TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN ¯¯¯¯¯¯¯¯¯ Bản án số: 227/2022/HS-PT Ngày: 27-12-2022 | CỘNG HÒA Xà HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯¯ |
NHÂN DANH
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN
Thành phần Hội đồng xét xử phúc thẩm gồm có:Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Ông Dương Ngọc Thành Các Thẩm phán: Ông Nguyễn Thiện Tâm
Ông Nguyễn Phước Thanh
Thư ký Tòa án: Ông Lê Hồng Nhật Châu – Thư ký Tòa án nhân dân tỉnh Long An.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa: Bà Mai Thị Phương Thảo - Kiểm sát viên.
Ngày 27 tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 147/2022/TLPT-HS ngày 12 tháng 10 năm 2022 đối với bị cáo Nguyễn Tấn Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Bị cáo có kháng cáo: Nguyễn Tấn Q, sinh năm 1986, tại tỉnh Tiền Giang; Nơi cư trú: Số 111, tổ 3, ấp 2, xã Đ, thành phố M, tỉnh Tiền Giang; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tấn Q1 và bà Trần Hữu H; Có vợ tên Nguyễn Thị Nhất L và 01 người con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo hoặc liên quan đến kháng cáo, kháng nghị không triệu tập:
Bị hại: Võ Văn A.
Người đại diện hợp pháp của bị hại: Nguyễn Thị M, Võ Minh H1, Võ Thị T, Võ Thị Tuyết L1, Võ Hoàng M, Võ Thị Tuyết L2.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Từ Thế Nh.
NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 20 phút ngày 15/11/2021, Nguyễn Tấn Q có giấy phép lái xe theo quy định, sau khi uống rượu, điều khiển xe mô tô biển số 51K1-6227 (mua chưa chuyển quyền sở hữu) lưu thông trên đường An Thạnh thuộc ấp 2, xã H, huyện C, tỉnh Long An hướng lưu thông từ tỉnh lộ 827A đi tỉnh lộ 827B đã gây tai nạn giao thông với xe mô tô biển số 62FC-0016 do ông Võ Văn A, điều khiển lưu thông chiều ngược lại. Hậu quả Nguyễn Tấn Q, ông Võ Văn A bị thương nặng được đưa đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh Long An điều trị. Ông Võ Văn A tử vong tại bệnh viện ngày 15/11/2021.
Tại biên bản khám nghiệm hiện trường lúc 14 giờ 30 phút ngày 15/11/2021, do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành thực hiện, ghi nhận như sau:
Hiện trường của đoạn đường xảy ra vụ tai nạn là đường An Thạnh thuộc ấp 2, xã H, huyện C, tỉnh Long An, có mặt đường rộng 3,6 mét, được trải nhựa nóng, không có vạch sơn giữa đường phân chia mặt đường thành hai chiều riêng biệt. Biển báo đường cong W201A nằm sau hiện trường vụ tai nạn (hướng ĐT827B đi ĐT827A).
Ghi nhận việc đánh số thứ tự theo vị trí phương tiện, dấu vết như sau:
Số (1): Vị trí mãnh nhựa rơi trên đường (0,6 mét x 0,6 mét); (2): Vị trí xe mô tô biển số 51K1-6227. (3): Vị trí xe gắn máy biển số 62FC-0016. (4): Vị trí vết máu (0,3 mét x 0,5 mét).
Xác định điểm mốc là trụ điện số 5 nằm bên trái đường hướng ĐT827A đi ĐT827B. Chọn mép đường bên trái hướng ĐT827A đi ĐT827B làm mép đường chuẩn để thể hiện các số đo.
Mô tả theo thứ tự vị trí phương tiện, dấu vết:
Từ điểm mốc kéo một đoạn 10,20 mét về hướng ĐT827B là vị trí mãnh nhựa rơi trên đường ký hiệu là (1), đo từ tâm (1) vào mép đường chuẩn là 0,75 mét.
Từ tâm (1) đo về hướng ĐT827B và chếch vào mép đường chuẩn là tâm bánh sau xe gắn máy biển số 62FC-0016 là 1,24 mét.
Xe mô tô biển số 51K1-6227 ký hiệu là (2) đầu xe hướng ĐT827B, cuối xe hướng ĐT827A và ngã về bên trái và nằm trong lề trái hướng ĐT827A đi ĐT827B, đo lần lượt tâm bánh trước và tâm bánh sau vào mép đường chuẩn là 0,15 mét và 0,3 mét.
Từ tâm bánh sau xe (2) đo ra giữa đường là tâm bánh trước xe gắn máy biển số 62FC-0016 là 0,65 mét và ký hiệu là (3). Đầu xe (3) hướng ĐT827A, xe ngã phải, đo lần lượt tâm bánh trước và tâm bánh sau vào mép đường chuẩn là 0,18 mét và 0,9 mét.
Vết máu được ký hiệu (4) nằm ngay mép đường chuẩn, từ tâm vết máu đo đến tâm bánh trước xe (2) là 0,15 mét.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 963/2021/KLGĐ ngày 26/11/2021, của Phòng Kỹ Thuật Hình sự Công an tỉnh Long An, đối với ông Võ Văn A như sau:
Dấu hiệu chính qua giám định:
Khuôn mặt biến dạng, rách da đầu vùng trán, vùng mũi.
Vỡ lún xương hộp sọ vùng trán.
Bầm tụ máu dưới da đầu vùng trán - thái dương trái.
Vỡ phức tạp xương hộp sọ, nền sọ vùng trán - đỉnh.
Máu tụ dưới màn cứng vùng thái dương phải và trái, xuất huyết dưới nhện vùng trán, giập não thùy trán.
Gãy 1/3 xương cẳng chân phải.
Nguyên nhân chết: Đa chấn thương (vỡ hộp sọ; gãy xương cẳng chân).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số HST 751/ĐC.2021 ngày 29/11/2021, của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Mẫu máu của ông Võ Văn A nồng độ Ethanol là: 0,01mg/100ml (Theo Quyết định số 320/QĐ-BYT ngày 23/01/2014, trị số bình thường <50,23mg/100ml).
Tại Bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số HST 752/ĐC.2021 ngày 29/11/2021, của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Mẫu máu của Nguyễn Tấn Q nồng độ Ethanol là: 242,38mg/100ml.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về hóa pháp số MST 1017/ĐC.2021 ngày 17/12/2021, của Trung tâm Pháp y Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: Mẫu máu của Nguyễn Tấn Q có sự hiện diện của Acetaminophen (Paracetamol) (thuốc giảm đau, hạ sốt), caffeine (chất kích thích thần kinh trung ương yếu).
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 25/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An đã xử:
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260, Điều 38, Điều 50, điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian tù được tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí, quyền và thời hạn kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.
Ngày 29 tháng 8 năm 2022, bị cáo Nguyễn Tấn Q kháng cáo xin hưởng án
treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Tấn Q thừa nhận đã thực hiện hành vi đúng như bản án sơ thẩm đã xử và xác định bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” là đúng, không oan. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo.
Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án như sau:
Về thủ tục: Bị cáo Nguyễn Tấn Q làm đơn kháng cáo trong thời hạn luật quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.
Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm thống nhất với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Tấn Q có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng pháp luật, không oan.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo như: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là đúng người, đúng tội, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo ngoài những tình tiết giảm nhẹ mà cấp sơ thẩm đã xem xét, áp dụng bị cáo kháng cáo không bổ sung tình tiết nào mới, cấp sơ thẩm áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt dưới khung điều luật (03 năm đến 10 năm) nên kháng cáo của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về tố tụng: Bị cáo Nguyễn Tấn Q kháng cáo trong thời hạn luật quy định nên Tòa án nhân dân tỉnh Long An thụ lý xét xử vụ án theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Về nội dung: Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm thống nhất với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ 20 phút ngày 15/11/2021, sau khi đã uống rượu xong, bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 51K1-6227 trong tình trạng có sử dụng rượu, bia (nồng độ Ethanol là 242,38mg/100ml), lưu thông trên đường An Thạnh, thuộc ấp 2, xã H, huyện C, tỉnh Long An, hướng từ tỉnh lộ 827A đi tỉnh lộ 827B, không chú ý quan sát, không đi bên phải theo chiều đi của mình đã gây tai nạn giao thông với xe mô tô biển số 62FC-0016, do ông Võ Văn A điều khiển lưu thông theo chiều ngược lại. Hậu quả ông Võ Văn A tử vong tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Long An do đa chấn thương.
Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại Điều 260 của Bộ luật Hình sự, do bị cáo điều khiển xe trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu có nồng độ cồn vượt quá mức quy định gây tai nạn hậu quả làm chết người nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 của Bộ luật Hình sự là đúng pháp luật, không oan cho bị cáo.
Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của người khác, gây mất mát, đau thương cho gia đình bị hại. Bị cáo cũng thừa biết tính mạng, sức khỏe là vốn quý nhất của con người nhưng vì chủ quan, cẩu thả nên bị cáo bất chấp chứng tỏ bị cáo xem thường pháp luật, do đó cần xử phạt bị cáo một hình phạt thỏa đáng mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo như: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường cho gia đình bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, bị cáo có hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn có xác nhận của chính quyền địa phương là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.
Xét kháng cáo của bị cáo: Bị cáo Nguyễn Tấn Q kháng cáo xin hưởng án treo có cung cấp vợ bị cáo bị bệnh là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, tuy nhiên, cấp sơ thẩm đã áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo. Hơn nữa, bị cáo phạm tội có khung hình phạt từ 03 năm đến 10 năm tù, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù là tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An như đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.
Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Nguyễn Tấn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
sự;
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn Q; Giữ nguyên Bản
án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An.
Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.
Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự;
Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.
Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, buộc bị cáo Nguyễn Tấn Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Nơi nhận:
| TM. HỘI ĐỒNG XÉT XỬ PHÚC THẨM THẨM PHÁN - CHỦ TỌA PHIÊN TÒA
Dương Ngọc Thành |
Bản án số 227/2022/HS-PT ngày 27/12/2022 của TAND tỉnh Long An
- Số bản án: 227/2022/HS-PT
- Quan hệ pháp luật:
- Cấp xét xử: Phúc thẩm
- Ngày ban hành: 27/12/2022
- Loại vụ/việc: Hình sự
- Tòa án xét xử: TAND tỉnh Long An
- Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
- Đính chính: Đang cập nhật
- Thông tin về vụ/việc: 1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn Q; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 25/2022/HS-ST ngày 18 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Long An. 2. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn Q phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 260; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 50, khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Tấn Q 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.