Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH L

¯¯¯¯¯¯¯¯¯ Bản án số: 31/2023/DS-PT Ngày:

V/v tranh chấp hợp đồng góp hụi.

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH L

  • Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:

    Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Bà NTMH

    Các Thẩm phán: Ông TQK Ông DNT

  • Thư ký phiên tòa: Bà NTMP - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh L

  • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh L tham gia phiên tòa: bà NTKC

  • Kiểm sát viên.

Vào ngày 16 tháng 01 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 447/2022/TLPT-DS ngày 03 tháng 11 năm 2022 về tranh chấp hợp đồng góp hụi.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2022/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh L bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 437/2022/QĐ-PT ngày 18 tháng 11 năm 2022, giữa các đương sự:

  1. Nguyên đơn: Bà PTKT, sinh năm 1977. Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh L

    Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Luật sư NTMH - Đoàn luật sư Thành phố H.

  2. Bị đơn: Bà CTB, sinh năm 1976. Địa chỉ: Ấp ĐT, xã TC, huyện C, tỉnh L

  3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

    1. Ông NVP, sinh năm 1971.

      Địa chỉ: ấp ĐT, xã T, huyện C, tỉnh L.

      Người đại diện theo ủy quyền của bà CTB và ông NVP: Ông THT sinh năm 1971. Địa chỉ liên hệ: Số 63D Quốc lộ 50, thị trấn C, huyện C, tỉnh L (văn bản ủy quyền ngày 20 tháng 5 năm 2022)

    2. Ông TVO, sinh năm 1974.

      LA.

      Địa chỉ: Ấp ĐT, xã TC, huyện C, tỉnh L

  4. Người làm chứng:

    1. Bà TTNB, sinh năm 1984.

      Địa chỉ: Ấp ĐT, xã TC, huyện C, tỉnh L

    2. Bà NTD, sinh năm 1974.

      Địa chỉ: Ấp L, xã T, huyện C, tỉnh LA.

    3. Bà PTKT, sinh năm 1986.

      Địa chỉ: Ấp ĐN, xã T, huyện C, tỉnh L

    4. Bà HTD, sinh năm 1974.

      Địa chỉ: Ấp ĐR, xã T, huyện C, tỉnh L.

    5. Ông PMT, sinh năm 1990.

      Địa chỉ: ấp ĐT, xã TC, huyện CĐ, tỉnh LA.

    6. Ông TPN, Sinh năm 1958; địa chỉ: ấp ĐT, xã TC huyện CĐ, tỉnh

    7. Bà TTT, sinh năm 1969.

      Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh L.

    8. Ông LLS, sinh năm 1986.

      Địa chỉ: Ấp ĐT, xã TC, huyện CĐ, tỉnh LA.

    9. Ông THN, sinh năm 1984.

      Địa chỉ: ấp ĐN, xã T, huyện C, tỉnh L

    10. Bà TTHN, sinh năm 1981.

      Địa chỉ: ấp BN, xã TC, huyện CĐ, tỉnh L

    11. Bà HTL, sinh năm 1972.

      Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh L.

    12. Bà TTT, sinh năm 1982.

      Địa chỉ: Ấp BN, xã T, huyện C, tỉnh L.

    13. Bà NTCH, sinh năm 1973.

      Địa chỉ: Ấp ĐN, xã T, huyện C, tỉnh Ln.

    14. Bà PTM, sinh năm 1977.

      Địa chỉ: Ấp Đ, xã T, huyện C, tỉnh L.

    15. Bà TTBH, sinh năm 1978.

Địa chỉ: Ấp ĐT, xã T, huyện C, tỉnh L.

- Người kháng cáo: Bà PTKT

(Các đương sự có mặt; Bà Bích, bà Diễm, bà Thoại, ông Tâm, ông Ngọc, bà Thu, ông Sơn, ông Nghị, bà Tiểm vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN:

Trong đơn khởi kiện đề ngày 30 tháng 3 năm 2022 và trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn bà PTKT trình bày:

Bà có làm chủ hụi, hụi có hưởng hoa hồng, bà Bình là hụi viên có tham gia các dây hụi như sau:

Dây hụi thứ 1: Hụi 10.000.000đồng/tháng, mở ngày 06/11/2020 âm lịch (viết tắt AL), kết thúc ngày 06/10/2022 AL, gồm có 24 phần, bà Bình tham gia 01 phần, bà Bình góp được 02 kỳ đến kỳ thứ 03 bà Bình lĩnh hụi số tiền là 199.500.000 đồng và bà đã giao đủ tiền hụi cho bà Bình. Từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 dương lịch (viết tắt DL) trở đi thì bà Bình ngưng không góp hụi chết đến nay. Tính đến khi kết thúc hụi thì bà Bình còn nợ 13 kỳ hụi chết số tiền là 130.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu bà Bình trả nợ hụi chết cho bà đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 là 11 kỳ hụi chết số tiền là 110.000.000 đồng, còn lại 02 kỳ hụi chết số tiền 20.000.000 đồng bà sẽ khởi kiện sau.

Dây hụi thứ 2: Hụi 10.000.000 đồng/tháng, mở ngày 06/02/2021 AL, kết thúc hụi ngày 06/9/2022 AL, hụi gồm có 20 phần, bà Bình tham gia 01 phần, góp được 08 kỳ số tiền đã góp là 68.500.000 đồng.Từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) trở đi, bà Bình ngưng không góp hụi đến nay nhưng bà không yêu cầu khấu trừ qua nợ hụi chết của bà Bình.

Dây hụi thứ 3: Hụi 10.000.000 đồng/tháng, mở ngày 06/4/2021 (AL), kết thúc hụi ngày 06/12/2022 AL, hụi gồm có 21 phần, bà Bình tham gia 02 phần hụi sau:

Phần hụi thứ 1: Bà Bình góp được 02 kỳ, kỳ thứ 03 bà Bình lĩnh hụi số tiền là 168.000.000 đồng, bà đã giao đủ tiền hụi cho bà Bình. Sau đó, bà Bình góp được 03 kỳ hụi chết đến tháng 9/2021AL. Từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) trở đi thì bà Bình ngưng không góp hụi chết đến nay. Bà Bình còn nợ bà 15 kỳ hụi chết đến khi kết thúc hụi chưa góp số tiền là 150.000.000 đồng. Nay bà yêu cầu bà Bình trả nợ hụi chết cho bà đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 là 11 kỳ hụi chết số tiền là 110.000.000 đồng, còn lại 04 kỳ hụi chết số tiền là 40.000.000 đồng bà sẽ khởi kiện sau.

Phần hụi thứ 2: Bà Bình góp được 06 kỳ đến tháng 09/2021 AL, trung bình mỗi kỳ bà Bình góp 8.500.000 đồng, bà Bình đã góp tổng cộng là

51.000.000 đồng. Từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) trở đi thì bà Bình tự ý ngưng không góp hụi đến nay nhưng bà không yêu cầu khấu trừ qua nợ hụi chết của bà Bình.

Dây hụi thứ 4: Hụi 5.000.000 đồng/tháng, mở ngày 06/11/2020 AL, kết thúc ngày 06/8/2022AL, hụi gồm có 22 phần, bà Bình tham gia 01 phần và bà Bình lĩnh hụi kỳ đầu tiên số tiền là 86.750.000 đồng, bà đã giao đủ tiền hụi cho bà Bình. Sau đó, bà Bình góp được 10 kỳ hụi chết đến ngày 06/9/2021 AL. Từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) trở đi thì bà Bình ngưng không góp hụi chết đến nay, bà Bình còn nợ bà 11 kỳ hụi chết chưa góp số tiền là 55.000.000 đồng. Do hụi này đã kết thúc nên bà yêu cầu bà Bình trả cho bà 11 kỳ hụi chết số tiền là 55.000.000 đồng.

Dây hụi thứ 5: Hụi 5.000.000 đồng/tháng, mở ngày 06/3/2021 AL, kết thúc ngày 06/11/2022 AL, hụi gồm có 21 phần, bà Bình vào 02 phần hụi sau:

Phần hụi thứ 1: Bà Bình đã lĩnh hụi kỳ đầu tiên số tiền là 86.750.000 đồng, bà đã giao đủ tiền hụi cho bà Bình, bà Bình góp được 06 kỳ hụi chết đến tháng 9/2021 AL.Từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) trở đi thì bà Bình ngưng không góp hụi chết đến nay, bà Bình còn nợ 14 kỳ hụi chết đến kết thúc hụi là 70.000.0000 đồng. Nay bà yêu cầu bà Bình trả nợ hụi chết chưa góp cho bà đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 là 11 kỳ hụi chết là 55.000.000 đồng, còn lại 03 kỳ hụi chết là 15.000.000 đồng bà sẽ khởi kiện sau.

Phần hụi thứ 2: Bà Bình góp được 01 kỳ, đến kỳ thứ 02 bà Bình lĩnh hụi số tiền là 87.500.000 đồng, bà đã giao đủ tiền hụi cho bà Bình xong, bà Bình góp hụi chết được 05 kỳ đến ngày 06/9/2021 AL, từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) trở đi bà Bình ngưng không góp hụi chết đến nay, bà Bình còn nợ 14 kỳ hụi chết đến kết thúc hụi là 70.000.0000 đồng. Nay bà yêu cầu bà Bình trả nợ hụi chết chưa góp cho bà đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 là 11 kỳ hụi chết là 55.000.000 đồng, còn lại 03 kỳ hụi chết là 15.000.000 đồng bà sẽ khởi kiện sau.

Đối với những phần hụi bà Bình đã lĩnh hụi các dây hụi bà Bình tham gia như nêu trên bà đều giao tiền hụi cho bà Bình đầy đủ và những phần hụi chết cũng như hụi sống bà Bình đã góp đều không có lập sổ sách ký tên giao nhận, không chỉ riêng bà Bình mà các hụi viên khác cũng vậy, bà chỉ mở sổ lập danh sách ghi tên những người tham gia chơi hụi của từng dây hụi. Các dây hụi bà Bình tham gia hiện nay vẫn còn duy trì, khi bà Bình ngưng không góp hụi chết, bà cùng chồng bà là ông TVO phải vay mượn tiền để đóng choàng hụi chết cho bà Bình khi đến lượt hụi viên khác lĩnh hụi. Việc bà Bình có tham gia chơi hụi các dây hụi nêu trên có các hụi viên tham gia chơi hụi chung dây hụi với bà Bình biết như bà TPN, bà TTNB, anh PMT, bà NTD, bà PTKD, bà HTD, ông THN, bà HTL, bà TTT, bà TTHN, ông LLS, bà TTBH, bà PPTKM, bà Nguyễn Thị Cẩm Hồng, bà TTT và chứng cứ chứng minh bà Bình có nợ tiền hụi của bà là bà có ghi âm cuộc nói chuyện giữa bà với bà Bình và bà đã nộp băng ghi âm và văn bản trình bày nội dung ghi âm cho Tòa án.

Do số tiền nợ hụi bà Bình nợ của bà có trong thời kỳ hôn nhân và những lần bà giao hụi bà đều giao cho bà Bình và chồng của bà Bình là ông Nguyễn Văn Phương nên bà yêu cầu bà Bình và ông Phương phải liên đới trả cho bà số tiền nợ hụi chết từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 tổng cộng là 385.000.000 đồng, yêu cầu trả 01 lần và yêu cầu tính lãi suất theo quy định của pháp luật, số tiền nợ hụi chết còn lại tổng cộng là 90.000.000đồng của các dây hụi chưa kết thúc hụi nên số tiền này bà sẽ khởi kiện sau.

Bị đơn bà CTB và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông NVP cùng ủy quyền cho ông THT trình bày tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa:

Sau khi bà Thanh có cung cấp cho phía bị đơn 01 USB Tosiba 16GB; Văn bản trình bày nội dung ghi âm, ghi hình ngày 21/7/2022, bà Bình đồng ý bà Bình

là hụi viên có tham gia chơi hụi do bà Thanh làm chủ hụi. Mặc dù sức khỏe của bà Bình rất bình thường nhưng vì bà Thanh làm chủ hụi sổ sách không rõ ràng nên bà Bình không nhớ rõ đã tham gia bao nhiêu dây hụi và không xác định được những phần hụi đã tham gia, những phần hụi bà Bình đã lĩnh hụi, số tiền hụi chết bà Bình đã góp và nợ hụi chết chưa góp cũng như số tiền hụi sống bà Bình đã góp cho bà Thanh. Phía bà Thanh nêu bà Bình có nợ hụi chết các dây hụi bà Bình đã tham gia đến khi kết thúc hụi số tiền nợ hụi là 475.000.000 đồng và bà Thanh yêu cầu bà Bình cùng ông Phương liên đới trả nợ hụi đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 số tiền là 385.000.000 đồng thì bà Bình không đồng ý vì bà Thanh không cung cấp được chứng cứ chứng minh. Bà Bình chỉ nhớ bà Bình có nợ tiền hụi chết của bà Thanh khoảng 100.000.000 đồng đến khi kết thúc hụi nên bà Bình chỉ đồng ý trả cho bà Thanh số tiền nợ hụi là 100.000.000 đồng và ông Phương đồng ý liên đới cùng bà Bình trả cho bà Thanh số tiền nợ hụi này nhưng trả dần mỗi tháng 10.000.000 đồng kể từ ngày 01/9/2022 đến ngày 01/6/2023 trả dứt nợ, không đồng ý trả tiền lãi nợ hụi theo yêu cầu của bà Thanh vì các dây hụi chưa kết thúc hụi.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông TVO trình bày tại các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa: Ông là chồng của bà Thanh, việc vợ ông là PTKT làm chủ hụi có hưởng hoa hồng ông đều biết vì có lúc ông cũng là người đi gom hụi và giao hụi cho các hụi viên tham gia chơi hụi. Sau khi bà Bình ngưng không góp hụi chết từ tháng 10/2021AL đến nay thì vợ chồng ông phải vay mượn tiền để có tiền đóng choàng hụi chết cho bà Bình khi đến lượt các hụi viên khác hốt hụi. Việc bà Thanh yêu cầu bà Bình và ông Phương liên đới trả nợ hụi cho bà Thanh như bà Thanh yêu cầu thì ông cũng đồng ý.

Tại bản án dân sự sơ thẩm số 43/2022/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh L đã căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 271, 272 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Áp dụng khoản 2 Điều 468 và khoản 3 Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà PTKT về việc “tranh chấp nợ hụi” với bà CTB.

  2. Buộc bà CTB và ông NVP liên đới trả cho bà PTKT số tiền nợ hụi là 100.000.000 đồng và số tiền lãi là 8.742.676 đồng, tổng cộng là 108.742.676 đồng.

    Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người đựơc thi hành án cho đến khi thi hành án xong các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật dân sự.

  3. Về án phí: Bà PTKT phải nộp 13.813.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Khấu trừ số tiền 9.062.500 đồng và 3.500.000 đồng tạm ứng án phí bà Thanh đã nộp tại biên lai số 0006115 ngày 04/4/2022 và biên lai số 000536 ngày 07/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, bà Thanh còn phải nộp tiếp số tiền 1.250.500 đồng.

Bà CTB và ông NVP liên đới nộp 5.437.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về quyền kháng cáo và hướng dẫn về quyền và nghĩa vụ thi hành án của đương sự.

Ngày 29/9/2022, bà PTKT kháng cáo bản án sơ thẩm yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án dân sự sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc bà Bình và ông Phương phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà số tiền hụi 385.000.000 đồng và tiền lãi.

Tại phiên tòa phúc thẩm,

Nguyên đơn không rút đơn khởi kiện, người kháng cáo không rút đơn kháng cáo, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án, không cung cấp, nộp thêm tài liệu, chứng cứ mới và vẫn giữ nguyên ý kiến như đã trình bày ở cấp sơ thẩm.

  • Nguyên đơn trình bày: Bà Bình có tham gia các dây hụi do bà làm chủ hụi, mặc dù khi tham gia chơi hụi bà không có lập danh sách hụi viên và không có ký nhận việc giao tiền hụi cho bà Bình nhưng phía bị đơn thừa nhận là có tham gia chơi hụi và ngưng đóng hụi từ tháng 10 năm 2021, ngoài ra có những người làm chứng là các hụi viên có tham gia chơi hụi cùng với bà Bình. Tại phiên tòa, bà chỉ yêu cầu bà Bình trả lại tiền hụi còn nợ là 385.000.000 đồng, không yêu cầu trả tiền lãi.

  • Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, ông Trần Hữu Thọ trình bày: Bà Bình thừa nhận có tham gia chơi hụi do bà Thanh làm chủ hụi, nhưng bà Bình không nhớ tham gia dây hụi nào. Khi tham gia chơi hụi, bà Thanh không có lập sổ sách, danh sách hụi viên, số tiền các hụi viên đóng hụi và lĩnh hụi. Đối với những người làm chứng cho bà Thanh cung cấp chỉ biết bà Bình có tham gia chơi hụi chugn, còn việc giao nhna65 tiền hụi giữa bà Thanh và bà Bình thì không biết. Bà Bình thừa nhận còn nợ bà Thanh tiền hụi 100.000.000 đồng nên đồng ý trả 100.000.000 đồng.

Ông Phương là chồng bà Bình, việc chơi hụi do bà Bình trực tiếp giao dịch với bà Thanh, ông Phương thống nhất theo lời trình bày của bà Bình, đồng ý trả 100.000.000 đồng.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, luật sư NTMH trình bày: Theo đơn khởi kiện và trình bày của bà Thanh thì bà Thanh tổ chức chơi hụi từ năm 2015 đến nay, các hụi viên tham gia hụi do bà Thanh làm chủ hụi đều quen biết nhau trong đó có bà Bình, bà Bình đã tham gia chơi hụi các dây hụi như bà Thanh trình bày. Bà Bình sau khi tham gia hụi đã lĩnh hụi và ngưng góp hụi chết từ 10/2021 ÂL cho đến nay. Tổng cộng nợ hụi các dây hụi đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 thì bà Bình nợ tổng cộng là 385.000.000đồng, nợ hụi còn lại đến khi kết thúc hụi là 90.000.000 đồng. Đối với ông Thọ đại diện cho bà Bình cho rằng bà Thanh làm chủ hụi nhưng không

lập sổ hụi rõ ràng, không có ký tên giao nhận tiền hụi và cho rằng bà Bình không nhớ gì để không thừa nhận nợ hụi là có sự gian dối vì những lần bà Bình bỏ phiếu lĩnh hụi bà Thanh đều công bố cho các hụi viên khác biết. Chứng cứ chứng minh bà Bình có nợ tiền hụi như bà Thanh yêu cầu là trong đoạn băng ghi âm bà Thanh cung cấp có đoạn bà Thanh nêu bà Bình còn nợ bà Thanh số tiền nợ hụi là 485.000.000 đồng nhưng bà Bình không phản đối xem như bà Bình đã thừa nhận số nợ hụi này. Bà Thanh là chủ hụi, bà Bình là hụi viên tham gia 5 dây hụi, mỗi dây hụi bà Bình hốt hụi, bà Thanh đề thông báo cho các hụi viên, bà Bình cho rằng chỉ còn nợ tiền hụi 100.000.000 đồng nhưng bà Bình cũng không đưa ra được chứng cứ vì sao tính ra số tiền 100.000.000 đồng, tại phiên tòa ông Thọ cũng thừa nhận bà Bình có tham gia chơi hụi và ngưng đóng tiền hụi từ tháng 10/2021 cho đến khi hụi mãn. Những người làm chứng xác định bà Bình có tham gia chơi hụi chung, thấy rằng lời khai của những người làm chứng phù hợp với quá trình tham gia chơi hụi của bà Bình. Việc bà Bình ngưng không góp hụi chết, bà Thanh phải đi vay nợ để đóng choàng hụi chết cho bà Bình nên. Do đó, bà Thanh yêu cầu bà Bình và ông Phương liên đới trả nợ hụi cho bà Thanh số tiền là 385.000.000 đồng là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Thanh.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân L phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của bà PTKT đúng quy định của pháp luật nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm. Từ khi thụ lý cho đến khi đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng pháp luật.

Về yêu cầu kháng cáo của bà Thanh: Các bên không thống nhất về số tiền nợ hụi với nhau. Nguyên đơn đi kiện cũng không có giấy tờ gì chứng minh là bị đơn còn nợ số tiền hụi như nguyên đơn yêu cầu. Tuy nhiên bị đơn cũng thừa nhận có tham gia chơi hụi do nguyên đơn làm chủ hụi và còn nợ tiền hụi, do đó việc bị đơn là hụi viên đã thực hiện quyền lĩnh hụi nhưng không thực hiện nghĩa vụ góp phần hụi theo thoả thuận là vi phạm Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định tại Điều 16 Nghị định 19/2019/ND-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về, hụi, họ biêu, phường.

Nguyên đơn bà Thanh yêu cầu bị đơn phải trả tiền hụi còn nợ là 385.000.000 đồng, nhưng nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ bị đơn nợ hụi. Lẽ ra nguyên đơn phải có sổ hụi, danh sách hụi viên khi giao đóng hụi phải cho bị đơn ký để xác định số tháng còn phải góp hụi cho nguyên đơn còn bị đơn chỉ thừa nhận bị đơn chỉ thừa nhận còn nợ tiền hụi khoảng 100.000.000 đồng.

Theo quy định tại Điều 12 Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường, chủ hụi phải lập sổ hụi thể hiện nội dung ngày góp, số tiền góp hụi của từng thành viên, ngày lĩnh hụi, số tiền đã lĩnh có chữ ký hoặc điểm chỉ của thành viên khi góp hoặc lĩnh hụi nhưng nguyên đơn chỉ cung cấp bản liệt kê danh sách hụi viên không có chữ ký hoặc điểm chỉ của hụi viên khi góp hụi hoặc lĩnh hụi. Những người làm chứng là các hụi viên cũng chỉ biết bà Bình có chơi hụi, còn việc bà Bình có nợ hụi bà Thanh không thì họ không biết mà chỉ nghe bà Thanh nói lại. Văn bản giải trình nội dung ghi âm ngày

21/7/2022 do bà Thanh cung cấp cũng không có đoạn nào bà Bình thừa nhận còn nợ số tiền hụi 385.000.000 đồng. Do đó bà Thanh kháng cáo yêu cầu bà Bình cùng ông Phương liên đới trả 385.000.000 đồng tiền nợ hụi là không có cơ sở.

Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bà Phạm Thị Kim Thanh. Căn cứ khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

  1. Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bà PTKT thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự nên được xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

  2. Về thủ tục xét xử vắng mặt người làm chứng: Bà TTNB bà NTD, bà PTKT, ông PMT, ông TPN, bà TTT, ông LLS, ông THN, bà TTT là những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt những người này.

  3. Xét kháng cáo của bà PTKT, thấy rằng:

    [3.1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Thanh yêu cầu bà Bình và ông Phương phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà tiền hụi 385.000.000 đồng, không yêu cầu tính tiền lãi.

    Xét thấy, giữa bà PTKT và và bà CTB có tham gia chơi hụi với nhau, nhưng trong quá trình giải quyết vụ án bà Thanh và ông Trần Hữu Thọ là người đại diện cho bà Bình và ông Phương không thống nhất số tiền nợ hụi với nhau. Bà Thanh yêu cầu bà Bình và ông Phương liên đới trả cho bà Thanh số tiền nợ hụi chết đến ngày xét xử sơ thẩm với số tiền là 385.000.000 đồng, ông Thọ đại diện cho bà Bình chỉ thừa nhận bà Bình có nợ tiền hụi của bà Thanh số tiền 100.000.000 đồng đến khi kết thúc hụi và ông Phương đồng ý cùng bà Bình có nghĩa vụ liên đới trả số tiền nợ hụi này cho bà Thanh.

    [3.2] Đối với bà Bình là hụi viên tham gia hụi, đã thực hiện quyền lĩnh hụi nhưng không thực hiện nghĩa vụ góp phần hụi theo thoả thuận là vi phạm Điều 471 Bộ luật Dân sự năm 2015 và quy định tại Điều 16 Nghị định 19/2019/NĐ- CP ngày 19-02-2019 của Chính phủ về hụi, họ biêu, phường, bà Bình đồng ý trả tiền hụi cho bà Thanh với số tiền 100.000.000 đồng.

    [3.3] Đối với bà Thanh làm chủ hụi nhưng không lập sổ hụi rõ ràng như số tiền đã góp hụi của từng thành viên tham gia, ngày lĩnh hụi, số tiền đã lĩnh hụi của từng thành viên viên lĩnh hụi, chữ ký hoặc điểm chỉ của thành viên khi góp hụi và lĩnh hụi, bà Thanh chỉ cung cấp bản kê danh sách hụi viên của từng dây hụi nhưng không có chữ ký hoặc điểm chỉ của hụi viên khi góp hụi hoặc lĩnh hụi cũng như chữ ký hoặc điểm chỉ của bà Bình khi góp hụi và lĩnh hụi nên bà Thanh đã vi phạm tại Điều 12 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường.

    Điều 12 Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ về họ, hụi, biêu, phường quy định: “Chủ họ phải lập và giữ sổ họ, trừ trường

    hợp có thỏa thuận về việc một thành viên lập và giữ sổ họ. Trường hợp dây họ không có chủ họ thì các thành viên thỏa thuận giao cho một thành viên lập và giữ sổ họ. Sổ họ có các nội dung sau đây: Các nội dung của thỏa thuận về dây họ quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị định này; Ngày góp phần họ, số tiền đã góp họ của từng thành viên; Ngày lĩnh họ, số tiền đã lĩnh họ của thành viên lĩnh họ; Chữ ký hoặc điểm chỉ của thành viên khi góp họ và lĩnh họ; Các nội dung khác liên quan đến hoạt động của dây họ”.

    [3.4] Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Thanh cung cấp những người làm chứng là những hụi viên cùng tham gia chơi hụi chung dây hụi với bà Bình nhưng những người này chỉ biết bà Bình có tham gia chơi hụi, còn việc đóng hụi, giao hụi, bà Bình nợ tiền hụi bà Thanh bao nhiêu thì họ không biết nên không có cơ sở chấp nhận bà Bình còn nợ tiền hụi bà Thanh số tiền 358.000.000 đồng. Ngoài ra, phía nguyên đơn cung cấp chứng cứ là nội dung ghi âm giữa bà Thanh và bà Bình, tuy nhiên tại văn bản giải trình nội dung ghi âm ngày 21/7/2022 bà Thanh cung cấp cho Tòa án không có đoạn nào ghi âm bà Bình thừa nhận có nợ bà Thanh số tiền nợ hụi là 475.000.0000 đồng đến khi kết thúc hụi như bà Thanh trình bày nên không thể xem là bà Bình thừa nhận có nợ số tiền này với bà Thanh.

    [3.5] Do đó, việc bà Thanh yêu cầu bà Bình và ông Phương cùng liên đới trả cho bà Thanh số tiền nợ hụi chết từ tháng 10/2021 AL (tháng 11/2021 DL) đến ngày xét xử sơ thẩm 16/9/2022 số tiền là 385.000.000 đồng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh nên không có căn cứ chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Thanh, phía bị đơn thừa nhận còn nợ tiền hụi 100.000.000 đồng nên chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Thanh, buộc bà Bình cùng ông Phương phải có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Thanh số tiền nợ hụi là 100.000.000 đồng, số tiền hụi bà Thanh yêu cầu không chấp nhận là 285.000.000 đồng.

  4. Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn buộc bà Bình và ông Phương có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Thanh số tiền hụi 100.000.000 đồng là có căn cứ.

    Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Thanh không yêu cầu tính tiền lãi nên Hội đồng xét xử sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm về tiền lãi.

    Từ những phân tích trên, xét thấy yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị Kim Thanh không có căn cứ nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.

  5. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Phạm Thị Kim Thanh là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

  6. Xét đề nghị của Luật sư Nguyễn Thị Mỹ Hóa là người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không phù hợp nên không chấp nhận.

  7. Về án phí dân sự sơ thẩm:

    Bà Bình và ông Phương phải liên đới chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền nợ hụi phải trả cho bà Thanh cụ thể: 100.000.000 đồng x 5% =

    5.000.000 đồng.

    Bà Thanh phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với số tiền không được chấp nhận, cụ thể: 285.000.000 đồng x 5% = 14.250.000 đồng.

  8. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà Phạm Thị Kim Thanh phải chịu án phí dân sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của bà PTKT.

Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2022/DS-ST ngày 16 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh L.

Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 271, 272 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân

sự năm 2015;

Căn cứ khoản 2 Điều 468 và khoản 3 Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP ngày 19/02/2019 của Chính phủ; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

  1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà PTKT về việc “tranh chấp hợp đồng góp hụi” với bà CTB và ông NVP.

    Buộc bà CTB và ông NVP có nghĩa vụ liên đới trả cho bà Phạm Thị Kim Thanh số tiền nợ hụi là 100.000.000 đồng (Một trăm triệu đồng).

    Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

  2. Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà PTKTvề việc yêu cầu với bà CTB và ông NVP phải liên đới trả số tiền hụi 285.000.000 đồng (Hai trăm tám mươi lăm triệu đồng).

  3. Về án phí dân sự sơ thẩm:

    Bà CTB và ông NVP phải liên đới nộp 5.000.000 đồng án phí dân sự sơ

    thẩm.

    Bà PTKT phải nộp 14.250.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm được khấu trừ

    số tiền 9.062.500 đồng và 3.500.000 đồng tạm ứng án phí bà Thanh đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0006115 ngày 04/4/2022 và biên lai số 000536 ngày 07/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cần Đước, tỉnh Long An. Bà Thanh còn phải nộp tiếp số tiền 1.687.500 đồng.

  4. Về án phí dân sự phúc thẩm: Bà PTKT phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm được khấu trừ số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm

    đã nộp theo biên lai thu số 0000737 ngày 29/9/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh L

  5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

  6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nơi nhận:

  • TANDCC tại H

  • VKSND tỉnh L

  • TAND huyện C

  • Chi cục THADS huyện C

  • Các đương sự;

  • Lưu hồ sơ, án văn.

TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

NTMH

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Nguyễn Văn Cảnh Đặng

THẨM PHÁN CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

Văn Những

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 31/2023/DS-PT ngày 25/01/2023 của TAND tỉnh Long An về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường

  • Số bản án: 31/2023/DS-PT
  • Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
  • Cấp xét xử: Phúc thẩm
  • Ngày ban hành: 25/01/2023
  • Loại vụ/việc: Dân sự
  • Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: tranh chấp về hụi, họ, biêu
Tải về bản án