TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Bản án số: 294/2022/DS-PT Ngày 09– 11 – 2022 V/v tranh chấp hụi | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
Mau.
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:
Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đinh Cẩm Đào
Các Thẩm phán: Bà Bùi Thị Phương Loan Ông Đặng Minh Trung
Thư ký phiên tòa: Bà Hứa Như Nguyện - Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Cà
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà: Ông
Hữu Duy Khánh – Kiểm sát viên.
Ngày 09 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 227/2022/TLPT- DS ngày 06 tháng 10 năm 2022 về việc tranh chấp hụi.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2022/DS-ST ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 193/2022/QĐ-PT ngày 20 tháng 10 năm 2022 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Ông Ngô Chí D, sinh năm 1955. Địa chỉ: Ấp 4, xã K, huyện U, tỉnh C.
Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn: Ông Lê Trí Th, sinh năm 1979, địa chỉ: Ấp 6, xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau (có mặt).
Bị đơn: Bà Lý Thị Q, sinh năm 1978 (có mặt). Địa chỉ: Ấp 4, xã K, huyện U, tỉnh C.
Người kháng cáo: Ông Ngô Chí D là nguyên đơn và bà Lý Thị Q là bị đơn.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Nguyên đơn ông Ngô Chí D trình bày:
Ông có tham gia 03 dây hụi do bà Lý Thị Q làm chủ, cụ thể như sau:
Dây hụi mở ngày 09/7/2012 âm lịch, loại hụi 500.000 đồng, 30 ngày khui một lần, tổng số 21 chân, ông tham gia 04 chân. Ông đã đóng hụi sống cho bà Q được 15 kỳ với tổng số tiền 30.000.000 đồng.
Dây hụi mở ngày 10/8/2013 âm lịch, loại hụi 1.000.000 đồng, 30 ngày khui
một lần, tổng số 26 chân, ông tham gia 04 chân. Ông đã đóng hụi cho bà Q được 07 kỳ. Ngày 10/11/2013 ông kêu giá 510.000 đồng hốt được số tiền 11.300.000 đồng. Đối trừ số tiền đã đóng và đã hốt thì bà Q còn nợ ông số tiền 16.700.000 đồng.
Dây hụi mở ngày 10/9/2013 âm lịch, loại hụi 1.000.000 đồng, 30 ngày khui một lần, tổng số 27 chân, ông tham gia 04 chân. Ông đã đóng hụi cho bà Q được 06 kỳ. Ngày 10/11/2013 ông kêu giá 500.000 đồng hốt được số tiền 12.000.000 đồng. Đối trừ số tiền đã đóng và đã hốt thì bà Q còn nợ ông số tiền 12.000.000 đồng.
Do đó ông yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà Q trả cho ông tổng số tiền hụi còn thiếu là 58.700.000 đồng.
Bị đơn bà Lý Thị Q trình bày:
Dây hụi mở ngày 09/7/2012 âm lịch, loại hụi 500.000 đồng, tổng số 21 chân, ông D tham gia 04 chân. Đến tháng 7/2013 ông D kêu giá 172.000 đồng hốt được số tiền 7.390.000 đồng. Còn 03 chân hụi sống, ông D đã đóng cho bà từ tháng 7/2012 đến mãn dây hụi là tháng 3/2014. Bà đã giao cho ông D số tiền hụi là
24.750.000 đồng. Khi giao tiền bà có làm giấy giao hụi giao cho ông D và gạch trong sổ theo dõi. Dây hụi này bà không còn nợ ông D.
Dây hụi mở ngày 10/8/2013 âm lịch, loại hụi 1.000.000 đồng, tổng số 26 chân, 01 tháng khui 01 lần, ông D tham gia 04 chân, đã hốt 02 chân. Chân thứ nhất hốt vào ngày 10/9/2013 kêu giá 455.000 đồng, chân thứ hai hốt vào ngày 10/11/2013 kêu giá 510.000 đồng. Dây hụi này đình vào tháng 3/2014, khui tổng cộng được 07 lần. Sau khi hốt thì ông D vẫn đóng hụi sống và hụi chết cho đến khi đình hụi. Sau khi đình hụi thì bà và ông D chưa đối trừ số tiền cụ thể còn thiếu. Bà đồng ý trả cho ông D số tiền mà ông D đã đóng theo giá hụi sống của 02 chân hụi là 2.793.000 đồng. Đối trừ thì ông D còn nợ bà số tiền 27.414.000 đồng.
Dây hụi mở ngày 10/9/2013 âm lịch, loại hụi 1.000.000 đồng, 01 tháng khui 01 lần, tổng số 27 chân. Ông D tham gia 04 chân, đã hốt 01 chân vào ngày 10/11/2013 kêu giá 500.000 đồng. Chân hụi này ông D còn nợ bà 18.000.000 đồng. Trong dây hụi này ông D còn 03 chân hụi sống. Dây hụi này đình vào tháng 3/2014, khui tổng cộng được 06 lần. Sau khi hốt thì ông D vẫn đóng hụi sống và hụi chết cho đến khi đình hụi. Sau khi đình hụi thì bà và ông D chưa đối trừ số tiền cụ thể còn thiếu. Bà đồng ý trả cho ông D số tiền mà ông D đã đóng theo giá hụi sống của 03 chân hụi là 8.205.000 đồng. Đối trừ thì ông D còn nợ bà số tiền
9.795.000 đồng.
Tổng cộng ông D còn nợ bà số tiền hụi chết là 37.209.000 đồng.
Ngoài ra, do làm ăn thất thoát nên bà có nợ ông D 108.000.000 đồng. Ông D nhiều lần đến nhà đòi tiền nên cha của bà là ông Lý Văn Hoài đứng ra làm hợp đồng cố đất cho ông D. Ông D quy số tiền hụi mà bà nợ tương đương 36 chỉ vàng 24K. Khi cha bà làm hợp đồng cố đất cho ông D thì không biết giữa bà và ông D chưa tính toán rõ ràng và cụ thể với nhau. Nay ông D đã kiện cha bà yêu cầu trả 36 chỉ vàng tương đương 108.000.000 tiền hụi. Bà yêu cầu Tòa án buộc ông D trả cho
bà 37.209.000 đồng, yêu cầu quy ra giá vàng thời điểm năm 2014 để đối trừ số vàng mà cha bà đã ký cố đất cho ông D.
Từ nội dung trên, án sơ thẩm số: 69/2022/DS-ST ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh quyết định:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Chí D.
Buộc bà Lý Thị Q có nghĩa vụ trả cho ông Ngô Chí D số tiền 18.237.782 (mười tám triệu hai trăm ba mươi bảy nghìn bảy trăm tám mươi hai) đồng.
Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Chí D về việc yêu cầu bà Lý Thị Q trả số tiền 40.462.218 (bốn mươi triệu bốn trăm sáu mươi hai nghìn hai trăm mười tám) đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về lãi suất chậm trả, án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 15/8/2022, bà Lý Thị Q kháng cáo yêu cầu ông D trả lại số tiền hụi chết của 3 chưng hụi là 60.000.000 đồng.
Ngày 16/8/2022, ông Ngô Chí D có đơn kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm, theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông D.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện theo ủy quyền của ông D giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, kiến nghị hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông D.
Bà Q giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị hội đồng xét xử buộc ông D trả lại bà Q phần hụi chết ông D đã hốt vì hụi ông hốt rồi thì phải đóng lại hụi chết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tham gia phiên toà phát biểu: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án; của Hội đồng xét xử và những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng tại phiên tòa đúng quy định pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông D, chấp nhận một phần kháng cáo của bà Q, sửa bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau theo hướng không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Ông Ngô Chí D khởi kiện bà Lý Thị Q yêu cầu thanh toán số tiền hụi còn thiếu là 58.700.000 đồng, bà Q không thừa nhận. Án sơ thẩm buộc bà Q thanh toán cho ông D số tiền 18.237.782 đồng. Nên ông D và bà Q kháng cáo. Xét kháng cáo của các đương sự, Hội đồng xét xử xét thấy:
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn và bị đơn trình bày thống nhất về số dây hụi nguyên đơn đã tham gia, thời gian mở hụi, loại hụi, thời gian đình hụi. Các đương sự không thống nhất với nhau về số chưng hụi đã hốt nên các đương sự phát sinh tranh chấp.
Nguyên đơn yêu cầu tính số tiền đã đóng vào hụi sống bằng số lần hụi chết và trừ đi số tiền hụi nguyên đơn hốt được, số còn thừa yêu cầu bị đơn trả lại cụ thể là 58.700.000 đồng, bị đơn không đồng ý. Tuy nhiên việc ngừng hụi hai bên đương sự chưa đối chiếu hụi và cũng không thỏa thuận việc đóng hụi sống thì tính tiền hụi chết và khi hốt hụi xong lại trừ bằng số tiền đã nhận. Do đó, các đương sự
xác định không có thỏa thuận gì khác thì theo quy định ban đầu của các hụi viên và chủ hụi.
[3.1] Đối với dây hụi mở ngày 09/7/2012 âm lịch, nguyên đơn tham gia 04 chân, số tiền đã đóng được 15 kỳ là 30.000.000 đồng. Bị đơn xác định nguyên đơn đã hốt hết 04 chân. Tại hồ sơ thể hiện một giấy hụi ngày 09/7/2012, nguyên đơn xác định giấy hụi trên là do nguyên đơn cung cấp cho Tòa, trong giấy hụi có thể hiện người tham gia chơi hụi tên Dũng và số tiền bỏ hụi cho 04 lần hốt hụi. Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn xác định số tiền ghi trong giấy hụi là do gia đình ông D ghi nhưng để theo dõi chưng hụi khác, không phải 4 chưng hụi ngày 09/7/2012. Tuy nhiên, người đại diện không giải thích được vì sau chưng hụi khác lại ghi vào giấy hụi ngày 09/7/2012 và chưng hụi khác đó là chưng hụi nào, tham gia ở đâu nguyên đơn đều không giải thích được, do đó bị đơn xác định nguyên đơn đã hốt xong 04 chưng hụi trên theo giấy theo dõi hụi là có căn cứ chấp nhận.
[3.2] Đối với dây hụi mở ngày 10/8/2013 âm lịch, loại hụi 1.000.000 đồng, gồm 26 chưng, nguyên đơn xác định tham gia 04 chân, đã hốt 01 chân bằng số tiền
11.300.000 đồng nên yêu cầu đối trừ số tiền hụi đã đóng của 04 chân là 28.000.000 đồng trừ đi số tiền hụi đã hốt là 11.300.000 đồng từ đó yêu cầu bị đơn trả
16.700.000 đồng.
Xét thấy tại giấy giao hụi do ông D cung cấp cho Tòa án có thể hiện hụi khui 10/8/2012, hốt ngày 10/11, gồm 26 chưng chết 02 chưng và sống 20 chưng. Tại giấy giao hụi thể hiện chủ hụi trừ ra 04 chưng hụi do ông D tham gia nên còn lại 22 chưng và tại giấy giao hụi thể hiện 02 chưng chết nhưng tại thời điểm ông D hốt hụi là 10/11 là chết 03 lần (tháng 8, 9, 10) như vậy trong 03 chưng hụi của ông D có thể hiện 1 chưng hụi chết. việc ông D cho rằng chỉ hốt 1 chưng còn sống 3 chưng là không phù hợp với giấy giao hụi do ông D cung cấp cho Tòa án là ông D đã hốt 02 chưng. Dây hụi này ông D hốt 2 chưng đã đóng được 7 lần, thì ông D còn phải đóng tiếp 19 lần x 2 chưng x 1.000.000 đồng = 38.000.000 đồng. Còn lại 2 chưng hụi sống ông D cũng đóng được 7 lần x 2 x 1000.000 đồng = 14.000.000 đồng. Như vậy dây hụi này ông D còn phải thanh toán cho bà Q là 24.000.000 đồng.
[3.3] Đối với dây hụi mở ngày 10/9/2013 âm lịch (tức ngày 14/10/2013 dương lịch) loại hụi 1.000.000 đồng, 27 chưng các bên cùng xác định nguyên đơn tham gia 04 chân, đã hốt 01 chân vào kỳ khui hụi thứ 3 vào tháng 11/2013, thống nhất về số kỳ hụi đã khui là 06 kỳ. Dây hụi này ông D hốt 1 chưng đã đóng được 6 lần, thì ông D còn phải đóng tiếp 21 lần x 1chưng x1.000.000 đồng = 21.000.000 đồng. Còn lại 3 chưng hụi sống ông D cũng đóng được 6 lần x 3 x1000.000 đồng =
18.000.000 đồng. Như vậy dây hụi này ông D còn phải thanh toán cho bà Q là
3.000.000 đồng.
Do đó, ông D khởi kiện yêu cầu bà Q thanh toán số tiền hụi còn nợ là không có căn cứ chấp nhận. Bà Q kháng cáo yêu cầu đối trừ tiền hụi ông D còn nợ vào số tiền bà Q thiếu ông D nhưng từ giai đoạn xét xử sơ thẩm bà Q có đơn phản tố nhưng sau thời gian công khai chứng cứ lần đầu nên cấp sơ thẩm đã tách yêu cầu của bà Q, không xem xét trong vụ án này nên cấp phúc thẩm không có căn cứ xem xét. Bà Q và ông D có thể tự thỏa thuận với nhau hoặc kiện thành vụ kiện
khác. định.
Án phí dân sự phúc thẩm: ông D được miễn, bà Q không phải chịu theo quy
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có
hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị nên không đặt ra xem xét.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 308, 209 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Ngô Chí D. Chấp nhận một phần kháng cáo của bà Lý Thị Q.
Sửa bản án dân sự sơ thẩm số: 69/2022/DS-ST ngày 03 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
Tuyên xử:
Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Ngô Chí D về việc yêu cầu bà Lý Thị Q thanh toán số tiền hụi còn nợ là là 58.700.000 đồng.
Án phí dân sự sơ thẩm: ông Ngô Chí D được miễn toàn bộ.
Án phí phúc thẩm: Ông Ngô Chí D được miễn, bà Lý Thị Q không phải chịu. Ngày 15 tháng 8 năm 2022 bà Q có dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số: 0010649 của Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh được nhận lại.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
i nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Đinh Cẩm Đào |
Bản án số 294/2022/DS-PT ngày 09/11/2022 của TAND tỉnh Cà Mau về tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
- Số bản án: 294/2022/DS-PT
- Quan hệ pháp luật: Tranh chấp về hụi, họ, biêu, phường
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Ngày ban hành: 09/11/2022
- Loại vụ/việc: Dân sự
- Tòa án xét xử: TAND tỉnh Cà Mau
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: ông yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết buộc bà Q trả cho ông tổng số tiền hụi còn thiếu là 58.700.000 đồng