 22 tháng 01 năm 2024 anh trực tiếp nuôi dưỡng cho đến nay. Về tài sản chung và nợ, anh và chị Võ Thị Mỹ D không có tài sản chung, anh và chị Võ Thị Mỹ D không có nợ người khác, người khác không nợ anh chị. Nay về quan hệ hôn nhân, anh không đồng ý ly hôn, anh không muốn con của anh không có đủ cha và không có đủ mẹ, theo quy định pháp luật cho chị Võ Thị Mỹ D ly hôn với anh thì về quan hệ con chung, anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên Huỳnh Võ Đông Q đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, anh không yêu cầu chị Võ Thị Mỹ D cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ anh cam kết không có và anh không yêu cầu giải quyết.

  • Tại Biên bản xác minh ngày 21 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về nguyên nhân mâu thuẫn và tình trạng hôn nhân:

    Chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H sống chung hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, về nguyên nhân mâu thuẫn không rõ nhưng hiện nay anh chị đã ly thân với nhau. Chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H có 01 người con chung tên Huỳnh Võ Đông Q hiện nay đang sống chung với anh Huỳnh Quốc H và được chăm sóc tốt, phát triển bình thường.

  • Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Căn cước công dân tên Võ Thị Mỹ D (Bản sao); Giấy chứng nhận kết hôn chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H số: 33 ngày 15 tháng 3 năm 2019 của Ủy ban nhân dân xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang (Bản chính); Giấy khai sinh tên Huỳnh Võ Đông Q (Bản sao); Đơn xin xác nhận tình trạng cư trú của người bị kiện ngày 27 tháng 6 năm 2023 của chị Võ Thị Mỹ D (Bản chính); Biên bản xác minh ngày 21 tháng 01 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang (Bản chính).

  • Tại phiên tòa:

Nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ D yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Quốc

H. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị giao người con chung tên: Huỳnh Võ Đông Q, sinh ngày 11/5/2020 cho anh Huỳnh Quốc H tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, chị không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, không có và chị không yêu cầu giải quyết, ngoài ra chị không yêu cầu gì khác.

Bị đơn anh Huỳnh Quốc H vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

  • Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện đúng các trình tự thủ tục tố tụng theo pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn anh Huỳnh Quốc H vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

  • Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Võ Thị Mỹ D yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H, khi ly hôn chị giao người con chung cho anh Huỳnh Quốc H tiếp tục nuôi dưỡng đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Võ Thị Mỹ D được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H và giao người con chung của anh chị cho anh Huỳnh Quốc H tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, anh Huỳnh Quốc H không yêu cầu nên đề nghị không xem xét; về tài sản chung và nợ, anh chị tự xác định không có, không yêu cầu giải quyết đề nghị miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

  1. Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Võ Thị Mỹ D yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Huỳnh Quốc H, tranh chấp về nuôi con. Nguyên đơn và bị đơn đều cư trú tại ấp 5B, xã N, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

  2. Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân, chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H quen biết, tìm hiểu nhau khoảng 01 năm, đến ngày 15/3/2019 chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban, được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 33 ngày 15/3/2019, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.

Xét khởi kiện của chị Võ Thị Mỹ D được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H, thời gian chị và anh Huỳnh Quốc H thường xuyên bất hòa cự cãi với nhau, anh Huỳnh Quốc H không lo làm ăn, chơi bời, không quan tâm đến vợ, chị nói thì bị anh Huỳnh Quốc H đánh, đến tháng 04/2022 chị sống ly thân với anh Huỳnh Quốc H cho đến nay, thời gian ly thân anh Huỳnh Quốc H đôi khi có liên lạc qua điện thoại và có đến thăm con, đưa đón con về chung sống với anh Huỳnh Quốc

H. Chị thấy, chị và anh Huỳnh Quốc H không còn tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H; trong quá trình giải quyết vụ án, anh Huỳnh Quốc H tự xác định, anh và chị Võ Thị Mỹ D chung sống với nhau hạnh phúc đến tháng 4 năm 2022, vợ chồng thường xuyên cự cãi với nhau, đã ly thân cho đến nay, anh không muốn con của anh không có đủ cha và không có đủ mẹ và anh không đồng ý ly hôn với chị Võ Thị Mỹ D, theo quy định pháp luật cho chị Võ Thị Mỹ D ly hôn với anh thì anh yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng, thời gian anh chị chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn, đến tháng 4 năm 2022 anh chị sống ly thân cho đến nay là một thời gian dài mà anh chị không có biện pháp để hàn gắn về chung sống với nhau là vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng

lẫn nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Võ Thị Mỹ D cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H, mặc dù anh Huỳnh Quốc H muốn đoàn tụ với chị Võ Thị Mỹ D, không muốn con của anh chị không có đủ cha, không có đủ mẹ và anh không đồng ý ly hôn với chị Võ Thị Mỹ D là hôn nhân không tự nguyện. Do đó, chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Mỹ D, cho chị Võ Thị Mỹ D được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51 và Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về quan hệ con chung, chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H tự xác định, anh chị có 01 người con chung tên: Huỳnh Võ Đông Q, sinh ngày 11/5/2020, từ tháng 4 năm 2022 đến tháng 10 năm 2023 chị Võ Thị Mỹ D trực tiếp nuôi dưỡng, từ tháng 10 năm 2023 đến nay anh Huỳnh Quốc H trực tiếp nuôi dưỡng. Tại phiên tòa hôm nay, chị Võ Thị Mỹ D giao người con chung cho anh Huỳnh Quốc H tiếp tục nuôi dưỡng. Hội đồng xét xử thấy rằng, yêu cầu của chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H đều chính đáng, xuất phát từ tình yêu thương của cha, mẹ dành cho con. Tuy nhiên, việc xem xét giao con cho người trực tiếp nuôi dưỡng sau ly hôn phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét về thu nhập thì anh chị đều có thu nhập đảm bảo đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung của anh chị là như nhau. Trong khi con chung của anh, chị từ tháng 10 năm 2023 đến nay chung sống với anh Huỳnh Quốc H đã thích nghi với cuộc sống hiện tại nên việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý, sức khỏe của con anh chị. Đồng thời, anh Huỳnh Quốc H không thuộc trường hợp hạn chế quyền đối với con chưa thành niên theo quy định tại Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình. Ngoài ra, chị Võ Thị Mỹ D đi làm thuê ở xa, đơn chiếc và việc chăm nom, chăm sóc và nuôi dưỡng con có phần hạn chế, khó khăn hơn. Do đó, giao người con chung của anh chị cho anh Huỳnh Quốc H tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.

Về cấp dưỡng nuôi con, anh Huỳnh Quốc H không yêu cầu chị Võ Thị Mỹ D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ, chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H cùng thống nhất xác định, anh chị không có tài sản chung, không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị và anh chị không yêu cầu giải quyết nên Hội

đồng xét xử không xem xét. Sau này có phát sinh tranh chấp chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 85 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTV QH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

  1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Võ Thị Mỹ D được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H.

  2. Về quan hệ con chung: Giao người con chung của anh chị tên Huỳnh Võ Đông Q, sinh ngày 11/5/2020 cho anh Huỳnh Quốc H tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được, hiện nay đang chung sống với anh Huỳnh Quốc H.

    Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

  3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Huỳnh Quốc H không yêu cầu chị Võ Thị Mỹ D cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét giải quyết.

  4. Về tài sản chung và nợ: Chị Võ Thị Mỹ D và anh Huỳnh Quốc H cùng thống nhất xác định, anh chị không có tài sản chung, không có nợ người khác và

    người khác không có nợ anh chị và anh chị không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Sau này có phát sinh tranh chấp chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.

  5. Về án phí: Buộc chị Võ Thị Mỹ D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0009070 ngày 21 tháng 12 năm 2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Võ Thị Mỹ D đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

  6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 07/5/2024. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nơi nhận: TM.HỘI ĐỒNG XÉT XỬ SƠ THẨM

  • TAND tỉnh Kiên Giang; THẨM PHÁN- CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

  • VKSND huyện An Biên;

  • Chi cục THADS huyện An Biên;

  • Các đương sự;

  • UBND xã N, huyện AB, Kiên Giang;

  • Lưu: HSVA,VP (Kiều).

Trần Văn Thảo

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 37/2024/HNGĐ-ST ngày 07/05/2024 của TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Số bản án: 37/2024/HNGĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 07/05/2024
  • Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
  • Tòa án xét xử: TAND huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: Chị Võ Thị Mỹ D yêu cầu được ly hôn với anh Huỳnh Quốc H, nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con
Tải về bản án