Hệ thống pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM

TỈNH BẾN TRE

Bản án số: 19/2023/HNGĐ-ST Ngày: 14/02/2023

V/v ly hôn, tranh chấp về nuôi con

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

NHÂN DANH

NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM – TỈNH BẾN TRE

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:

Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa: Bà Đào Nguyễn Yến Phương

Các Hội thẩm nhân dân:

  1. Ông Phạm Quốc Toàn

  2. Bà Trần Ngọc Diệu

    • Thư ký phiên tòa: Bà Huỳnh Như Thắm

    • Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm tham gia phiên tòa: Bà Đỗ Thị Hồng Thắm – Kiểm sát viên

      Ngày 14/02/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 457/2022/TLST-HNGĐ, ngày 07/12/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 09/01/2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2023/QĐST-HNGĐ ngày 30/01/2023, giữa các đương sự:

    • Nguyên đơn: chị Trần Thị Cẩm T, sinh năm 1990 Địa chỉ: ấp K, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre

      Địa chỉ liên hệ: số 50/63, ấp L, xã H, huyện C, tỉnh Bến Tre

    • Bị đơn: anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1989

      Địa chỉ: số 517, ấp K, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre

      (chị T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; anh D vắng mặt tại phiên tòa không có lý do)

      NỘI DUNG VỤ ÁN:

      Theo nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T trình bày:

      Chị T và anh Nguyễn Văn D kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 27/10/2014. Sau khi kết hôn, anh chị sống tại số 517, ấp K, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, sau đó thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên

      gây gỗ, cãi vả nhau, anh chị ly thân từ tháng 01/2022 đến nay.

      Nay chị T xác định không còn tình cảm với anh D nữa, chị yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

    • Về hôn nhân: chị T yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn D, không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn.

    • Về con chung: chị T và anh Nguyễn Văn D có 1 con chung: Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 07/5/2015. Chị T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng.

    • Về tài sản chung: chị T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải

quyết.

- Về nợ chung: chị T khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do điều kiện ở xa, bận đi làm nên chị T có đơn đề nghị Tòa án giải quyết

vắng mặt chị.

* Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Bến Tre đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh Nguyễn Văn D đến để tiến hành hòa giải nhưng anh D vẫn vắng mặt không có lý do nên không thể tiến hành hòa giải được. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện G mở phiên tòa sơ thẩm xét xử công khai vụ án để Hội đồng xét xử xem xét quyết định.

Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay,

Nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt và vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như ban đầu.

Bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Riêng bị đơn anh Nguyễn Văn D đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

Về nội dung: đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị Cẩm

T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra

tại phiên tòa; căn cứ vào lời trình bày của đương sự trong quá trình giải quyết vụ án; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa; xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G; Hội đồng xét xử nhận định:

  1. Về tố tụng:

    • Chị Trần Thị Cẩm T khởi kiện yêu cầu Tòa án xem xét cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn D và được trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên.

      Do đó, Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án này là “Ly hôn,.

    • Bị đơn anh Nguyễn Văn D có địa chỉ cư trú tại ấp K, xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre. Do đó, căn cứ vào các Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện G thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

    • Chị Trần Thị Cẩm T có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với chị T.

    • Bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh D.

  2. Về nội dung:

    [2.1] Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn D kết hôn vào năm 2014, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện G, tỉnh Bến Tre vào ngày 27/10/2014. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

    Trong quá trình chung sống, chị T cho rằng chị và anh D bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên gây gỗ, cãi vả nhau, anh chị đã ly thân từ tháng 01/2022 đến nay. Chị T đã cố gắng hàn gắn tình cảm nhưng không thành; nay chị xác định không còn tình cảm với anh D nữa nên xin được ly hôn. Về phía anh D, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh D tham gia phiên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho các bên hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh D đã không đến Tòa án và cũng không có gửi văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị T. Qua đó, cho thấy tình cảm vợ chồng đã thực sự không còn; anh D có thái độ bỏ mặc, không hề có ý mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị T.

    Từ những phân tích trên xét thấy, mâu thuẫn giữa chị Trần Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn D đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài vì cả hai bên đều không ai mong muốn đoàn tụ, mục đích hôn nhân vì thế không đạt được nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai.

    [2.2] Về con chung: chị Trần Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn D có 1 con chung: Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 07/5/2015. Chị T yêu cầu sau khi ly hôn chị được trực tiếp nuôi con chung và yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con 1.000.000 đồng/tháng.

    Xét thấy, cháu Nguyễn Ngọc N hiện đang sống với mẹ và có cuộc sống, học tập, sinh hoạt ổn định. Việc sống chung với mẹ là phù hợp với ý kiến, nguyện vọng của cháu N. Ngoài ra, phía anh Nguyễn Văn D cũng không có ý

    kiến gì về vấn đề con chung. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận để chị Trần Thị Cẩm T là người trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Ngọc N cho đến khi thành niên.

    Về cấp dưỡng nuôi con, theo quy định tại khoản 2 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con. Do chị T là người trực tiếp nuôi con nên việc chị T yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con là phù hợp.

    Về mức cấp dưỡng nuôi con nhận thấy, chị T yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh thu nhập hàng tháng, khả năng thực tế của anh D có đủ để cấp dưỡng nuôi con theo mức mà chị T yêu cầu hay không nên không có cơ sở chấp nhận mức cấp dưỡng theo yêu cầu của chị T. Do đó, cần buộc anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật với mức cấp dưỡng là ½ mức lương cơ sở do Nhà nước quy định tại thời điểm xét xử sơ thẩm (1.490.000 đồng/tháng). Như vậy, anh D có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu N mỗi tháng

    745.000 đồng.

    [2.3] Về tài sản chung: chị Trần Thị Cẩm T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

    [2.4] Về nợ chung: chị Trần Thị Cẩm T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

    Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện G là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

  3. Về án phí: án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, chị Trần Thị Cẩm T phải chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Anh Nguyễn Văn D phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng theo quy định tại điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; các Điều 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

Áp dụng Nghị quyết số 326/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

Tuyên xử:

  1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị Cẩm T đối với bị đơn anh Nguyễn Văn D, cụ thể tuyên:

    • Về quan hệ hôn nhân: chị Trần Thị Cẩm T được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

    • Về con chung: chị Trần Thị Cẩm T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Ngọc N, sinh ngày 07/5/2015 cho đến khi thành niên. Anh Nguyễn Văn D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Ngọc N mỗi tháng 745.000 (bảy trăm bốn mươi lăm nghìn) đồng. Thời gian cấp dưỡng bắt đầu kể từ khi bản án của Tòa án có hiệu lực pháp luật cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi.

      Sau khi ly hôn, anh D được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

      Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

      Vì lợi ích về mọi mặt của con chung, khi cần thiết các bên đương sự được quyền yêu cầu Tòa án xem xét thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như mức cấp dưỡng nuôi con.

    • Về tài sản chung: chị Trần Thị Cẩm T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

    • Về nợ chung: chị Trần Thị Cẩm T khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

  2. Về án phí:

    Án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị Trần Thị Cẩm T phải chịu, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu số 0011182 ngày 05/12/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Bến Tre. Chị T đã nộp xong tiền án phí.

    Anh Nguyễn Văn D phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí cấp dưỡng.

  3. Về quyền kháng cáo: chị Trần Thị Cẩm T và anh Nguyễn Văn D vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

THÀNH VIÊN HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

THẨM PHÁN – CHỦ TỌA PHIÊN TÒA

Đào Nguyễn Yến Phương

THÔNG TIN BẢN ÁN

Bản án số 19/2023/HNGĐ-ST ngày 14/02/2023 của TAND huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre về vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình

  • Số bản án: 19/2023/HNGĐ-ST
  • Quan hệ pháp luật: Vụ án ly hôn về mâu thuẫn gia đình
  • Cấp xét xử: Sơ thẩm
  • Ngày ban hành: 14/02/2023
  • Loại vụ/việc: Hôn nhân và gia đình
  • Tòa án xét xử: TAND huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre
  • Áp dụng án lệ: Đang cập nhật
  • Đính chính: Đang cập nhật
  • Thông tin về vụ/việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” Trần Thị Cẩm T - Nguyễn Văn D
Tải về bản án